HỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, BẢO ĐẢM AN NINH XÃ HỘI, AN NINH CON NGƯỜI NHẰM QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CÓ HIỆU QUẢ

 

THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH XÃ HỘI, BẢO ĐẢM AN NINH XÃ HỘI, AN NINH CON NGƯỜI NHẰM QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CÓ HIỆU QUẢ

1. Đặt vấn đề

Trên cơ sở của các nguyên tắc “kế thừa và phát triển”, “kiên định và đổi mới”, “thực tiễn và lý luận” một cách thống nhất, xuyên suốt; với tinh thần và phương châm phát triển bền vững, lấy con người làm trung tâm, giải quyết tốt và hài hòa các vấn đề xã hội và các mối quan hệ trong quá trình phát triển, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã kết thừa và phát triển nhiệm vụ, mục tiêu “quản lý phát triển xã hội” trong bối cảnh, tình hình mới. Theo đó, quản lý phát triển xã hội là nhiệm vụ rất quan trọng, thường xuyên nhưng phải nhấn mạnh đến tính “hiệu quả” và “nghiêm minh” – gắn kết nhiệm vụ về  “an ninh xã hội” với “an ninh con người”, tiến bộ và công bằng, phúc lợi xã hội và an sinh xã hội; tư tưởng xuyên suốt của chủ trương về chính sách xã hội bảo đảm tiến bộ và công bằng hội, bảo đảm hài hòa các lợi ích, với mục đích tối thượng là vì con người, vì nhân dân đã thể hiện bằng chủ trương, quan điểm hết sức cụ thể, rõ ràng: “Tăng cường quản phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người[1]. Theo đó, khi vạch ra “Định hướng phát triển đất nước 2021-2030”, Đảng ta đã xác định: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân[2]. Vấn đề đặt ra là, cần phải thể chế hóa, luật pháp hóa những chủ trương, đường lối này thành những chính sách mang tính khả thi, khoa học để hiện thực hóa một cách có hiệu quả. Song song với đó, cần phải đảm bảo những điều kiện con người, vật chất và các nguồn lực khác để thực thi như thế nào; dự báo những khó khăn, rào cản, vướng mắc, những nhân tố tác động, xu hướng biến đổi để kiện toàn bộ máy và đảm bảo tính khả thi; tăng cường nhận thức của các cơ quan hữu quan và đội ngũ cán bộ thực thi về công tác bảo đảm xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người,…Đó là những câu hỏi đặt ra và cũng là nhiệm vụ cần phải triển khai để góp phần xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hoà.

2. Một số yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người trong tình hình mới

Đối với “Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030”, Đảng ta xác định: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương,..[3]. Để thực hiện tốt mục tiêu mang tính chiến lược này mà cụ thể là “bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương” cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính sách xã hội, bảo đảm xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người phải phù hợp với bối cảnh và tình hình mới.

Chính sách xã hội nói chung là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống chính sách của một chính quyền nhà nước. Mục tiêu của hệ thống chính sách xã hội, an ninh con người không phải là để “giải quyết” các vấn đề xã hội nảy sinh mà còn là công cụ, cơ chế, căn cứ pháp lý để phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro trong quá trình vận hành xã hội. Trong điều kiện ở nước ta, nhất là trong bối cảnh và tình hình hiện nay, bên cạnh ban hành cách chính sách nhằm điều chỉnh, giải quyết các vấn đề nảy sinh còn cần phải tiến hành nghiên cứu, đúc kết thực tiễn, vận dụng những nguyên tắc phổ biến trong tình hình cụ thể ở Việt Nam để khắc phục các “căn bệnh”, khuyết tật xã hội, giúp cơ thể xã hội phát triển lành mạnh.

Thứ hai, xây dựng và vận hành hệ thống chính sách xã hội, bảo đảm xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người phải phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở nước ta.

Hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội phải có tính “tương thích” với điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ phát triển, ở mỗi lĩnh vực cụ thể. Trong điều kiện và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay; trong bối cảnh vận dụng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị thị nhanh và mạnh như hiện nay thì vấn đề lớn đặt ra không chỉ đảm bảo “tăng trưởng” kinh tế đơn thuần mà còn phải bám lấy mục tiêu cốt lõi, gắn với mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo khía cạnh môi trường và xã hội, nhất là bình đẳng và công bằng xã hội. Kinh tế thị trường có tính ưu việt của nó nhưng không phải không có những “khuyết tật” và “điểm mù” nhất định. Chính những khuyết tật và điểm mù ấy có thể là nguyên nhân hình thành các vấn đề xã hội, trong đó có phân tầng xã hội, phân hóa xã hội, thậm chí phân cực xã hội, bất công xã hội. Điều này sẽ là các “lực cản” nếu không muốn nói là đi ngược với tôn chỉ mục đích của phát triển bền vững, của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cần phải bình tĩnh để thấy rằng, kinh tế là điều kiện, nền tảng vật chất để thực hiện các mục tiêu an sinh và an sinh xã hội, bảo đảm xã hội sẽ tạo điều kiện ổn định về an ninh để phát triển kinh tế. Nói cách khác, mặc dù các chính sách an sinh xã hội không “trực tiếp” hình thành các nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng, tất yếu và đương nhiên, góp phần rất lớn tạo ổn định xã hội, ổn định chính trị, an toàn xã hội. Và chính sự ổn định chính trị, ổn định xã hội sẽ tạo điều kiện và tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vùng miền, địa phương.

Thứ ba, nắm vững và làm rõ đặc điểm an sinh xã hội ở nước ta trong điều kiện hiện nay, nhất là tác động của đại dịch COVID-19.

Kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được vận hành và phát huy những giá trị tích cực rõ nét. Có thể nói, công cuộc đổi mới (bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI) đã thực sự áp dụng, vận hành nền kinh tế kinh tế thị trường như một cuộc cách mạng về tư duy, thể chế và góp phần làm cho đất nước ngày càng lớn mạnh. Với việc vận hành nền kinh tế thị trường, đòi hỏi tất cả các lĩnh vực, trong đó có hệ thống chính sách xã hội, chính sách an sinh, an ninh con người phải được thay đổi để phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế. Trong vài năm trở lại đây, tình hình dịch bệnh COVID-19 đã tác động không nhỏ đến tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó có các vấn đề về việc làm, thu nhập, an ninh trật tự, văn hóa, lối sống; tâm tư, tình cảm, dư luận và niềm tin xã hội. Điều đáng mừng là, đến thời điểm hiện tại, ít nhiều chúng ta đã khống chế được tình trạng lây lan của dịch bệnh, từng bước phục hồi nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, mang lại niềm tin trong xã hội. Tuy nhiên, chính điều này cũng cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm và yêu cầu đặt ra trong thực thi các chính sách liên quan, trong đó có hệ thống chính sách an sinh xã hội, an ninh con người. Cơ sở để xây dựng và vận hành hệ thống chính sách an sinh xã hội phải phù hợp với điều kiện nền kih tế thị trường và tình hình thực tiễn để đảm bảo tính công bằng ngay trong từng bước và trong từng chính sách; hệ thống chính sách phải được kiến tạo và triển khai thực hiện trên cơ sở thúc đẩy cạnh tranh công bằng và cùng chia sẻ trách nhiệm rủi ro xã hội. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì yếu tố cạnh tranh càng quyết liệt, gat gắt và đương nhiên, rủi ro xã hội càng lớn, tính “đào thải” càng “có cơ hội phát huy”. Chính điều này là “đơn đặt hàng” cho nhà lãnh đạo, quản lý nhà nước các cấp về hình thành hệ thống chính sách an sinh đủ mạnh, đủ tính bao phủ để phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro và khắc phục rủi ro. Nói cách khác, hệ thống chính sách an sinh chính là công cụ pháp lý hữu hiệu để Nhà nước khắc phục những khuyết tật và bất bình đẳng xã hội của nền kinh tế thị trường cũng như những biến cố trong tình huống bất thường như dịch bệnh, thiên tai,..

Thứ tư, nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò của hệ thống an sinh xã hội, an ninh con người trong điều kiện và bối cảnh hiện tại.

Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, hệ thống chính sách nói chung, chính sách xã hội, an sinh xã hội nói riêng của chúng ta từng bước được hình thành và không ngừng hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu và tình hình mới. Tuy vậy, đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý mà đặc biệt là đội ngũ thực thi chính sách cần phải nhận thức về vai trò, ý nghĩa của hệ thống chính sách một cách đầy đủ hơn, khoa học hơn và hệ thống hơn. Đầu tiên, cần phải nhận thức rằng, an sinh xã hội, an ninh con người là các chính sách xã hội cơ bản nhằm mục tiêu phát triển con người, phát triển bền vững, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Nghĩa là, đảm bảo nhu cầu an sinh, an ninh chính là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Nếu làm tốt các chính sách này cũng là thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách an sinh cũng là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chính sách nhằm ổn định và phát triển xã hội theo hướng hài hòa, bền vững; giúp đỡ các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế để đảm bảo tính công bằng xã hội. Thứ đến, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà biểu trưng là thời đại số, xã hội số, kinh tế số là cơ hội lớn cho Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên cũng là thách thức lớn đối với chúng ta trong giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề an ninh (truyền thống và phi truyền thống), vấn đề an sinh, đảm bảo tính công bằng xã hội. Trong đó, các “vấn đề toàn cầu” như di dân quốc tế, tội phạm quốc tế, ô nhiễm môi trường, cạnh tranh quốc tế,…khiến nguy cơ “mất lợi thế” và phát sinh nhóm yếu thế ngày càng gia tăng. Chẳng hạn, phá sản của một doanh nghiệp FDI có số lượng công nhân lớn sẽ kéo theo nhiều hệ lụy về kinh tế, việc làm, thu nhập và an ninh trật tự xã hội. Đó là những vấn đề mang tính tất yêu theo “luật chơi tòan cầu” mà Việt Nam chúng ta không thể là ngoại lệ. Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ tầm quan trọng của chính sách an sinh để có những giải pháp phù hợp sẽ làm giảm những rủi ro hay chí ít khi rủi ro nảy sinh thì cũng giảm thiểu được những tác động tiêu cực của nó.

Thứ năm, xây dựng, hoàn thiện, thực thi các chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội, an ninh con người phải đảm bảo tính hệ thống, đảm bảo tính “tương thích” giữa các hợp phần của chính sách; đảm bảo “nhịp nhàng” giữa chính sách và đội ngũ thực thi chính sách.

Đầu tiên, cần phải tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về vấn đề an ninh, trật tự, nhất là đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt hơn yêu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp và Nhân dân, đảm bảo an toàn và an ninh con người. Thứ đến cần chủ động xây dựng, triển khai thực hiện các phương án, kế hoạch xử lý, giải quyết kịp thời các tình huống phức tạp về an ninh, trật tự, bảo vệ tuyệt đối an toàn xã hội, tăng cường bảo đảm an ninh xã hội, giải quyết tốt vấn đề khiếu kiện, không để hình thành “điểm nóng" về an ninh, trật tự. Để môi trường xã hội an toàn cần kiên quyết  đấu tranh với các loại tội phạm, triệt phá các ổ nhóm tội phạm, các tụ điểm phức tạp về trật tự xã hội. Cần phải hiểu rằng, an ninh xã hội là một bộ phận của an ninh quốc gia, do đó, bảo vệ an ninh xã hội là phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống những hành vi phạm tội và vi phạm pháp luật gây mất ổn định chính trị xã hội, bảo vệ an ninh xã hội phải gắn liền với việc thực hiện chính sách xã hội và là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị và luôn mang tính hệ thống, đồng bộ, nhất quán.

Thứ sáu, cần phải gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội hiện tại với việc dự báo xu hướng bối đổi để không bị động, bất ngờ.

Giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo xã hội phát triển nhanh và bền vững, thực hiện các chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội và an ninh con người không chỉ dừng lại ở việc giải quyết các vấn đề đã nảy sinh, hiện hữu mà cần phải có tư duy, tầm nhìn chiến lược; có khả năng nghiên cứu, dự báo các xu thế, xu hướng phát sinh các vấn đề xã hội xảy ra trong tương lai, có chính sách “đi trước, đón đầu” để không rơi vào trạng thái bị động và bất ngờ. Muốn vậy, cần tăng cường công tác nghiên cứu để có cơ sở, luận chứng đưa ra các dự báo xu hướng biến đổi, trong đó trọng tâm là dự báo đúng và trúng các xu hướng biến đổi về cơ cấu, biến đổi xã hội trong những năm tới để xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Muốn kiểm soát xã hội tốt mà cụ thể là kiểm soát hiện tượng phân tầng xã hội, xử lý các rủi ro xã hội, đảm bảo an toàn xã hội, an ninh con người; đảm bảo lợi ích hợp pháp, chính đáng cũng như chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí thì cần phải làm tốt công tác dự báo, thậm chí phát triển khoa học dự báo để xây dựng các chính sách phù hợp (tránh độ trễ trong xây dựng và thực thi chính sách). Đó là điều kiện tiên quyết để quản lý phát triển xã hội khoa học, hiện đại và là nền tảng để cần đối, hài hòa giữa các chính sách kinh tế với chính sách xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người.

Thứ bảy, đối với các chính sách về an ninh con người cần phải chú ý đến tính ổn định, an toàn và đảm bảo các quyền cơ bản của con người.

Mục tiêu là bảo đảm mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một môi trường xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh. Muốn vậy, yêu cầu đặt ra trong hoạch định và thực thi chính sách an ninh con người cần làm cho người dân “cảm giác an toàn” và thực hiện các quyền cơ bản một cách thực chất. Lưu ý rằng, sự bất ổn định nơi sinh sống do nhiều nhân tố tác động, kể cả di cư và tác động bởi việc thu hồi đất mà không làm tốt công tác tái định cư cũng khiến cho người dân cảm thấy “bất an”; những tác động từ thiên đai, dịch bệnh nếu không được kịp thời xử lý, giải quyết, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cũng khiến tâm lý “bất an” có đấy nảy sinh; khi các quyền con người bị xâm phạm, hiện tượng bạo lực (nhất là bạo lực xã hội, bạo lực gia đình, bạo lực trường học, bạo lực “trên không gian mạng”,..) cũng khiến cho con người cảm thấy “bất an”; các hành vi thiếu chuẩn mực, xâm hại đến nhân phẩm con người (thực tế và không gian mạng) cũng là điều kiện hình thành nên yếu tố mất an toàn; hiện tượng đói nghèo và đói nghèo cùng cực nhưng không được hỗ trợ bằng những chính sách cụ thể, kịp thời cũng khiến cho nhóm xã hội đó có tâm lý “bị bỏ rơi”,… Tất cả những biểu hiện đó, dù ở nhiều cấp độ khác nhau, cần sự nhìn nhận một cách đúng đắn và thái độ trách nhiệm từ phía nhà quản lý, trong đó có công tác quản lý nhà nước gắn với cơ chế, chính sách và biện pháp thực thi tương ứng mới có thể mang lại sự an toàn, an ninh con người, góp phần ổn định và phát triển xã hội theo hướng bền vững.

3. Kết luận

Chính sách xã hội, đảm bảo an ninh xã hội, an ninh con người là bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống chính sách ở nước ta. Xây dựng, hoàn thiện và phát triển các chính sách này cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn là yêu cầu mang tính tất yếu, trong đó nhiệm vụ thực thi chính sách và đội ngũ thực thi chính sách cần phải đồng bộ và đáp ứng các yêu cầu về trình độ, năng lực, thái độ, tinh thần trách nhiệm. Nói cách khác, có chính sách tốt nhưng cũng cần phải tổ chức thực thi chính sách phải kịp thời, hiệu quả. Thực thi chính sách an sinh xã hội, an ninh con người hiệu quả có ý nghĩa quan trọng đến sự đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng xã hội hiện đại, dân chủ, văn minh.

Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 của Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ những nhiệm vụ, giải pháp phát triển đất nước ta gắn với an ninh con người trong thời gian tới: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước[4].

Muốn thực hiện các mục tiêu lớn mang tầm chiến lược này cần phải có sự quyết tâm lớn của toàn hệ thống chính trị, cần phải có sự hỗ trợ, đồng thuận từ phía nhân dân. Từ giác độ lãnh đạo và quản lý phát triển xã hội nhìn nhận cần phải kịp thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh trật tự, không để xảy ra các “điểm nóng”. Kịp thời đấu tranh trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, băng nhóm ma tuý….; cần tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; cần phải tạo ra được ngày càng nhiều hơn những điều kiện vật chất và tinh thần để con người có được đời sống yên ổn và cơ hội phát triển;  cần quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần đáng kể thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

TS. Phạm Đi

 

Tài liệu tham khảo

1.    Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

2.    Hội đồng lý luận Trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3.    Nguyễn Hữu Dũng, Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2030, (Tạp chí Cộng sản điện tử:  https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/823812/quan-ly-phat-trien-an-sinh-xa-hoi-ben-vung-giai-doan-2021---2030.aspx)

4.    Bùi Đình Thanh (1993), Chính sách xã hội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

5.    Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội – kin nghiệm của một số nước đối với Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

6.    Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

7.    Phạm Đi (2019), Xã hội học với lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin truyền thông, Hà Nội.

8.    Phạm Đi (2018), Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

 

  

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H2021, tr.147-148.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.331

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H.2021, tr.331.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, Nxb. CTQG ST. H2021, tr.331

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ