KHÔNG HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ 1 NĂM: TINH GIẢN, THÔI VIỆC
TINH GIẢN BIÊN CHẾ VỚI CÔNG CHỨC KHÔNG HOÀN
THÀNH NHIỆM VỤ: QUYẾT LIỆT NHƯNG CẦN CÂN NHẮC KỸ LƯỠNG
Mới đây, Bộ
Nội vụ đã trình dự thảo Nghị định sửa đổi quy định về tinh giản biên chế, trong
đó có đề xuất nổi bật là cán bộ, công chức, viên chức (gọi chung là cán bộ) không
hoàn thành nhiệm vụ trong một năm sẽ bị tinh giản biên chế. Một trong những nội
dung được chú ý là đề xuất tinh giản cán bộ, công chức, viên chức nếu không
hoàn thành nhiệm vụ trong một năm. Đây là bước đi thể hiện quyết tâm chính trị
rất lớn của các cơ quan hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả công vụ, xây dựng nền
hành chính chuyên nghiệp, trách nhiệm, liêm chính, phục vụ. Tuy nhiên, nếu triển
khai thiếu cân nhắc, thiếu chuẩn bị kỹ lưỡng, quy định này có thể gây ra những
hệ lụy không mong muốn, làm gia tăng tâm lý lo lắng trong đội ngũ công chức và ảnh
hưởng đến sự ổn định của bộ máy hành chính, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi
cả nước “vừa chạy vừa xếp hàng” để cải tổ bộ máy.
Áp lực từ quyết sách mạnh
tay
Theo quy định
hiện hành, cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ trong hai năm liên tiếp
mới bị xem xét tinh giản. Cụ thể là: 2 năm liên
tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ, công chức, viên chức
có 1 năm xếp loại mức “hoàn thành nhiệm vụ” và 1 năm “không hoàn thành nhiệm vụ”
nhưng không bố trí việc làm khác phù hợp. Trong khi đó, dự thảo nghị định mới
thì “trong năm trước liền kề” hoặc “trong năm thực hiện xét tinh giản biên chế”
xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ thì thuộc đối tượng tinh giản.
Có thể nói, đây là quy định mang tính “mạnh tay” hơn, “khắc khe” hơn, quyết liệt
hơn; thể hiện ý chí chính trị tinh giản bộ máy theo hướng hiệu lực, hiệu quả.
Tuy nhiên, công băng mà nói, nếu
rút ngắn còn một năm, thì chỉ sau một chu kỳ đánh giá – vốn còn thiếu
minh bạch và định lượng – một người có thể bị loại khỏi hệ thống thì trong nhiều
trường hợp, tạo ra áp lực tâm lý rất lớn, thậm chí hoang mang, nhụt chí, đặc biệt
trong bối cảnh các tiêu chí đánh giá công chức hiện nay vẫn còn nhiều bất cập.
Hiện tại, phương
thức đánh giá cán bộ còn “vị nể”, cảm tính, chưa áp dụng hệ thống chỉ số hiệu
quả công việc (KPIs), chưa phân biệt giữa chất lượng công việc với khối lượng
công việc; quy mô công việc và cơ cấu công việc; đầu việc “của mình” và đầu việc
do cấp trên giao,…. Do đó, nếu chỉ dựa vào kết quả đánh giá một năm mà chưa
phân tích bối cảnh, điều kiện làm việc, sự phối hợp liên ngành hay biến động
khách quan thì rất dễ xảy ra tình trạng đánh giá thiếu công bằng (từ chủ thể
đánh giá), thậm chí tạo dư địa cho chủ nghĩa thành tích, sự né tránh trách nhiệm
hoặc tư tưởng "an phận để tồn tại"; cán bộ đương đầu với nhiều rủi ro
(bị thôi việc)
Chính sách tốt nhưng cần
“thiện thời”
Không thể
phủ nhận một điều rằng, kỷ luật chính là động lực; kỷ luật sẽ thực hiện được
cái mà động lực không làm được; mục tiêu càng rõ ràng thì hiệu quả có thể đạt
được càng cao bởi loại bỏ những trường hợp trì trệ, cầm chừng, né tránh,… Tuy
nhiên, chính sách tốt muốn khả thi và có tính nhân văn phải được ban hành đúng
thời điểm và đi kèm với điều kiện thực thi đầy đủ. Trong bối cảnh hiện nay, khi
cả nước đang tiến hành sáp nhập các đơn vị hành chính, cơ cấu lại tổ chức bộ
máy, nhiều địa phương thực hiện tinh giản nhân sự đồng thời với tinh gọn đầu mối,
việc ban hành quy định tinh giản mạnh mẽ theo hướng một năm không hoàn thành
nhiệm vụ đã có thể bị loại sẽ khiến đội ngũ công chức chịu áp lực chồng áp lực.
Điều này đặc
biệt đáng lưu tâm với cán bộ ở cơ sở – nơi mà điều kiện làm việc còn nhiều hạn
chế, sự phối hợp công việc chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố ngoài năng lực cá
nhân. Áp dụng một cách cứng nhắc sẽ dễ dẫn đến tâm lý hoang mang, làm tổn
thương niềm tin và động lực phấn đấu, trong khi đây chính là những người đang
gánh vác nhiều phần việc sát dân nhất.
Hơn thế nữa, chúng ta cần nhìn thẳng
vào sự thật là, bệnh thành tích còn ám ảnh như bóng ma trong nền hành chính: Một
giáo viên chủ nhiệm rất sợ “học sinh bị lưu bang”; một lãnh đạo rất sợ cán bộ bị
kỷ luật (sa thải) bởi có khả năng ảnh hưởng đến cả tổ chức (và cá nhân người đứng
đầu); hiện tượng “nâng đỡ” theo kiểu “giúp người là giúp mình” còn tồn tại như
một sự hiển nhiên trong nền hành chính của chúng ta bởi hiện tại không ai khen
thưởng cho lãnh đạo, người đứng đầu khi trong đơn vị có (và có nhiều) người bị
tinh giản do không hoàn thành nhiệm vụ.
Đừng để “cải cách” bị “hành
chính hóa”
Tinh giản
biên chế là một yêu cầu mang tính chiến lược để nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ
máy hành chính. Nhưng tinh giản không thể là “lược bỏ” yếu tố hành chính, càng
không thể chỉ dựa vào những biểu hiện nhất thời. Cần phân biệt rõ giữa người
thiếu năng lực thực sự và người đang gặp khó khăn trong hoàn cảnh công việc nhất
định, nhất là trong điều kiện “thực hiện nhiệm vụ được giao” đặt trong điều kiện
“chức nghiệp” như hiện nay. Việc đánh giá công chức nếu thiếu cơ sở khoa học và
không đặt trong bối cảnh dài hạn sẽ dẫn đến tình trạng loại nhầm người có tiềm
năng phát triển, đồng thời làm sói mòn tinh thần đổi mới sáng tạo trong khu vực
công. Cán bộ sẽ ngại đổi mới và sợ rủi ro (bị thôi việc) là điều mà nền hành
chính không mong muốn!
Với xu hướng
hiện đại hóa nền hành chính, cần dứt khoát rời xa tư duy “mệnh lệnh”, thay vào
đó là tiếp cận quản trị công hiện đại – lấy hiệu quả thực chất, sự hài lòng của
người dân và năng lực đổi mới làm thước đo chính. Do vậy, chính sách tinh giản
cần tích hợp với các chính sách đánh giá năng lực, đào tạo lại, tạo cơ hội chuyển
đổi và gắn kết chặt chẽ với chiến lược sử dụng nhân lực trong dài hạn.
Một số ý kiến mang tính
giải pháp để chính sách đi vào cuộc sống
Để chính
sách cán bộ, công chức nói chung, chính sách tinh giản biên chế nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ nói riêng thực sự trở thành động lực cải cách bộ máy thay vì
gây xáo trộn, cần đồng bộ một số giải pháp then chốt:
Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống đánh giá công chức
chuẩn hóa, khoa học, minh bạch và khả thi. Các tiêu chí đánh giá phải cụ thể, định
lượng, có tham chiếu KPIs và phù hợp với đặc thù công việc từng vị trí. Việc
đánh giá không chỉ dựa vào kết quả cuối năm mà cần tính đến quá trình, bối cảnh,
mức độ đóng góp sáng kiến, sự phối hợp và cả thái độ làm việc. Trong nhiều trường
hợp, có thể “miễn trừ” khi cán bộ đó có tinh thần sáng tạo; trước đó có nhiều
thành tích; nhiều năm liền hoàn thành nhiệm vụ để tránh những rủi ro cho cán bộ.
Nói cách khác, quy định đánh giá cần chú trọng quá trình hơn là thời điểm.
Thứ hai, phải tăng cường cơ chế đánh giá đa chiều,
có phản hồi từ cấp dưới, đồng nghiệp và người dân (đối với vị trí công vụ liên
quan trực tiếp đến phục vụ công dân). Điều này giúp khắc phục tính chủ quan
trong đánh giá một chiều từ người quản lý trực tiếp. Trong nhiều trường hợp, vì
những lý do khác nhau (kể cả yếu tố chủ quan cá nhân của chủ thể đánh giá) có
thể nảy sinh yếu tố tiêu cực, trù dập; thiếu dân chủ, khách quan. Khi một bộ
công cụ đánh giá mang tính hệ thống, khoa học; chủ thể đánh giá thực hiện dân
chủ, công bằng thì việc quy định “1 năm không hoàn thành” thuộc diện tinh giản
sẽ không còn là nỗi lo cho một cán bộ mẫn cán.
Thứ ba, cần có lộ trình hỗ trợ năng lực trước khi
tinh giản. Chính sách tinh giản nên đi kèm với cơ chế đào tạo lại, tư vấn tâm
lý, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp nhằm đảm bảo người lao động có cơ hội thích
nghi và tái hòa nhập thị trường việc làm, giảm thiểu hệ quả xã hội không đáng
có. Điều này cần tính toán kỹ lưỡng hơn về cách tính tiền lương và các chế độ
trợ cấp khác khi bị tinh giản biên chế.
Thứ tư, tinh giản biên chế cần gắn với kế hoạch tuyển
dụng, điều chỉnh cơ cấu vị trí việc làm một cách linh hoạt. Tránh tình trạng giảm
biên chế đồng loạt nhưng không có chiến lược bổ sung, dẫn đến thiếu hụt nhân lực
ở các vị trí then chốt, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ nhân dân và đương
nhiên, có thể nảy sinh các vấn đề xã hội nảy sinh và dư luận xã hội tiêu cực.
Cuối cùng, cần đẩy mạnh truyền thông để công chức hiểu
đúng tinh thần của chính sách, tránh tâm lý lo sợ cực đoan. Từ đó, chuyển hóa sức
ép thành động lực nâng cao chất lượng công việc, chứ không phải thành gánh nặng
vô hình làm tê liệt sáng tạo và tinh thần cống hiến.
Tóm lại, cải
cách cần dũng khí – nhưng càng cần trí tuệ và nhân văn. Cải cách hành chính, đặc
biệt là cải cách đội ngũ công chức, là việc khó, đòi hỏi sự đồng thuận, kiên
trì và minh triết trong cách tiếp cận. Tinh giản biên chế không thể là “phép trừ
cơ học”, càng không thể là một cuộc thanh lọc thiếu thấu đáo. Cần hướng tới mục
tiêu cuối cùng là xây dựng một nền công vụ phục vụ, năng động, hiệu quả, chứ
không chỉ đơn thuần là giảm người để giảm gánh nặng ngân sách.
Một chính
sách hợp lý không chỉ cần đúng mục tiêu mà còn phải đúng thời điểm, có tính khả
thi và nhân văn. Nếu thiếu một trong ba yếu tố này, chính sách đó có thể từ động
lực cải cách trở thành rào cản khiến bộ máy thêm bất ổn. Cải cách chỉ thành
công khi nó được thực thi bằng lòng tin, sự công bằng và minh bạch – từ cả hai vế:
người làm chính sách và người thực thi; chủ thể và khách thể; trước mắt và lâu
dài./.
Nhận xét
Đăng nhận xét