PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

 

NHẬN THỨC VỀ PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

1.     Khái luận về phân tầng xã hội

1.1.         Khái niệm, nội dung

Đối với giới nghiên cứu khoa học ở nước ta, khái niệm phân tầng xã hội càng tương đối mới mẻ[1], có tác giả cho rằng, “Phân tầng xã hội có thể hiểu như là một sự phân chia và hình thành cấu trúc gồm các tầng xã hội (bao gồm cả sự phân loại, xếp hạng). Đó là sự phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế (hay tài sản), địa vị chính trị (hay quyền lực), địa vị xã hội (hay uy tín) cũng như một số khác biệt về trình độ nghề nghiệp, học vấn, kiểu nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, thị hiếu nghệ thuật…”[2]. Với cách tiếp cận xã hội học thì phân tầng xã hội có những đặc điểm: Phân tầng xã hội diễn ra ở nhiều khía cạnh như chính trị, kinh tế, địa vị xã hội, học vấn; phân tầng xã hội có tính phổ quát trên phạm vi toàn cầu; phân tầng xã hội tồn tại theo lịch sử, theo các thể chế chính trị; phân tầng xã hội tồn tại trong các nhóm dân cư, giai cấp, tầng lớp xã hội. Được duy trì bền vững trước hết là do điều kiện vật chất xã hội, thể chế chính trị và còn phải kể đến yếu tố niềm tin xã hội[3].

Tại Việt Nam, cho đến thời điểm hiện nay đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến phân tầng xã hội cả ở khía cạnh lý luận và thực tiễn. Về lý luận, có học giả phân chia hiện tượng phân tầng thành hai kiểu loại: phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không hợp thức[4].

Phân tầng xã hội hợp thức: phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng dựa trên sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), điều kiện cơ may cũng như sự phân công lao động xã hội. Nói “hợp thức” không chỉ đơn thuần là phù hợp với luật pháp, chuẩn mực đạo đức xã hội mà còn là sự phù hợp với khả năng và mục tiêu đi lên của con người và xã hội. Hợp thức còn được hiểu là khả năng đạt được bằng tài năng, đức độ của cá thể đó. Người có tài năng càng cao, đức độ càng rộng, cống hiến cho xã hội càng nhiều thì người đó xứng đáng đứng vào vị trí cao trong xã hội, được xã hội giao phó nắm giữ những quyền lực xã hội trọng yếu để lãnh đạo, quản lý xã hội. Và lẽ đương nhiên, họ cũng xứng đáng được xã hội coi trọng, suy tôn và được hưởng những lợi ích vật chất tương ứng. Ngược lại, người kém tài năng, đức mỏng, sức mọn, cống hiến cho xã hội ít hơn thì sẽ đương nhiên đứng ở vị trí xã hội thấp hơn và được hưởng những quyền lợi tương ứng với địa vị đó, phù hợp với sự đóng góp của họ. Xét về bản chất thì, phân tầng xã hội hợp thức tức là “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”[5]. Với cách tiếp cận này thì rõ ràng phân tầng xã hội thể hiện sự công bằng xã hội và là yếu tố tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội và là “đích đến” mà con người và xã hội mong muốn đạt đến. Bởi lẽ, như đã nói, một xã hội như thế sẽ tạo ra động lực thúc đẩy những thành viên trong xã hội phải nổ lực cố gắng vươn lên, phát huy tài năng và năng lực của bản thân để đạt được những “lợi ích” tương ứng, mà như vậy sẽ thúc đẩy cho xã hội phát triển nhanh hơn, tốt đẹp hơn. Phân tầng xã hội hợp thức tạo ra bộ mặt nhân bản, nhân văn, nhân ái của xã hội, đồng thời khắc phục được những tư tưởng bảo thủ, ích kỉ, hẹp hòi, đố kị, ganh ghét với những người (nhóm người) hơn mình. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra được những chuẩn mực cho sự đánh giá cá nhân trong xã hội, giúp cho họ có thể tự đặt ra những mục tiêu phù hợp để phấn đấu; đồng thời biết tự bằng lòng với những gì mình có, không ỷ lại, không lười biếng nhưng cũng không quá tham lam và ảo tưởng về mình. Một xã hội mà mỗi người đều tự biết mình, biết người, tự đặt mình vào vị trí của người khác, biết nhìn nhận và đánh giá bản thân từ vị trí xã hội hiện hữu, hành động theo đúng với vai trò, vị thế, danh phận của bản thân thì chắc chắn rằng xã hội đó sẽ là một xã hội có trật tự, ổn định, công bằng, hài hòa và phát triển. Như vậy, chúng ta đương nhiên là thừa nhận, cổ xúy, ủng hộ và làm mọi cách để bảo vệ và nhân rộng mô thức phân tầng xã hội hợp thức này. Hơn nữa, nó cần được thiết chế hóa và áp dụng rộng rãi trong cuộc sống. Chính phủ cần tạo ra hành lang pháp lý cần thiết, rộng rãi và cởi mở để mọi người đều có thể phát huy được năng lực của mình, cống hiến thật nhiều cho xã hội và được hưởng các lợi ích mà họ xứng đáng nhận được theo đúng luật pháp của nhà nước và sự kỳ vọng của xã hội.

Phân tầng xã hội không hợp thức: Phân tầng xã hội không hợp thức là tất cả những gì đối lập với phân tầng xã hội hợp thức. Có nghĩa là phân tầng xã hội không hợp thức không dựa trên sự khác biệt giữa các cá nhân (về đức độ, tài năng, năng lực, thể chất, trí tuệ) và sự đóng góp thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội. Tức là chúng ta không thừa nhận có sự khác biệt một cách tự nhiên giữa các cá nhân, các nhóm xã hội về năng lực (thể chất, tinh thần), về điều kiện cơ may, về sự đóng góp của cá nhân cho xã hội, mà ngược lại, phân tầng xã hội không hợp thức dựa trên những hoạt động bất chính, phạm pháp, những hành vi vô đạo đức, chà đạp lên luân thường đạo lý để đạt được những lợi ích (vật chất và tinh thần). Theo đó, sự giàu có về tài sản là do tham nhũng, lừa gạt, buôn gian bán lận, làm ăn phi pháp; sự đạt được một địa vị xã hội nào đó là do luồn lọt, xu nịnh, mánh khóe, thủ đoạn để chiếm đoạt một địa vị xã hội; sự đạt được những uy tín xã hội nào đó không phải thông qua tài rộng, đức cao mà là do sự khôn khéo, lừa lọc, xu nịnh để mang lại uy tín giả tạo hoặc ngược lại, do chính sự lười biếng, dựa dẫm, ỷ lại mà rơi vào tình trạng nghèo khổ, hèn kém. Trong một xã hội tồn tại dạng phân tầng xã hội không hợp thức thì kẻ bất tài, vô dụng, lười biếng vẫn có thể chiếm được một trị ví xã hội cao, chiếm đoạt nhiều của cải và làm giàu bất chính, được ăn trên ngồi trốc lại có quyền lực chi phối người khác. Ngược lại, những người có đức, có tài chưa chắc được xã hội coi trọng, thậm chí bị vùi dập, ngược đãi, bạc đãi trong đối xử. Nó là xiềng xích trói buộc năng lực sáng tạo của con người, làm thui chột năng lực thể chất là tinh thần của những người lao động chân chính, là cội nguồn của sự bất bình đẳng xã hội, xung đột và bất ổn định xã hội, đó mới thực sự là sự bất công xã hội. Trong trường hợp đặc biệt nó sẽ tạo ra những đối kháng xã hội mà đỉnh cao là phá vỡ trật tự xã hội dẫn đến mâu thuẫn, khủng hoảng xã hội.

Theo cách tiếp cận này, phân tầng xã hội không hợp thức là yếu tố tiêu cực, xã hội không mong đợi. Chính vì thế cần phải có thái độ dứt khoát với kiểu phân tầng này để có những động thái tích cực loại dần nó ra khỏi cuộc sống cộng đồng. Đương nhiên, đối với những người nghèo khổ, bị rủi ro, tai nạn, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm lao động chúng ta cần thiết phải cưu mang, phải đùm bọc giúp đỡ bằng những chính sách tương ứng như bảo đảm xã hội, an sinh xã hội, trợ giúp xã hội, dần từng bước nâng cao năng lực và mức sống cho nhóm người này, góp phần ổn định xã hội, tiến đến mục tiêu công bằng xã hội, tiến bộ xã hội[6].

1.2. Bản chất của phân tầng xã hội

Bản chất của phân tầng xã hội nằm ở sự bất bình đẳng có tổ chức, mang tính khách quan, tất yếu và phổ quát, được duy trì bởi các cấu trúc xã hội. Dù tồn tại bất bình đẳng, phân tầng xã hội cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự, phân công lao động và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, cần quản lý tốt phân tầng để hạn chế bất công và thúc đẩy công bằng xã hội. Bản chất của phân tầng xã hội thể hiện ở những tính chất cơ bản sau:

(1). Tính bất bình đẳng có tổ chức

Phân tầng xã hội là sự sắp xếp bất bình đẳng giữa các cá nhân hoặc nhóm người trong xã hội dựa trên quyền lực, tài sản, uy tín, hoặc vị trí xã hội. Tính bất bình đẳng này không phải là ngẫu nhiên mà được duy trì và tổ chức theo các chuẩn mực xã hội. Ví dụ: Sự khác biệt về quyền sở hữu tài sản giữa các nhóm giàu và nghèo hoặc sự chênh lệch về quyền lực giữa nhà lãnh đạo và người lao động.

(2). Tính hệ thống và bền vững

Phân tầng xã hội là một hệ thống có tính ổn định cao, thường tồn tại lâu dài qua nhiều thế hệ. Nó không chỉ là sự khác biệt cá nhân mà còn là sự khác biệt mang tính nhóm hoặc giai tầng, được duy trì thông qua các thiết chế xã hội như gia đình, giáo dục, kinh tế và chính trị. Ví dụ: Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các tầng lớp như vua, quan, địa chủ và nông dân tồn tại trong suốt nhiều thế kỷ và được củng cố bởi hệ tư tưởng thời kỳ đó.

(3). Tính khách quan

Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, xuất phát từ các yếu tố như điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, và văn hóa. Nó không phụ thuộc vào ý chí hay mong muốn của bất kỳ cá nhân hay nhóm nào mà được quyết định bởi cấu trúc xã hội và quan hệ sản xuất. Ví dụ: Trong xã hội tư bản, sự phân tầng giữa tầng lớp tư bản và công nhân là kết quả của quan hệ sở hữu và sản xuất, không phải là sự lựa chọn chủ quan.

(4). Tính tất yếu và phổ quát

Phân tầng xã hội là một đặc điểm tất yếu của mọi xã hội có tổ chức, từ xã hội nguyên thủy đến hiện đại. Dù dưới các hình thức khác nhau, phân tầng xã hội vẫn tồn tại để đảm bảo sự vận hành và phát triển của xã hội. Ví dụ: Xã hội nguyên thủy phân chia dựa trên năng lực săn bắt hoặc vị trí lãnh đạo; xã hội hiện đại phân tầng dựa trên trình độ học vấn, nghề nghiệp, và thu nhập.

(5). Tính động và biến đổi

Phân tầng xã hội không cố định mà có thể thay đổi qua thời gian dưới tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, và văn hóa. Sự thay đổi này có thể làm xuất hiện các tầng lớp mới hoặc thay đổi vị trí của các tầng lớp cũ trong hệ thống xã hội. Ví dụ: Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam đã tăng nhanh trong giai đoạn Đổi Mới nhờ sự phát triển kinh tế và cải cách chính sách.

(6). Tính tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các tầng lớp

Các tầng lớp trong hệ thống phân tầng không tồn tại độc lập mà có sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi tầng lớp đóng một vai trò nhất định trong hệ thống xã hội, tạo nên sự vận hành chung. Ví dụ: Doanh nhân (người sở hữu tư liệu sản xuất) cần lao động từ công nhân để sản xuất, trong khi công nhân phụ thuộc vào doanh nhân để có việc làm.

2.     Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phân tầng xã hội

Tính tất yếu của phân tầng xã hội thể hiện qua các khía cạnh sau: (1.) Sự khác biệt tự nhiên và xã hội giữa con người. Khác biệt tự nhiên: Con người có sự khác biệt về năng lực thể chất, trí tuệ, và tài năng bẩm sinh. Những khác biệt này dẫn đến việc mỗi cá nhân có khả năng đóng góp khác nhau trong xã hội.
Ví dụ: Một người có sức khỏe tốt có thể lao động nặng nhọc hơn, trong khi người có trí tuệ sắc sảo có thể đảm nhiệm các vai trò quản lý. Khác biệt xã hội:
Các yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện gia đình, và văn hóa ảnh hưởng đến khả năng và cơ hội phát triển của mỗi cá nhân, từ đó tạo ra sự phân tầng. Ví dụ: Người được giáo dục tốt thường có thu nhập cao hơn và nắm giữ các vị trí có uy tín; (2) Nhu cầu tổ chức và vận hành xã hội. Xã hội không thể vận hành nếu tất cả mọi người đều giữ vai trò giống nhau. Phân tầng xã hội giúp phân công lao động và trách nhiệm, đảm bảo các vai trò khác nhau trong xã hội được thực hiện một cách hiệu quả.

Ví dụ: Trong một tổ chức, cần có nhà quản lý, nhân viên thực hiện, và nhân viên hỗ trợ; mỗi tầng lớp đảm nhiệm vai trò khác nhau để đạt được mục tiêu chung. Phân tầng xã hội cũng duy trì trật tự xã hội thông qua việc thiết lập các hệ thống giá trị và chuẩn mực, xác định vị trí của từng cá nhân và nhóm xã hội.; (3) Quy luật phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình sản xuất, phân phối, và tiêu dùng, sự chênh lệch về quyền sở hữu tài sản, quyền lực, và cơ hội tạo ra các nhóm xã hội khác nhau. Ví dụ: Ở xã hội nông nghiệp, sự phân tầng thể hiện qua chủ đất và tá điền. Trong xã hội công nghiệp, nó biểu hiện qua nhà tư bản và công nhân. Các yếu tố như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và toàn cầu hóa tiếp tục thúc đẩy sự phân tầng, khi những người nắm bắt được cơ hội công nghệ và tri thức vượt trội sẽ có vị thế cao hơn; (4) Phân tầng xã hội là động lực phát triển. Phân tầng xã hội tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân và nhóm xã hội, khuyến khích họ nâng cao năng lực, sáng tạo, và đóng góp cho xã hội. Ví dụ: Một sinh viên mong muốn vươn lên tầng lớp trung lưu sẽ nỗ lực học tập và tìm kiếm công việc có thu nhập cao hơn. Sự khác biệt về địa vị và tài sản thúc đẩy quá trình phân phối lại tài nguyên thông qua các chính sách phúc lợi xã hội hoặc tái đầu tư vào giáo dục và y tế; (5) Tính phổ quát và lịch sử của phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội đã tồn tại trong mọi giai đoạn lịch sử và mọi hình thái kinh tế - xã hội: (i) Xã hội nguyên thủy: Phân tầng dựa trên năng lực săn bắn, hái lượm; (ii) Xã hội phong kiến: Phân tầng rõ rệt giữa vua, quý tộc, địa chủ, và nông dân; (iii) Xã hội hiện đại: Phân tầng dựa trên trình độ học vấn, nghề nghiệp, và quyền sở hữu tài sản. Sự thay đổi trong hình thái phân tầng cho thấy đây là hiện tượng tất yếu gắn liền với sự vận hành và phát triển của xã hội.

Như vậy, tính tất yếu của phân tầng xã hội xuất phát từ bản chất con người, nhu cầu tổ chức xã hội, và các quy luật kinh tế - xã hội. Dù xã hội có xu hướng thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng, phân tầng vẫn tồn tại như một phần tất yếu của sự phát triển xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự và thúc đẩy tiến bộ.

3.     Vận dụng vào thực hiện trong bối cảnh hiện nay

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, việc nhận thức và quản lý phân tầng xã hội một cách hiệu quả có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo sự ổn định và thúc đẩy phát triển bền vững. Dưới đây là cách vận dụng tính tất yếu của phân tầng xã hội vào thực tiễn:

(1) Nhận diện các tầng lớp xã hội hiện nay tại Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam đang có sự phân tầng xã hội rõ rệt với các nhóm chính:

- Doanh nhân và tầng lớp giàu có: Những người thành công trong kinh doanh, đầu tư và sở hữu khối tài sản lớn.

- Tầng lớp trung lưu: Bao gồm nhân viên văn phòng, kỹ sư, giáo viên, và cán bộ có mức thu nhập ổn định.

- Người lao động phổ thông: Công nhân, nông dân, và người làm việc trong các ngành nghề phi chính thức.

- Người yếu thế: Những người nghèo, người khuyết tật, và những nhóm gặp khó khăn trong tiếp cận cơ hội kinh tế - xã hội.

Việc nhận diện này giúp nhà nước đưa ra các chính sách phù hợp với đặc điểm của từng nhóm, từ đó giảm thiểu các bất bình đẳng xã hội.

(2). Phân tầng xã hội gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Tăng cường phân công lao động và chuyên môn hóa: Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đòi hỏi sự phân công lao động rõ ràng, tạo ra các tầng lớp xã hội mới như công nhân kỹ thuật cao, chuyên gia công nghệ, và nhà quản lý. Điều này tất yếu dẫn đến phân tầng xã hội dựa trên năng lực và trình độ. Ví dụ: Các khu công nghiệp tại Đà Nẵng hoặc Bình Dương tạo ra tầng lớp công nhân và quản lý công nghiệp, gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế địa phương.

Thu hẹp khoảng cách nông thôn và thành thị: Nhà nước cần chú trọng đầu tư hạ tầng và dịch vụ công ở nông thôn để giảm sự phân hóa giữa các khu vực, nâng cao vị thế của tầng lớp nông dân trong hệ thống phân tầng xã hội.

(3). Chính sách xã hội nhằm giảm thiểu bất bình đẳng

Mặc dù phân tầng xã hội là tất yếu, nhà nước cần có chính sách nhằm giảm thiểu các hệ lụy tiêu cực như bất bình đẳng quá mức:

Chính sách tín dụng xã hội: Cung cấp vốn vay ưu đãi cho các nhóm yếu thế (hộ nghèo, hộ cận nghèo) để phát triển sản xuất và cải thiện thu nhập. Ví dụ: Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam triển khai nhiều chương trình hỗ trợ người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.

Đầu tư giáo dục và đào tạo nghề: Tăng cường cơ hội học tập và đào tạo nghề cho người dân ở mọi tầng lớp, đặc biệt là giới trẻ và lao động phổ thông, giúp họ có cơ hội vươn lên trong hệ thống phân tầng. Ví dụ: Các trung tâm đào tạo nghề miễn phí hoặc ưu đãi học phí cho người nghèo tại các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.

Xây dựng mạng lưới an sinh xã hội toàn diện: Bảo đảm người dân đều được tiếp cận các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, và nhà ở, từ đó hạn chế nguy cơ tụt hậu của nhóm yếu thế.

(4). Quản lý tầng lớp giàu có và trung lưu

Khuyến khích đóng góp xã hội: Nhà nước cần tạo ra các cơ chế khuyến khích tầng lớp giàu có và trung lưu tham gia các hoạt động từ thiện, đầu tư cộng đồng, và đóng thuế đầy đủ để hỗ trợ các nhóm yếu thế. Ví dụ: Các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam thường xuyên thực hiện trách nhiệm xã hội qua các dự án giáo dục và y tế.

Giảm bất bình đẳng trong phân phối tài sản. Áp dụng hệ thống thuế lũy tiến, đảm bảo người có thu nhập cao đóng góp nhiều hơn vào ngân sách nhà nước để thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội.

(5). Vai trò của văn hóa trong quản lý phân tầng xã hội

Xây dựng văn hóa đoàn kết và bình đẳng: Tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sự đoàn kết giữa các tầng lớp xã hội, tránh tâm lý phân biệt hoặc định kiến giữa giàu và nghèo.

Thúc đẩy các giá trị văn hóa truyền thống: Các giá trị như "tương thân tương ái" và "lá lành đùm lá rách" cần được phát huy để tạo sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhóm xã hội.

Tóm lại, ở Việt Nam, phân tầng xã hội là một hiện tượng tất yếu gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo công bằng và ổn định, cần có sự quản lý hiệu quả nhằm giảm thiểu bất bình đẳng, thúc đẩy cơ hội vươn lên cho tất cả các tầng lớp, và khai thác tối đa tiềm năng từ sự phân tầng để xây dựng một xã hội hài hòa và phát triển bền vững.

4.     Kết luận

Phân tầng xã hội là một hiện tượng tất yếu và khách quan trong sự phát triển của mọi xã hội, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh hiện đại, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã làm nổi bật hơn các tầng lớp xã hội, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với việc quản lý phân tầng. Mặc dù phân tầng xã hội là không thể tránh khỏi, nhưng việc xây dựng các chính sách hợp lý, đầu tư vào giáo dục, an sinh xã hội, và giảm bất bình đẳng sẽ giúp khai thác tiềm năng từ sự phân tầng để thúc đẩy phát triển bền vững, bảo đảm công bằng và ổn định trong xã hội. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các tổ chức xã hội, và mọi tầng lớp nhân dân để hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, hài hòa, phát triển toàn diện, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thịnh vượng và phồn vinh!

TS. Phạm Đi



[1] Có ý kiến cho rằng, khái niệm phân tầng xã hội chỉ xuất hiện chính thức trong các tài liệu chính thống ở nước ta vào những năm 90 của thế kỉ 20.

[2] Nguyễn Đình Tấn (chủ biên), Giáo trình xã hội học trong quản lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr.70

[3] Nguyễn Minh Hòa, Xã hội học những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục. 1999, tr.68

[4] Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội & Phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005, tr.120-123.

[5] Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia - Hà Nội, 1999, tr. 120.

[6] Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý, Nxb CTQG ST, H.2021.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ