THÀNH TÍCH VÀ HIỆU QUẢ LÃNH ĐẠO

 

THÀNH TÍCH VÀ HIỆU QUẢ LÃNH ĐẠO

Trong bất kỳ tổ chức, cơ quan hay quốc gia nào, năng lực lãnh đạo đóng vai trò cốt lõi quyết định đến sự thành công và phát triển bền vững. Thành tích lãnh đạo không chỉ là những kết quả cụ thể đạt được trong một giai đoạn nhất định mà còn phản ánh sự sáng tạo, khả năng định hướng và quản lý hiệu quả các nguồn lực. Đồng thời, hiệu quả lãnh đạo là thước đo giá trị lâu dài mà các nhà lãnh đạo mang lại, thông qua việc hiện thực hóa tầm nhìn, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, và tạo dựng niềm tin từ cộng đồng.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh tế - xã hội hiện nay, việc đánh giá và nâng cao thành tích cũng như hiệu quả lãnh đạo càng trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ giúp xác định những thành tựu đáng tự hào, mà còn là cơ sở để cải tiến, xây dựng chiến lược phù hợp nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và ổn định

1. Khái niệm

"Thành tích và hiệu quả lãnh đạo" là một chủ đề quan trọng, thường được xem xét trong bối cảnh đánh giá năng lực quản lý, lãnh đạo và phát triển của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân.

Thành tích lãnh đạo: Kết quả cụ thể mà một tổ chức hoặc cá nhân lãnh đạo đạt được trong quá trình thực hiện mục tiêu. Thành tích có thể đo lường thông qua các chỉ số cụ thể như kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường hoặc tiến bộ trong cải cách hành chính.

Hiệu quả lãnh đạo: Mức độ mà quá trình lãnh đạo tạo ra giá trị và tác động tích cực lâu dài, không chỉ ở kết quả mà còn ở cách đạt được, tính bền vững, và sự phù hợp với mục tiêu chung.

Thành tích không phải là một khái niệm mới mà đã có từ lâu trong lịch sử phát triển của nhân loại, nội hàm của chữ “thành tích” thường mang ý nghĩa tích cực, chỉ sự cố gắng, phấn đấu để đạt được kết quả trong học tập, nghiên cứu, công tác và các lĩnh vực của đời sống xã hội như văn hóa, thể thao, nghệ thuật cũng như các hoạt động như nông nghiệp, công nhiệp, dịch vụ; hành chính, chính trị,...

Trong tiếng Anh, thành tích (performance) có hàm nghĩa ban đầu là: “chấp hành”, “biểu hiện”, “hành vi”, “hoàn thành” mà dẫn đến, đạt được “thành tựu”, “thành quả” hay “chiến tích”. Đối với một tổ chức mà nói, thành tích là kết quả đạt được của một quá trình tổ chức, nó phản ánh sự phấn đấu của các thành viên thông qua trí tuệ, năng lực, thái độ; đó là sự quy thuộc và xuất phát điểm của hoạt động quản lý. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh (bút danh X.Y.Z) đã đề cập đến chữ “thành tích” 9 lần, cụ thể có đoạn chỉ có 54 chữ mà Bác đã sử dụng 3 từ “thành tích”: Nhưng, nếu mi cán bộ, mi đng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành ch ca Đng còn to tát hơn nữa. Cán b và đng viên làm việc kng đúng, không khéo, thì còn nhiu khuyết đim. Khuyết điểm nhiu thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiu”[1]. Theo đó, Bác sử dụng nhiều cụm từ “thành tích ít”, “thành tích nhiều”, “thành tích khá”, “thành tích rất khá”, “thành tích vẻ vang” trong những trường hợp cụ thể, cán bộ cụ thể, nhiệm vụ cụ thể. Như vậy, trên một bình diện nào đó mà nói, thành tích là kết quả của một quá trình phấn đấu, đạt được của mỗi cán bộ, đảng viên; của cá nhân nhà lãnh đạo, quản lý và của tập thể, tổ chức và cả cộng đồng, dân tộc, quốc gia. Lãnh đạo tốt hay xấu có liên quan đến thành tích đạt được ít hay nhiều, khá hay giỏi, bình thường hay vẻ vang,...

Về nội hàm của “thành tích lãnh đạo”, hiện tại vẫn chưa có quan điểm thống nhất nhưng chủ yếu tập trung ở một số khía cạnh và cách tiếp cận: (i) Xuất phát từ quá trình hình thành nhìn nhận, thành tích lãnh đạo là kết quả cá nhân của người lãnh đạo, là sự thống nhất giữa quá trình vận dụng, phát huy năng lực cá nhân với kết quả đạt được; đó là sự “kết tinh” giữa trí tuệ, tố chất và sự năng động của cá nhân chủ thể lãnh đạo được áp dụng trong môi trường lãnh đạo cụ thể. Từ đó nhấn mạnh đến việc đánh giá thành tích lãnh đạo chủ yếu tiến hành lượng giá, bình xét kết quả hoạt động lãnh đạo, quản lý của chủ thể tương ứng, đồng thời cũng xem xét biểu hiện hành vi của cá nhân lãnh đạo trong môi trường công việc, hoàn cảnh lãnh đạo như một tiêu chuẩn đánh giá; (ii) Xuất phát từ kết quả của hành vi lãnh đạo nhìn nhận, thành tích lãnh đạo chính là “lượng lao động hiệu quả” được kết tinh trong kết quả công việc của cá nhân lãnh đạo và tập thể, tổ chức mà cá nhân đó phụ trách; (iii) Xuất phát từ mục tiêu để nhìn nhận, thành tích lãnh đạo là quá trình đạt được mục tiêu đã được xác định và dự định, dự báo, từ đó muốn đánh giá thành tích lãnh đạo chỉ cần căn cứ vào mức độ, tính chất, phạm vi đạt được mục tiêu của nhà lãnh đạo để “cân, đong, đo, đếm”.

Những quan điểm và cách nhìn nhận về thành tích, thành tích lãnh đạo ở trên tựu trung ở hiệu quả thực tế mà nhà lãnh đạo đạt được khi tiến hành tổ chức thực hiện các mục tiêu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Đương nhiên, thành tích lãnh đạo là sự phản ánh khách quan, toàn diện của hoạt động lãnh đạo; đánh giá thành tích lãnh đạo cũng là hoạt động khách quan, khoa học, hệ thống, vừa nhìn nhận ở kết quả vừa xem xét cả quá trình.

2. Tiêu chí đánh giá

- Kết quả cụ thể: Số lượng hoặc chất lượng công việc được hoàn thành. Ví dụ: GDP, tỷ lệ xóa đói giảm nghèo, cải cách hành chính, tăng trưởng giáo dục.

- Tác động xã hội: Sự cải thiện về đời sống nhân dân, môi trường, an sinh xã hội hoặc công bằng xã hội.

- Sự đổi mới: Mức độ sáng tạo trong giải pháp và cách thức lãnh đạo.

- Sự hài lòng của người dân: Chỉ số phản ánh ý kiến, lòng tin, và sự đồng thuận từ các bên liên quan.

- Khả năng thích ứng và bền vững: Mức độ phù hợp với bối cảnh, khả năng đối phó với thách thức, và đảm bảo phát triển lâu dài.

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thành tích và hiệu quả lãnh đạo

- Tầm nhìn và chiến lược: Nhà lãnh đạo cần xác định rõ mục tiêu dài hạn và cách thức đạt được.

- Phẩm chất cá nhân: Năng lực chuyên môn, đạo đức, tư duy đổi mới, và sự quyết đoán.

- Hệ thống và cơ chế vận hành: Cơ cấu tổ chức, chính sách, quy trình, và sự phối hợp giữa các bên.

- Sự tham gia của cộng đồng: Hiệu quả lãnh đạo thường cao hơn khi có sự đồng thuận và tham gia từ người dân, các tổ chức xã hội và đội ngũ cán bộ.

- Ứng dụng công nghệ: Các giải pháp công nghệ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và tối ưu hóa nguồn lực.

Một số ví dụ về thành tích lãnh đạo tiêu biểu: (i) Thành công trong việc giảm nghèo, nâng cao mức sống nhân dân thông qua các chính sách xã hội; (ii) Thúc đẩy chuyển đổi số và xây dựng thành phố thông minh tại các đô thị lớn; (iii) Cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước.

Như vậy, thành tích và hiệu quả lãnh đạo cần được đánh giá thường xuyên, khách quan và toàn diện để phát hiện điểm mạnh, yếu. Cần tiếp tục đổi mới phương pháp lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ năng động, trách nhiệm. Tăng cường minh bạch, lắng nghe và phản hồi các ý kiến từ cộng đồng.

4. Mối liên hệ giữa thành tích lãnh đạo hiệu quả quản trị công

Bất luận trên phương diện lý luận hay thực tiễn, thành tích lãnh đạo có mối liên hệ mật thiết với hiệu quả của hoạt động chính trị-hành chính (quản trị công) với tư cách là quan hệ giữa “cái bộ phận” và “cái tổng thể”. Bất cứ chính phủ nào cũng mong muốn cung cấp dịch vụ công tốt nhất cho cộng đồng, nhân dân của mình và hướng đến nhiều phương diện, lĩnh vực, nhất là yếu tố ổn định, phát triển kinh tế-xã hội. Đương nhiên, muốn đạt được mục tiêu đó thì phải dựa vào đội ngũ và cơ cấu tổ chức đặc thù của mình, trong đó có nhân tố lãnh đạo và hiệu quả lãnh đạo của cá nhân phụ trách từng lĩnh vực. Do đó, trong hoạt động đánh giá thành tích lãnh của cá nhân người lãnh đạo thì cũng góp phần hoàn thiện, điều chỉnh, xây dựng một chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo phấn đấu. Tuy vậy, giữa thành tích lãnh đạo (của cá nhân với tư cách là chủ thể lãnh đạo) với hiệu quả quản trị công (với tư cách là một hệ thống lớn  của một chính quyền nhà nước) cũng có sự khác biệt nhất định: (i) Khác nhau về mục tiêu. Thành tích lãnh đạo của cá nhân chỉ là một khía cạnh, thành tố, thậm chí là “điểm hạt” tạo nên “khối vật chất” rộng lớn của nền hành chính công, quản trị công. Hiệu quả quản trị công chú ý đến yếu tố tập thể, tổ chức; hiệu quả lãnh đạo chú ý đến cá nhân nhà lãnh đạo; hiệu quả quản trị công biểu hiện trình độ tổ chức hành chính, ban hành hệ thống luật pháp và chấp hành nên mang tính chất hợp pháp, quy phạm và lý tính còn hiệu quả lãnh đạo chú ý đến sự năng động chủ quan của cá nhân người lãnh đạo, nhấn mạnh đến tố chất, hành vi, sự sáng tạo, khả năng dẫn dắt quần chúng và tổ chức thực hiện của người lãnh đạo cụ thể; (ii) Khác nhau về hệ thống chỉ số đánh giá. Khi thiết kế hệ thống chỉ tiêu đánh giá thành tích lãnh đạo và hiệu quả quản trị công, về cơ bản có một số nội dung giống nhau nhưng khi đánh giá thành tích lãnh đạo thường xem xét mức độ hoàn thành nhiệm vụ trong một năm hay nhiệm kỳ còn đối với đánh giá hiệu quả quản trị công thì chú ý đến chức năng quản lý và khả năng hoàn thành mục tiêu chung; (iii) Khác nhau về kết quả. Đến thời điểm hiện tại, hệ thống công vụ của chúng ta đang chuyển từ chế độ “chức nghiệp” sang “vị trí việc làm”; kết hợp giữa “chức vị” và “phẩm vị”, do vậy, đánh giá thành tích lãnh đạo thường gắn với chức vụ (chức vị) của từng “vị trí” lãnh đạo và quyết định đến quá trình “thăng chức” tương ứng; còn đánh giá hiệu quả quản trị công chủ yếu hướng đến trình độ, tính chất, hiệu quả tổ chức bộ máy và thực thi nhiệm vụ của chính phủ và các cơ quan chức năng trong bộ máy.



[1] X.Y.Z, Đường Cách Mệnh, Nxb. Trẻ, Tp.HCM. 2011, tr.9-10.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ