ĐÀ NẴNG: LÀM GÌ ĐỂ VĂN HÓA LÀ ĐỘNG LỰC CHO PHÁT TRIỂN?
LÀM GÌ ĐỂ VĂN HÓA THỰC SỰ LÀ NGUỒN LỰC TRONG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG?
Nghị quyết
số 136/2024/QH15 ngày 26/6/2024 của Quốc hội “Về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc
thù phát triển thành phố Đà Nẵng” là điểm tựu, là nền tảng, là bệ phóng, là
căn cứ chính trị-pháp lý hết sức quan trọng để Đà Nẵng hiện thực hóa chiến lược
phát triển bao trùm, toàn diện, đô thị thông minh và sớm trở thành “một trong những trung tâm kinh
tế - xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á với vai trò là trung tâm về khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại, tài chính, logistics, công nghiệp công
nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghiệp hỗ trợ; là một trong những trung tâm
văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học - công
nghệ phát triển của đất nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và
quốc tế; thành phố cảng biển, đô thị biển quốc tế với vị trí là hạt nhân của
chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung - Tây
Nguyên; trở thành đô thị sinh thái, hiện đại và thông minh, thành phố đáng sống,…”[1].
Thế nhưng,
một điều chắc chắn cần phải nhấn mạnh là, một trong những mục tiêu xuyên suốt,
hằng định, có tính sống còn để tạo nên “thương hiệu” cho bất kỳ một thành phố
nào, mà Đà Nẵng không là ngoại lệ, là bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đô
thị, để văn hóa thực sự là nguồn lực thúc đẩy phát triển nhưng cũng là giá trị
tạo nên cốt cách của Đà Nẵng, một thành phố “đáng đến và đáng sống”.
Muốn làm
được điều đó, trước hết phải nhận thức một cách sâu sắc về giá trị và sức mạnh
của văn hóa trong toàn bộ tiến trình lịch sử của thành phố Đà Nẵng và tiến hành
phân tích, bóc tách để “chạm khảm” các giá trị đó vào từng lĩnh vực trong đời sống
xã hội, trong từng hoạt động, dự án, đề án phát triển; thao tác hóa các giá trị
đó thành những tiêu chí có thể lượng giá được để thấy được văn hóa không chỉ,
và không bao giờ chỉ là “giá trị tinh thần” mà là các giá trị vật chất, cùng với
kinh tế, có thể thúc đẩy phát triển toàn diện cho Đà Nẵng. Muốn vậy, cần phải
thực hiện một số biện pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Hiện tại, “thương hiệu du lịch Đà Nẵng” cũng
đã được hình thành thông qua hàng loạt các hoạt động văn hóa mang tầm quốc tế.
Thế nhưng, nếu tiếp cận qua lăng kính du lịch xanh, du lịch bền vững thì cũng
còn nhiều vấn đề cần phải nghiêm túc nhìn nhận và có giải pháp “đúng và trúng”
hơn nữa. Chẳng hạn, một số “biểu tượng”, điểm sáng về du lịch Đà Nẵng như tổ chức
các sự kiện lớn là Lễ hội pháo hoa quốc tế (DIFF), Festival âm nhạc biển; biểu
tượng “Cầu Vàng” tại Bà Nà Hills,… nhưng đó là các “biểu tượng văn hóa hiện đại”.
Các “biểu tượng” này có sức hút mạnh mẽ nhưng nó cũng có thể nhanh chóng “xóa
nhòa” trong tâm khảm của du khách bởi “tính mới”, “tính hiện đại” của nó. Kinh
nghiệm cho thấy, cái “hồn cốt”, “cốt cách”, “cái thiêng” của một đô thị thường ẩn
bên trong những giá trị văn hóa truyền thống, được “tinh luyện” và lắng đọng
qua dòng chảy của thời gian gắn với con người, với tự nhiên, với các di tích lịch
sử.
Do đó, bên cạnh phát triển các “biểu tượng văn hóa hiện đại” cần phải bảo
tồn và phát triển các “biểu tượng văn hóa truyền thống” của Đà Nẵng đã được sản
sinh từ hoạt động sống theo dòng chảy lịch sử đến hiện tại như các làng nghề
(Làng nghề nước nắm Nam Ô, Làng chiếu Cẩm Nê, Làng đá mỹ nghệ Non Nước, Làng bánh khô mè Cẩm Lệ, Làng hoa Dương Sơn,
Làng nón Hòa Vang, Làng rèn Thanh Khê, Làng nghề làm mộc Hòa Nhơn,…) cũng như
duy trì (một cách có hệ thống, khoa học và đảm bảo tính lịch sử) các lễ hội
truyền thống đặc sắc như Lễ hội Quán Thế Âm, Lễ hội Cầu Ngư, Lễ hội Đình làng
Hòa Mỹ, Lễ hội Thần Hoàng làng Túy Loan, Lễ hội Mục Đồng (Hòa Vang), Lễ hội
Xuân Đình Bảng (Mỹ Khê),… Cần phải ghi nhớ rằng, “sức hút” và sự quyến rũ của một
thành phố không chỉ nằm ở các kiến trúc hiện đại, các giá trị văn hóa hiện đại
mà chủ yếu là ở các lớp trầm tích được lắng động nhiều thế hệ gắn với con người,
với tư cách là chủ thể, linh hồn của đô thị đó. Do đó, các làng nghề và lễ hội
truyền thống không chỉ là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa mà chính nó là nguồn lực,
tiềm năng lớn trong phát triển du lịch (nhất là du lịch trải nghiệm) và nâng
cao giá trị kinh tế cho địa phương, gắn kết cộng đồng.
Thứ hai,
không ngừng nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần cho người dân. Văn hóa là đời sống tinh thần xã hội. Do đó, cần đẩy
mạnh các hoạt động văn hóa cộng đồng, phát triển các phong trào văn hóa, văn
nghệ tại các khu dân cư và tạo điều kiện (bằng cơ chế, chính sách, tài chính một
cách cụ thể) để mọi tầng lớp nhân dân có cơ hội tham gia, đóng góp đời sống văn
hóa cộng đồng. Cần phải nhận thức một cách sâu sắc rằng, văn hóa và hệ thống
các giá trị hình thành, nhào nặn nên hồn cốt, cốt cách và được “chạm khắc” vào
toàn bộ đời sống xã hội từ hoạt động sinh tồn, hoạt động sống, hoạt động lao động
sản xuất, hoạt động tôn giáo tín ngưỡng; hoạt động giao lưu, giao tế, hoạt động
vui chơi, giải trí. Từ đó càng làm phong phú, “bồi đắp” thêm để “thành trì” văn
hóa được vững chắc hơn, phong phú hơn, sinh động hơn. Trong bối cảnh và yêu cầu
phát triển bền vững thì vai trò của cộng đồng địa phương trong phát huy các giá
trị văn hóa phải được xác định, khẳng định và hình thành cơ chế phù hợp để cộng
đồng - chủ thể quan trọng – tiếp tục phát huy hơn nữa vị thế, vai trò của mình.
Do tính chất lịch sử và các yêu cầu về sinh tồn, phát
triển, các cộng đồng “sản sinh”, sáng tạo ra các giá trị trong đó văn hóa và
chính họ là chủ thể hưởng thụ những giá trị văn hóa mang lại. Có thể ví von văn
hóa chính là “căn cước của cộng đồng”. Từ cách tiếp cận này nhìn nhận, thúc đẩy,
định hình, gắn kết vai trò của cộng đồng trong bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa chính là “hoàn nguyên vai trò” để mỗi cá nhân trong cộng đồng “cộng đồng
hóa trách nhiệm” và sẻ chia, thụ hưởng các giá trị (vật chất, tinh thần) mà văn
hóa mang lại, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Trong điều kiện của Đà Nẵng, trước hết cần tiến hành
xây dựng và nâng cấp hạ tầng văn hóa, phát triển hệ thống các thiết chế văn hóa
cộng đồng hiện hữu. Tiến hành thống kê, đánh giá một cách khoa học hiện trạng
các nhà văn hóa, trung tâm văn hóa-thể thao tại các quận/huyện (đặc biệt là khu
vực ngoại thành); tiến hành nâng cấp hệ thống thư viện, bảo tàng, rạp chiếu
phim, công viên để đáp ứng các nhu cầu học tập, vui chơi, giải trí của người
dân. Song song với đó, cần kiến tạo các không gian văn hóa công cộng hiện đại
như phát triển các không gian xanh, công viên sáng tạo để tổ chức các sự kiện
văn hóa cộng đồng; hình thành các khu biểu diễn nghệ thuật ngoài trời, đường
sách, phố đi bộ gắn với các hoạt động văn hóa. Về mặt chiến lượt, cần suy nghĩ
hình thành tổ hợp phim trường mang tầm cỡ khu vực và quốc gia để phát triển nền
công nghiệp văn hóa, cụ thể là văn hóa điện ảnh cho Đà Nẵng. Song song với đó,
cũng cần có chiến lược nhiên cứu, đúc kết để “chỉ ra nét đặc trưng” về con người
Đà Nẵng, cốt cách Đà Nẵng, lối sống Đà Nẵng,…để tiếp tục hun đúc, tạo nên hình ảnh
một thành phố đáng đến và đáng sống gắn với con người bình dị, gần gũi, tình
thương, trách nhiệm,…
Thứ ba, phát
huy vai trò của cộng đồng, nhân dân Đà Nẵng trong bảo tồn, phát triển các giá
trị văn hóa. Văn hóa, quản
lý văn hóa nói chung, hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa – với tư
cách là một thiết chế, một lĩnh vực trọng yếu trong đời sống xã hội, một nhân tố
thúc đẩy phát triển địa phương – cũng cần phải được định hướng bằng đường lối,
chủ trương của chính quyền. Thế nhưng, không còn nghi ngờ gì nữa, quần chúng
nhân dân là chủ thể của văn hóa. Nói cách khác, cần phải có cơ chế, chính sách
(đặt biệt là tài chính) để “thúc đẩy” người dân tham gia các hoạt động, sự kiện
văn hóa địa phương.
Thực tế ở Đà Nẵng cho thấy, không ít các lễ hội văn
hóa, hoạt động văn hóa, sự kiện văn hóa được “tổ chức” từ ý chí chủ quan của một
số ít người với hàm ý là “phát huy giá trị văn hóa địa phương” trong phát triển
kinh tế-xã hội và hoạt động du lịch. Điều này không sai nếu đặt trong bối cảnh
và yêu cầu phát triển bền vững như hiện nay. Thế nhưng, tổ chức các lễ hội, các
hoạt động văn hóa không thể nóng vội, nhất là thiếu sự tham gia, giám sát, góp
ý của cộng đồng mà nhất là những người có tri thức bản địa, người có uy tín
trong cộng đồng. Thực ra, sự “hưởng thụ” văn hóa không chỉ dừng lại ở bình diện
“được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra” của cộng đồng dân cư mà còn có
trách nhiệm tổ chức thực hiện, duy trì các hoạt động (gắn với hoạt động sống,
hoạt động tâm linh, hoạt động tín ngưỡng,…) mà ở đó các giá trị văn hóa được
khu trú và “khai quật”. Trong trường hợp này, “hưởng thụ” văn hóa cũng là “tiêu
thụ” và “truyền thụ” các giá văn hóa để tiếp tục “kéo dài”, củng cố các hệ giá
trị văn hóa cố hữu gắn với các nhóm dân cư, cộng đồng địa phương. Do đó, để văn
hóa thực sự là nguồn lực cho phát triển, là “chất keo” kết dính cộng đồng, là
“chất xúc tác” cho phát triển kinh tế Đà Nẵng thì việc thu hút, tạo điều kiện, kêu gọi cá nhân,
tổ chức, cộng đồng tham gia thực hiện các hoạt động, sự kiện, phát huy các giá
trị văn hóa theo phương thức xã hội hóa, đa chủ thể, đa phương diện. Có như vậy
thì các nét văn hóa mới được bảo tồn, giá trị văn hóa mới được phát huy, hồn cốt
văn hóa mới được gìn giữ,…
Thứ tư, tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa, kêu gọi sự tham gia
giám sát của cộng đồng trong các hoạt động văn hóa. Để văn
hóa thực sự là sức mạnh nội sinh, là nguồn lực quan trọng cho phát triển của địa
phương thì công tác quản lý phát triển văn hóa phải được chú trọng. Theo đó, cần
có sự chỉ đạo quyết liệt từ các cấp lãnh đạo, phân công phối hợp giữa các cơ
quan như Sở Văn hóa và Thể thao, sở và các cơ quan hữu quan khác. Có cơ chế
phân cấp, phân quyền rõ ràng về trách nhiệm quản lý văn hóa từ cấp thành phố đến
quận, huyện và phường, xã. Đặc biệt, cần có chế tài cụ thể, nghiêm khắc cho những
cá nhân, nhóm, cộng đồng khi tổ chức các hoạt động, sự kiện văn hóa nhưng lại lợi
dụng danh nghĩa để trục lợi, tuyên truyền mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh
kiểu thương mại hóa. Thực tế cho thấy, không ít các nét văn hóa, giá trị văn
hóa bị “méo mó” bởi những hành vi “thiếu văn hóa” và lợi dụng “văn hóa” để trục
lợi, thậm chí hình thành kiểm mê tín, dị đoan mới (hầu đồng, đồng bóng; kêu gọi
đóng góp vô tội vạ; tổ chức các kiểu nghi lễ thờ cúng thái quá, không đúng quy
định; xuất hiện hành vi “mua thần bán thánh”,…). Thiết nghĩ, bên cạnh kêu gọi,
tạo điều kiện để cộng đồng tham gia phát huy giá trị văn hóa thì cần phải phát
huy tính chủ động, sáng tạo; năng lực kiểm tra, giám sát của cộng đồng đối với
hành vi lợi dụng tổ chức sự kiện, hoạt động văn hóa để mưu cầu lợi ích riêng,
“truyền bá” mê tín dị đoan,… Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng năng lực tham gia
quản lý, thực hiện các hoạt động văn hóa cho cộng đồng cư dân, hình thức ý thức
tự quản, tự giám sát cộng đồng cũng cần được chú ý. Lựa chọn những thành viên
tích cực, người có uy tín trong cộng đồng làm hạt nhân, nòng cốt để kích hoạt
các hoạt động văn hóa, tổ chức các sự kiện văn hóa địa phương một cách bài bản,
có định hướng là việc làm hết sức cần thiết. Cần phải nói thêm rằng, trong điều
kiện chuyển đổi số như hiện nay, việc áp dụng sự tiến bộ của khoa học-công nghệ
và mạng Internet vào quản lý hoạt động văn hóa là cần thiết nhưng cũng đã xuất
hiện các hiện tượng mê tín di đoan trên không gian mạng. Đây là “chỉ báo” và là
“đơn đặt hàng” cho các nhà hoạch định chính sách văn hóa, các nhà quản lý và tổ
chức hoạt động văn hóa thành phố Đà Nẵng đối với việc kêu gọi sự tham gia của cộng
đồng địa phương trong phát huy giá trị văn hóa ở “đời thực” và cả trên không
gian mạng, tránh làm méo mó, tầm thường hóa các giá trị văn hóa, làm mất đi ý
nghĩa đích thực của văn hóa.
Trong bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay cũng cần
tính đến phát triển nền tảng văn hóa số và sử dụng công nghệ thực tế ảo (VR),
thực tế tăng cường (AR) vào lĩnh vực văn hóa. Với nền tảng công nghệ thông tin
phát hiện nay của Đà Nẵng hoàn toàn có thể “đưa văn hóa Đà Nẵng” đến với quốc tế
bằng “một chạm” bằng cách tạo bảo tàng ảo, triển lãm trực tuyến để mọi người dễ
dàng tiếp cận với các giá trị văn hóa Đà Nẵng.
Thứ năm, gắn
các giá trị văn hóa với hoạt động kinh tế, du lịch để chuyển đổi sinh kế, gia
tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho người dân. Khu vực
miền Trung nói chung, Đà Nẵng nói riêng có thế mạnh về phát triển kinh tế du lịch
gắn với văn hóa biển đảo, văn hóa các dân tộc, văn hóa kiến trúc, văn hóa tâm
linh. Để các giá trị văn hóa được “hiện thực hóa”, được bảo tồn và phát huy
theo hướng bao trùm, xanh, bền vững thì cần phải được “chạm khảm” vào các hoạt
động kinh tế, hoạt động du lịch bởi chính các hoạt động này sẽ chuyển tải được
văn hóa, thúc đẩy văn hóa phát triển. Muốn vậy, chính quyền thành phố cần phải có
kế hoạch chuyển đổi sinh kế cho các nhóm cư dân; từng bước tăng thu nhập và
nâng cao mức sống cho các nhóm cư dân đặc thù. Khi nào người dân, cộng đồng
“nhìn thấy” được cái lợi thì hoạt động văn hóa thì họ sẽ là chủ thể tích cực
tham gia. Chẳng hạn, Đà Nẵng đã và đang phát triển các tuyến du lịch gắn với
văn hóa dân tộc như tour khám phá làng Cơ Tu ở Hòa Bắc, giới thiệu các di tích
Chăm nhưng sự “hiện diện” của người Cư Tu, người Chăm với tư cách là một bộ phận
trong tổng thể văn hóa các dân tộc ở Đà Nẵng hay với tư cách là chủ thể của các
nét văn hóa riêng biệt vẫn còn mờ nhạt.
Tóm lại, để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực trong chiến lược phát triển tổng
thể của thành phố Đà Nẵng, cần một cách tiếp cận toàn diện và đồng bộ, kết hợp
giữa bảo tồn giá trị truyền thống, sáng tạo trong cách khai thác và ứng dụng
văn hóa vào các lĩnh vực kinh tế, du lịch, giáo dục và xã hội. Điều này đòi hỏi
sự nỗ lực từ phía chính quyền trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ, quản lý hiệu
quả và đầu tư phát triển hạ tầng văn hóa, đồng thời khuyến khích sự tham gia chủ
động của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp. Việc gắn kết văn hóa với các hoạt
động kinh tế, đặc biệt là du lịch, không chỉ góp phần chuyển đổi sinh kế và
nâng cao thu nhập cho người dân mà còn làm phong phú bản sắc địa phương, nâng
cao vị thế của Đà Nẵng trên bản đồ văn hóa và du lịch quốc tế. Khi văn hóa được
nhìn nhận và khai thác như một tài sản chiến lược, Đà Nẵng sẽ không chỉ phát
triển bền vững về kinh tế mà còn tạo dựng được một cộng đồng thịnh vượng, văn
minh, và tự hào với di sản văn hóa của mình, góp phần hiện thực hóa các mục
tiêu phát triển Thành phố, hướng đến một thành phố thông minh, thành phố đáng sống,
thành phố hạnh phúc.
Đà Nẵng, 18/01/2025
TS. Phạm Đi
[1]
Được xác nhận trong “mục tiêu tổng quát” của Nghị quyết số 43 43-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Bộ Chính
trị Về xây
dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Nhận xét
Đăng nhận xét