QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII ĐẢNG

 

QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

1. Khái luận về quản lý phát triển xã hội

1.1. Khái niệm về quản lý xã hội, quản lý phát triển xã hội

Kiểm soát xã hội, quản lý xã hội, quản trị xã hội là những khái niệm đề cập đến hoạt động của chủ thể quản lý như một kiểu hành vi tổ chức, là hoạt động có kế hoạch, có tổ chức của con người nhằm định hướng sự phát triển xã hội theo một chiều tích nhất định, đạt được những mục tiêu nhất định. Như vậy, quản lý xã hội phản ánh trình độ tổ chức của chủ thể xã hội đối với đối tượng và khách thể mà nó quản lý.

Quản lý xã hội là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học xã hội. Thông thường, quản lý xã hội được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. “Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức của chủ thể quản lý xã hội lên xã hội và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mang tính xu thế phát triển khách quan của xã hội[1] . Quản lý xã hội luôn diễn ra trong một môi trường biến động, vận động không ngừng. Do đó, quản lý xã hội luôn phải quan tâm đến quá trình phát triển, vận động của các sự vật, hiện tượng. Chính vì thế, ngày nay, chúng ta thường nói quản lý xã hội, về thực chất, là quản lý phát triển xã hội. Bản thân các chủ thể quản lý, các đối tượng và khách thể quản lý, cũng vận động, phát triển không ngừng.

Như vậy có thể khẳng định, quản lý phát triển xã hội thực chất là hoạt động kiểm soát xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh nhằm giúp cho “cơ thể xã hội lành mạnh” và phát triển một cách có định hướng, hài hòa. Quản lý phát triển xã hội là việc sử dụng các công cụ, giải pháp về chính sách để thúc đẩy, điều tiết, xử lý các vấn đề của xã hội, để đảm bảo các mục tiêu của quá trình phát triển xã hội. “Quản lý sự phát triển xã hội tổng thể, bao gồm quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển hệ thống chính trị, quản lý phát triển văn hóa, quản lý phát triển xã hội theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển con người, quản lý nguồn lực vật chất nhân tạo, nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội[2]. Nói đến quản lý phát triển xã hội tức là nói đến quá trình hoạt động, hành động của chủ thể quản lý, thông qua các chính sách và các phương tiện, công cụ quản lý, để đạt được mục tiêu đặt ra. Quản lý phát triển xã hội không thuần túy chỉ là hoạt động một chiều từ chủ thể quản lý, mà còn là một quá trình tương tác liên tục giữa chủ thể với khách thể và các nhân tố tác động.

Một cách tổng quát: “Quản lý phát triển xã hội, một cách chung nhất, là sự tác động có chủ đích của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (trực tiếp là Nhà nước, hoặc các tổ chức ngoài nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (đời sống xã hội), bằng các nguồn lực trong xã hội và các công cụ, phương thức tác động đa dạng, nhằm hướng sự vận hành và phát triển của đời sống xã hội theo các mục tiêu đặt ra[3].

Trong quản lý phát triển xã hội luôn tồn tại mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và đối tượng quản lý, được kết nối với nhau bởi các phương thức và công cụ quản lý. Ở tầm vĩ mô, đó là quan hệ của Nhà nước với người dân và được điều phối bởi các chính sách quản lý phát triển xã hội do Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng trong quản lý phát triển xã hội hiện đại, vị thế giữa chủ thể, khách thể quản lý nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Ở Việt Nam, Đảng ta luôn xác định xây dựng một xã hội của dân, do dân và vì dân. Các chính sách về quản lý phát triển xã hội của Đảng luôn nhằm mang lại sự hài hòa, sự phát triển ấm no, hạnh phúc cho người dân. Chủ thể quản lý là nhà nước, nhân dân làm chủ xã hội thông qua nhà nước do mình bầu ra, đó là mối quan hệ phức tạp, cần được thể chế hóa một cách rõ ràng, minh bạch. Sự tham gia của các tổ chức ngoài nhà nước trong quản lý phát triển xã hội cũng đòi hỏi được khẳng định rõ ràng, minh bạch trong Hiến pháp và pháp luật, trong các văn bản hướng dẫn triển khai cụ thể. Chính các mối quan hệ này khi được thể chế hóa, sẽ quy định rõ ràng về hoạt động của các tổ chức và cộng đồng.

1.2. Một số khía cạnh, lĩnh vực cụ thể về quản lý xã hội

Trong quá trình phát triển xã hội không phải bao giờ cũng “xuôi chèo mát mái” mà có thể (thậm chí luôn xảy ra) những vấn đề xã hội mà chính nhà lãnh đạo không mong muốn nhưng buộc lòng phải chấp nhận và có trách nhiệm giải quyết. Các nhà xã hội học đã đưa ra 10 vấn đề xã hội trong quá trình phát triển là: (1) Giải quyết việc làm; (2) xoá đói giảm nghèo; (3) hoà nhập xã hội đối với các nhóm dân cư bị tổn thương (phụ nữ; trẻ em; thanh niên; dân tộc thiểu số; người tàn tật; người cao tuổi; đồng bào vùng khó khăn; phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, hoà nhập cộng đồng); (4) tăng cường vai trò gia đình; (5) phát triển giáo dục; (6) dân số- kế hoạch hoá gia đình; (7) chăm sóc sức khoẻ nhân dân (cộng đồng); (8) bảo trợ xã hội (bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội); (9) môi trường; (10) hạn chế và ngăn ngừa các hành vi tội phạm (ma tuý, mãi dâm, buôn lậu, tham nhũng, làm giàu bất chính…). Mười vấn đề đó đã thể hiện tầm nhìn toàn diện về lĩnh vực xã hội trong quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn còn những vấn đề xã hội mới nẩy sinh, cần quan tâm nghiên cứu, kiểm soát và giải quyết[4].

2. Quản lý phát triển xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh tế tổng quát đã được thể hiện xuyên suốt trong quan điểm của Đảng suốt hơn 30 năm qua kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện dựa trên việc tổng kết lý luận và thực tiễn cũng như đặt trong bối cảnh phát triển, hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự bổ sung các nhận thức mới này của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với sự bổ sung về quan điểm, tư tưởng trong quản lý phát triển xã hội nói chung của Đảng.

Đại hội Đảng lần thứ VI đánh dấu quá trình Đổi mới toàn diện của đất nước, trong đó, quan trọng là đổi mới về tuy duy, trước hết là kinh tế. Tư duy về đổi mới kinh tế, xây dựng một nền kinh tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam tiếp tục được khẳng định, làm rõ và phát triển ở đại hội VII của Đảng và các kỳ đại hội sau đó. Theo đó, quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành và không ngừng được hoàn thiện. Tại Đại hội VII của Đảng, khái niệm về định hướng xã hội chủ nghĩa đối với phát triển kinh tế lần đầu tiên đã được Đảng đưa ra[5]. Tại đại hội VIII của Đảng, các quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được làm rõ trong đó nhấn mạnh việc Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng đánh dấu bước ngoặt lớn trong quan điểm của Đảng khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IX cũng khẳng định những tồn tại trong nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đánh dấu sự thống nhất nhận thức, thể hiện chủ trương nhất quán và lâu dài về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề quản lý phát triển xã hội đóng vai trò then chốt. Việc quản lý phát triển xã hội không chỉ dựa vào các quy định pháp luật phù hợp với quá trình thực tiễn phát triển đất nước và còn phải đảm bảo rằng quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với việc đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Đây cũng chính là điểm khác biệt, điểm đặc trưng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.

Như vậy, quản lý phát triển xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không đơn thuần là vấn đề về phát triển mô hình kinh tế phù hợp, mà còn là vấn đề đảm bảo sự hài hòa trong thực hiện các chính sách tiến bộ, công bằng xã hội để cùng hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau 5 năm thực hiện, Đại hội X của Đảng đánh giá thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bước đầu được xây dựng. Đại hội X của Đảng cũng khẳng định muốn đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định tầm quan trọng của việc hoàn thiện thể chế phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên các điểm chính gồm: (i) Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; (ii) Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; (iii) Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; (iv) Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Trong đó, việc quản lý phát triển xã hội phải dựa trên hệ thống pháp luật, giảm thiểu tối đa các tác động, can thiệp về hành chính vào sự phát triển của thị trường như tách chức năng về quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp…Những thay đổi này đã thể hiện sự đổi mới gắn với thực tiễn trong tư duy về quản lý phát triển xã hội của Đảng, phù hợp với những yêu cầu đặt ra về thực tiễn trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 6 khóa X của Đảng tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy trong tư duy quản lý phát triển xã hội của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn thể hiện hai đặc điểm rõ rệt. Thứ nhất, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế. Thứ hai, gắn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với việc giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra để hướng tới mục tiêu đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội. Tại đại hội lần thứ XI của Đảng, các quan điểm này tiếp tục được khẳng định và làm rõ. Trong đó, việc xây dựng thể chế kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm các nhiệm vụ trọng tâm: (i) Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường; (ii) Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; (iii) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; (iv) Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn kiện Đại hội XI đã khẳng định Đảng và Nhà nước phải thực sự nâng cao được vai trò lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường. Nói cách khác, phải nâng cao được vai trò trong quản lý phát triển xã hội gắn với quá trình này. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật rất quan trọng, không chỉ về quản lý kinh tế mà còn liên quan tới nhiều vấn đề xã hội và môi trường khác. Trong quản lý phát triển xã hội của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự chủ động, tích cực về hội nhập quốc tế cũng như sự tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường. Trên cơ sở đó, hoạt động quản lý phát triển xã hội vận dụng, phát huy các mặt tích cực và giảm thiểu, hạn chế các mặt tiêu cực từ cơ chế thị trường. Quá trình này, nói cách khác vừa là quá trình phát triển kinh tế cũng vừa là quá trình xây dựng và phát triển xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đại hội XII của Đảng đã đánh dấu một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ về nhận thức, tư duy của Đảng trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, xác định mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Các mục tiêu này rõ ràng không chỉ thể hiện các khía cạnh về kinh tế mà còn bao gồm các mục tiêu về xã hội, môi trường, thể hiện tư tưởng phát triển xã hội theo hướng bền vững, hài hòa. Nói cách khác, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình đa mục tiêu, đảm bảo hài hòa về kinh tế, xã hội và môi trường.

Như vậy, cùng với quá trình phát triển, không ngừng bổ sung, hoàn thiện về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các vấn đề về quản lý phát triển xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã được khẳng định và làm rõ. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã không ngừng được bổ sung, làm rõ về tư duy và thực tiễn để hướng tới mục tiêu hoàn thiện đồng bộ theo các tiêu chuẩn cơ bản vào năm 2020. Điều này cũng có nghĩa, nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội cũng thể hiện sự thống nhất và không ngừng hoàn thiện, không chỉ đối với mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn trong các hoạt động về quản lý phát triển xã hội nói chung.

3. Quan điểm của Đảng về quản lý phát triển xã hội trong Văn kiện Đại hội XIII

Sau những đúc kết thành quả phát triển giai đoạn 2015-2020, Đảng ta cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế: “Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập,...”[6].

Từ đó, xác định một số nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” và Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân[7].

Như vậy, quan điểm của Đảng theo tinh thần của Đại hội XIII trên cơ sở nguyên tắc “kế thừa và phát triển”, “kiên định và đổi mới”, “thực tiễn và lý luận” một cách thống nhất, xuyên suốt. Với tinh thần, rõ ràng Nghị quyết Đại hội XIII đã kế thừa và phát triển và nhiệm và mục tiêu “quản lý phát triển xã hội” trong tình hình mới. Quản lý phát triển xã hội là nhiệm vụ rất quan trọng, thường xuyên nhưng phải nhấn mạnh đến tính “hiệu quả” và “nghiêm minh” – gắn kết nhiệm vụ “an ninh xã hội” với “an ninh con người”, tiến bộ và công bằng, phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Trong đó, vấn đề lao động, việc làm và thu nhập được đề cập như một nhiệm vụ vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài, vừa đảm bảo vai trò định hướng trong lãnh đạo quản lý, vừa thể hiện vai trò của Đảng, Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội trong điều kiện và tình hình mới.

Ngoài ra, “mũi đột phá” chiến lược mà Nghị quyết xác định có vấn đề phát triển nguồn nhân lực và sử dụng nhân tài: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[8]. Có thể khẳng định, hoạt động quản lý phát triển xã hội (cũng là khâu “then chốt của then chốt”) chính là phát triển nguồn nhân lực, công tác cán bộ gắn với việc đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mà bản chất của nó là cách mạng số, thông qua  qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Điều đó cần và rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao có hàm lượng kỹ thuật ICT (công nghệ thông tin và truyền thông) cao, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, đòi hỏi của cuộc cách mạng này buộc chúng ta phải có một cách nhìn mới đối với vấn đề con người, vấn đề cán bộ, vấn đề giáo dục và đào tạo. Buộc các nhà lãnh đạo, quản lý phải thay đổi chính ngay nhiều công cụ, phương tiện phục vụ cho quá trình lãnh đạo, quản lý. Hệ thống đảm bảo thông tin và an toàn thông tin trở thành một vấn đề lớn trong điều kiện hiện nay: (1) Thay đổi tư duy lãnh đạo, quản lý xã hội phù hợp với những điều kiện mới; (2) Thay đổi phương thức lãnh đạo, quản lý phát triển xã hội trong các tổ chức, nhất là với những loại tổ chức mới hình thành trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; (3) Đánh giá lại triết lý lãnh đạo, quản lý, hệ giá trị cốt lõi, xây dựng các biểu trưng mới; (4) Xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý mới phù hợp với triết lý mới và các chuẩn mực giá trị mới; (5) Hình thành các chuẩn mực đạo đức lãnh đạo, quản lý mới và triển khai vào các tổ chức cụ thể.

3. Vận dụng tinh thần của quan điểm quản lý phát triển xã hội vào hoạt động giảng dạy chương trình cao cấp lý luận chính trị hiện hành

Trong toàn bộ Chương trình cao cấp lý luận hiện hành, xét đến cùng hướng về phục vụ các mục tiêu lớn mà Đảng đã xác định trong Nghị quyết: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa[9]. Để thực hiện tốt “nhiệm vụ trọng tâm” này, công tác đào tạo cán bộ của Hệ thống chính trị trong đó có Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là vô cùng cần thiết. Ngoài trang bị có người học các nguồn vốn (chính trị, văn hóa, xã hội) cần thiết cũng còn cần phải nâng cao kỹ năng nắm bắt thông tin, xử lý các vấn đề xã hội nảy sinh, đảm bảo các mục tiêu an toàn xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người.

Tóm lại, trong những điều kiện hiện nay của Việt Nam, cần tập trung giải quyết một cách đồng bộ các vấn đề theo các nguyên tắc quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội bằng cách tiếp cận mới, phương pháp mới. Một mặt, cần có chương trình tổng thể quốc gia, chiến lược quốc gia trong các lĩnh vực cụ thể thích ứng với những điều kiện mới. Mặt khác cũng cần làm rõ những khác biệt trong việc giải quyết các vấn đề ở các lĩnh vực khác nhau, với những phạm vi, quy mô khác nhau. Những thay đổi của Chính phủ Việt Nam trong quản lý nhà nước, quá trình cải cách hành chính, nhất thể hóa các chức danh chủ chốt, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, phát huy vai trò của người dân và cộng đồng trong quản lý xã hội, đang mở ra những khả năng phát triển mới trong quản lý phát triển xã hội. Mối quan hệ giữa Chính phủ với doanh nghiệp, với người dân đang ngày càng được cải thiện, thúc đẩy quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Đổi mới quản lý phát triển xã hội trong điều kiện ngày nay đang là một yêu cầu cấp bách của thời đại mới đối với tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, trong năm đầu thực hiện Nghị quyết của Đại Hội XIII, cần tăng cường công tác nghiên cứu, học tập để cán bộ đảng viên nắm rõ, nắm chắc quan điểm chỉ đạo và mục tiêu đặt ra về quản lý phát triển xã hội, bởi có nhận thức đúng mới có thể có hành động đúng; có hành động đúng mới có thể thực hiện các mục tiêu, chiến lược đột phá mà Đảng xã xác định./.

TS. Phạm Đi

 



[1] Đỗ Hoàng Toàn, Quản lý xã hội, Nxb. KHKT, 2000.

[2] Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 24.

[3] Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 24.

[4] Phạm Ngọc Thanh, Cơ sở lý luận về quản lý phát triển xã hội, quản trị phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay, trang thông tin điện tử của Hội đồng Lý luận Trung ương (tham kiến: http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/co-so-ly-luan-ve-quan-ly-phat-trien-xa-hoi-quan-tri-phat-trien-xa-hoi-trong-dieu-kien-hien-nay.html - cập nhật ngày 24 tháng 6 năm 2021)

[5] Ban Kinh tế Trung ương (2014),  Báo cáo tổng kết phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H2021, tr.320.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H2021, tr.330.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H2021, tr.328.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H2021, tr.334.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ