ĐÀ NẴNG VỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH

 

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG – MỘT SỐ KẾT QUẢ BAN ĐẦU

Tóm tắt:

Đô thị thông minh (ĐTTM) đã, đang và sẽ là xu thế, khuynh hướng phát triển của toàn nhân loại. Nói cách khác, đô thị thông minh là xu hướng phát triển tất yếu, nó không còn khẩu hiệu suông mà thực chất là bước đi, là giải pháp, là sự lựa chọn của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm hướng đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo ra nhiều giá trị mới, thúc đẩy tiến trình phát triển đất nước nói chung, phát triển đô thị nói riêng. Cùng với xu thế phát triển đô thị theo hướng đến đô thị xanh - thông minh, Đà Nẵng là một trong những thành phố tiến hành thúc đẩy nhanh chóng tiến trình đô thị hóa gắn với định hướng số hóa, thông minh hóa. Bài viết tiến hành phân tích, đánh giá kết quả thực thi chính sách phát triển đô thị thông minh của thành phố Đà Nẵng, qua đó nhận diện một số vấn đề nổi cộm, bất cập, vướng mắc để có phương án tháo gỡ, khắc phục, hướng đến xây dựng và phát triển đô thị thông minh ở Đà Nẵng một cách hiệu quả hơn, thực chất hơn, thông mình hơn và bền vững hơn.

Từ khóa: Thực hiện chính sách, Công nghệ thông tin, Cơ sở dữ liệu, Đô thị thông minh

IMPLEMENTING SMART CITY DEVELOPMENT POLICY IN DA NANG VIETNAM – SOME INITIAL RESULTS

Abstract:

Smart Cities have been, are and will be the trend and development direction of all humanity. In other words, smart cities are an inevitable development trend. It is no longer just a slogan but is actually a step, a solution, a choice of many countries in the world towards the goal of sustainable urban development, improve people's material and spiritual life, create many new values, promote the country's development process in general, urban development in particular. Along with the trend of urban development towards green - smart urban areas. With the trend of urban development towards green smart cities, Da Nang is one of the cities that is rapidly advancing the urbanization process in the direction of digitalization and intelligence. This paper analyzes and evaluates the implementation results of the smart city development policy in Da Nang City, identifies some prominent problems, deficiencies and obstacles, and proposes solutions, aiming to build and develop the smart urban area of ​​Da Nang City in a more effective, substantive, wise and sustainable way.

Keywords: Policy Implementation, Information Technology, Database, Smart Cities

 

 

 


 

1. Đặt vấn đề

Những năm gần đây, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cũng như cộng đồng doanh nghiệp và nhiều thành phần kinh tế trong xã hội đã nỗ lực nghiên cứu, khai thác, ứng dụng phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam ở nhiều cấp độ khác nhau. Trước xu thế chung về phát triển đô thị thông minh trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên thế giới, Việt Nam xác định, phát triển đô thị thông minh là một nội dung để thực hiện đột phá[1].

Nắm bắt xu thế phát triển mới, từ năm 2015, thành phố Đà Nẵng đã sớm phê duyệt Đề án xây dựng TPTM và tổ chức triển khai trên toàn thành phố. Đến ngày 29 tháng 12 năm 2018, UBND thành phố Đà Nẵng tiếp tục ban hành Quyết định Về việc ban hành Đề án xây dựng thành phố thông minh tại thành phố Đà Nẵng, giai đoạn 2018-2025, định hướng đến năm 2030[2]. Theo đó, thí điểm ứng dụng thông minh trên một số lĩnh vực chủ yếu là giao thông, an ninh trật tự và an toàn xã hội, cấp nước, môi trường, cấp điện, an toàn vệ sinh thực phẩm, giáo dục, y tế,...

Thế nhưng, sau hơn 05 năm thực hiện Đề án, bên cạnh những thuận lợi đã xuất hiện không ít những khó khăn, vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu để tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra giải pháp thích hợp cho các giai đoạn tiếp theo. Từ những vấn đề nảy sinh, bất cập của thể chế, chính sách đến nguồn lực để thực hiện như nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực và cả thời lực; từ vấn đề bất cập ở chính sách mang tầm quốc gia đến tổ chức thực hiện ở một đô thị cụ thể với một xuất phát điểm không cao; từ sự đảm bảo tính liên thông, liên vùng trong việc kết nối các cơ sở dữ liệu (CSDL) đến sự đồng bộ từ lãnh đạo cao cấp đến chuyên viên để hệ thống thống nhất về dữ liệu, không tắc về quy trình; hệ thống không bị “bỏ đói”; từ hạ tầng công nghệ thông tin của thành phố đã triển khai trước đó với hạ tầng đầu tư mới nhằm hướng đến duy trì vận hành thông suốt, tương thông với CSDL hiện hữu; từ nguồn lực cán bộ hiện có trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ TPTM đến yêu cầu đòi hỏi trình độ cao hơn để đáp ứng với công việc mới; từ sự quyết tâm của toàn hệ thống chính trị đến sự ủng hộ, tham gia của người dân đối với chương trình đô thị thông minh,…

Thực hiện một chính sách đã khó, thực thi chính sách phát triển đô thị thông minh càng khó hơn nhiều bởi tính “mới” và “các nan đề”[3] của nó. Đà Nẵng được chọn thí điểm xây dựng TPTM là cơ hội cũng là thách thức. Bởi lẽ, từ chính sách đến thực tiễn bao giờ cũng là một khoảng cách không ngắn, thách thức không nhỏ. Điều này cần phải sự quyết tâm chính trị lớn từ phía chính quyền, sự đồng tình ủng hộ từ phía người dân, sự song hành từ các nhà khoa học đến nhà quản lý thực tế, sự cộng hưởng từ thể chế, chính sách với nguồn lực cũng như các điều kiện thực tiễn địa phương, sự đột phá trong tư duy đến nhìn nhận các vấn đề nảy sinh trong triển khai thực thi chính sách.

2. Một số kết quả đạt được trong thực hiện chính sách phát triển đô thị thông minh ở thành phố Đà Nẵng

Để hiện thực hóa mục tiêu của Đề án, chính quyền và các cơ quan hữu quan của thành phố Đà Nẵng đã ban hành nhiều chính sách tương ứng và triển khai thực hiện một cách quyết liệt từ khâu hoàn thiện các cơ chế, chính sách phù hợp đến công tác tuyên truyền, phổ biến; tổ chức bộ máy và phân công phối hợp thực hiện; huy động, phân bổ các nguồn lực; công tác kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện; hoạt động đánh giá quá trình thực hiện cũng như dự báo các khó khăn, vướng mắc, thách thức, xu hướng, các nhiệm vụ cần phải thực hiện, giải quyết trong thời gian đến.

2.1. Công tác tuyên tuyền, phổ biến

Công tác tuyên truyền, phổ biến hay truyền thông là một trong những bước thiết yếu, đầu tiên, xuyên suốt để triển khai thực hiện một chính sách, kế hoạch, đề án. Truyền thông chính sách có tác dụng làm cho các chủ thể nhận thức được vai trò của mình, từ đó phát huy quyền làm chủ và sự tham gia trong tiến trình thực thi các chính sách; là một hình thức tiếp cận mở rộng dân chủ, để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.

Đương nhiên, khi triển khai thực hiện một chính sách, trước hết và tiên quyết và sự nhận thức, hành động của chính đội ngũ cán bộ, viên chức, đảng viên. Trong trường hợp này, việc làm cho từng cán bộ, đảng viên (nhất là những người trực tiếp thực hiện các chính sách về phát triển ĐTTM) phải nắm, hiểu và thực hiện đúng, trúng các chủ trương, đường lối, chính sách của Trung ương, Thành phố về xây dựng, phát triển thành phố Đà Nẵng theo hướng thông minh và “thông minh hơn”. Với tinh thần đó, Đà Nẵng đã xác định hoạt động truyền thông về TPTM là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là giải pháp góp phần thực hiện (và thực hiện thành công, hiệu quả) chiến lược phát triển TPMT.

Trong thời gian qua, Thành ủy Đà Nẵng đã tổ chức hội nghị học tập, quán triệt đến đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp bằng việc ban hành Chỉ thị số 41-CT/TU, ngày 10-8-2020, “Về lãnh đạo tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng”. Song song với đó, ngày 22 tháng 02 năm 2022, UBDN thành phố Đà Nẵng đã ban hành Kế hoạch số 36 Về triển khai thực hiện thiết kế đô thị được duyệt tại khoản 9 điều 1 quyết định số 359/QĐ-TTg ngày 15/3/2021 của thủ tướng chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Qua kết quả khảo sát, 100% cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC), 83,3% người dân biết đến chủ trương thực hiện thí điểm tổ chức mô hình CQĐT tại thành phố và 73,1% CBCCVC, 81,5% người dân đồng thuận với chủ trương này[4]. Đặc biệt, hiện nay, đại đa số cán bộ công chức đều sử dụng được máy tính, email công vụ trong công tác; trên 80% hộ dân có kết nối internet và sử dụng các dịch vụ liên quan đến internet; đã dần hình thành nên thị trường công nghệ thông tin (CNTT) thông qua hoạt động của các tuyến phố chuyên doanh thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp.

Ngoài hoạt động truyền thông tại các hội nghị, cuộc họp, tuyên truyền qua các trang mạng xã hội, tuyên truyền cổ động trực quan trên các trục đường chính của thành phố, UBND thành phố còn giao trọng trách Thành Đoàn tuyên truyền, hướng dẫn xây dựng lực lượng nòng cốt, hỗ trợ người dân. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền về ĐTTM và tạo sự đồng thuận, hưởng ứng mạnh mẽ trong toàn xã hội. Điều cần nhấn mạnh là, thông qua hoạt động truyền thông chính sách, chính quyền thành phố, các cơ quan hữu quan, cán bộ có nhiệm vụ thực thi chính sách phát triển ĐTTM của Đà Nẵng có dịp, cơ hội để lắng nghe, thu thập thông tin từ các nhà khoa học, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân một cách cầu thị để tiếp tục bổ sung, điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, kịp thời.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên truyền vẫn còn một số hạn chế như: truyền thông vẫn chưa đạt hiệu quả cao; việc sử dụng các dịch vụ công trực tuyến chưa được rộng rãi, sự tham gia của người dân chưa đồng đều, chưa có chính sách ưu tiên đối tượng sử dụng các dịch vụ công của các cơ quan nhà nước theo hình thức trực tuyến.

2.2. Tổ chức bộ máy và phân công phối hợp thực hiện

Như đã đề cập, so với các thành phố khác, Đà Nẵng là một trong những địa phương có ý tưởng và tiến hành xây dựng ĐTTM khá sớm. Minh chứng cho điều này là từ năm 2014, thành phố Đà Nẵng đã lập đề án xây dựng TPTM với mục tiêu nhằm thúc đẩy việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý đô thị (QLĐT), tạo lập những nền tảng cơ bản để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao chât lượng sống cho người dân, phát triển Đà Nẵng theo định hướng một thành phố thân thiện với môi trường, “thành phố đáng đến và đáng sống”.

Để hiện thực hóa các ý tưởng, chủ trương đó, từ năm 2014, lãnh đạo Thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng thành phố thông minh[5]. Đến năm 2016, thành phố Đà Nẵng đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng thành phố “thông minh hơn”, đồng chí Chủ tịch UBND thành phố là Trưởng ban. Ban chỉ đạo được lập ra với mục đích tham mưu cho UBND thành phố các chủ trương, giải pháp, chính sách để xây dựng thành phố thông minh hơn; giúp UBND thành phố trong việc chỉ đạo, điều phối thực hiện các chủ trương, chính sách, kế hoạch, dự án xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn. Đến năm năm 2017, do yêu cầu “số hóa” và chủ trương “chuyển đổi số”, Đà Nẵng đã thành lập Ban Chỉ đạo ứng dụng và phát triển CNTT và Ban chỉ đạo xây dựng thành phố thông minh hơn. Đồng thời để thống nhất trong việc triển khai chính quyền điện tử và TPTM, Đà Nẵng đã tiến hành hợp nhất 2 Ban chỉ đạo xây dựng Chính quyền điện tử và TPTM (Quyết định số 5544/QĐ-UBND ngày 21/11/2018).

Theo đó, Ban chỉ đạo xây dựng chính quyền điện tử và TPTM có chức năng nghiên cứu, tham mưu cho UBND thành phố trong việc tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chiến lược, cơ chế, chính sách về phát triển Chính phủ điện tử và xây dựng TPTM. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ hỗ trợ UBND thành phố chỉ đạo các sở, ban, ngành…; điều phối, kiểm tra việc thực hiện các chiến lược, chương trình, cơ chế... có tính chất liên ngành về Chính phủ điện tử và TPTM. Ngoài ra, Ban chỉ đạo này có chức năng tham mưu cho UBND thành phố triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, chỉ đạo ứng cứu khẩn cấp sự cố an toàn thông tin mạng.

Có thể nhận định, từ sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Ban chỉ đạo đã tạo sự đồng thuận tham gia từ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên của tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương trên toàn thành phố Đà Nẵng. UBND các quận cụ thể hóa thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của UBND thành phố về việc chú trọng, triển khai các chủ trương thực hiện chính sách ĐTTM đến các ngành, các cấp.

Nhìn chung, về tổ chức bộ máy và sự phân công phối hợp thực hiện chính sách ĐTTM, qua kết quả triển khai chính quyền điện tử và thí điểm các ứng dụng thông minh trong các lĩnh vực như: giao thông; an ninh trật tự và phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn,; lĩnh vực cấp nước; lĩnh vực môi trường; lĩnh vực cấp điện; lĩnh vực an toàn và vệ sinh thực phẩm; lĩnh vực giáo dục; lĩnh vực y tế, và cho thấy: bộ máy hành chính nhà nước được sắp xếp tinh gọn gắn với đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền đã từng bước nâng cao được vai trò, trách nhiệm của chính quyền các cấp, phát huy được dân chủ ở cơ sở và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống hành chính nhà nước.

Song bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thực hiện chính sách phát triển ĐTTM (thí điểm mô hình CQĐT) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng vẫn còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế về tổ chức bộ máy và phân công phối hợp thực hiện như: Cơ cấu tổ chức, việc phân cấp, ủy quyền đối với một số nhiệm vụ tại cơ sở còn hạn chế, đôi lúc chưa cụ thể, rõ ràng; chế độ công vụ của cán bộ phường chưa thống nhất với công chức phường, quy định về tổ chức bộ máy của quận chưa linh hoạt với đặc thù từng quận...; một số cơ chế, chính sách đặc thù chưa triển khai, đang trong giai đoạn đề xuất hoặc chưa thực sự phát huy hiệu quả.

Một tồn tại nữa là, nhận thức của một số lãnh đạo, cán bộ, công chức và người dân về đô thị thông minh vẫn còn chưa rõ ràng; cơ sở lý luận cũng như thực tiễn chưa được đưa vào nghiên cứu một cách có bài bản, hệ thống. Vì vậy, đến nay, một số quận vẫn chưa có một văn bản nào liên quan đến việc nghiên cứu, hoạch địch chính sách xây dựng đô thị thông minh trên địa bàn quận. Đây chính là một trong những hạn chế lớn trong việc thúc đẩy việc xây dựng ĐTTM một cách bài bản, có tầm nhìn chiến lược, và triển khai hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

2.3. Huy động, bố trí các nguồn lực

Việc huy động và bố trí các nguồn lực (nhất là nguồn lực tài chính) có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc triển khai thực hiện các chính sách, đề án phát triển ĐTTM. Do đó, ngay từ đầu Đà Nẵng đã xác định: (i) Tranh thủ các chương trình, dự án, nguồn vốn của Trung ương trong lĩnh vực phát triển và ứng dụng CNTT; (ii) Ưu tiên bố trí kinh phí thực hiện các chương trình ứng dụng và phát triển CNTT hằng năm cho các cơ quan, đơn vị, địa phương của thành phố để đẩy mạnh ứng dụng CNTT; (iii) Huy động các nguồn vốn vay ODA, tài trợ không hoàn lại trong xây dựng TPTM; (iv) Triển khai hình thức hợp tác công - tư (PPP) theo đó nhà nước cho phép doanh nghiệp cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của nhà nước; (v) Phát triển và áp dụng các ứng dụng thông minh có thu phí với hình thức phù hợp và khuyến khích người dân sử dụng (không bắt buộc) nhằm tạo thêm nguồn kinh phí tái đầu tư cho các dự án, ứng dụng thông minh khác.

Với quyết tâm đến năm 2030 Đà Nẵng sẽ phải “Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh kết nối đồng bộ với các mạng lưới ĐTTM trong nước và khu vực ASEAN; GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.700 USD; tỉ trọng tổng sản phẩm trên địa bàn của Đà Nẵng so với cả nước đạt trên 2%; quy mô dân số đạt khoảng 1,5 triệu người; giải quyết việc làm mới hằng năm trên 3,5 vạn lao động; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 70%; chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất không vượt quá 5,0 lần; người dân được tiếp cận đầy đủ và công bằng với nước uống và sinh hoạt an toàn, đặc biệt an toàn trước thiên tai; bảo đảm 100% nước thải nguy hại được xử lý,…”[6], Đà Nẵng cần phải nỗ lực nhiều mặt, trong đó có việc huy động và bố trí các nguồn vốn như một giải pháp về tài chính.

Xác định việc xây dựng, kiến tạo ĐTTM là nhiệm vụ, là sứ mệnh, mục tiêu mà Đà Nẵng phải hướng đến, do đó, trên “đường đua” kiến tạo ĐTTM, “thành phố đáng sống” đã được xác định tại Đề án xây dựng TPTM tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2018-2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, giai đoạn đến năm 2020 thực hiện sẵn sàng hạ tầng, nền tảng và dữ liệu thông minh. Tổng kinh phí thực hiện 939 tỷ đồng, trong đó, thu hút đầu tư từ hình thức hợp tác công-tư (PPP) chiếm 550 tỷ đồng, doanh nghiệp đầu tư 46 tỷ đồng; Giai đoạn 2021-2025 thực hiện thông minh hóa các ứng dụng với tổng kinh phí 1.191 tỷ đồng. Trong đó, vốn PPP chiếm 700 tỷ đồng, vốn vay ODA chiếm 150 tỷ đồng, doanh nghiệp đầu tư 36 tỷ đồng; Giai đoạn 2026-2030 thực hiện thông minh hóa các ứng dụng CNTT trên cơ sở tổng kết hoạt động giai đoạn 2021-2025.

Do đó, việc huy động, bố trí các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực – nguồn kinh phí) để thực hiện chính sách ĐTTM đóng vai trò rất quan trọng, là nhân tố quyết định việc đảm bảo thực thi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển ĐTTM của Đà Nẵng.

Về nguồn kinh phí: Trước hết, để triển khai chính sách ĐTTM cần phải có một nguồn kinh phí tương đối lớn để tiếp cận có hiệu quả các sản phẩm công nghệ thông tin - truyền thông hiện đại, triển khai đồng bộ và rộng rãi trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thuê các nhà tư vấn, đầu tư có năng lực trong và ngoài nước triển khai thực hiện. Vì thế, ngoài việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo nguồn lực tài chính dồi dào, chính quyền Thành phố đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để thu hút vốn đầu tư, khuyến khích các đơn vị tư nhân tài trợ hoặc tham gia bằng hình thức hợp tác công tư, thực hiện chính sách ưu đãi vốn vay đối với các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực công nghệ thông tin; tạo cơ chế thuận lợi để các doanh nghiệp thực hiện việc thí điểm dùng thử công nghệ thông tin trên một số lĩnh vực.

Về nguồn nhân lực: Xác định nguồn nhân lực là “then chốt của then chốt” trong thực hiện các mục tiêu phát triển TPMT, Đà Nẵng rất chú trọng về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Trong đó đặc biệt chú ý đến nhân lực CNTT. Hiện nay, với hơn 500 cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT- TT) làm việc trong các cơ quan nhà nước, trong đó có 35 thạc sỹ, 8 tiến sỹ công nghệ CNTT-TT, đảm bảo vận hành các Hệ thống thông thông tin của chính quyền điện tử thành phố, giám sát, khắc phục các lỗi, sự cố 24/7, sẵn sàng vận hành các ứng dụng thông minh.

Ngoài ra, Đà Nẵng còn thực hiện cơ chế thu hút, đãi ngộ các chuyên gia, nguồn nhân lực chất lượng cao ở trong và ngoài nước. Đẩy mạnh hợp tác với các công ty CNTT để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật các ứng dụng công nghệ mới của thế giới. Nguồn nhân lực chuyên gia của trên 25 Trường Đại học, Cao đẳng với số lượng trên 120 Tiến sĩ, 37 Phó Giáo sư chuyên ngành CNTT-TT và các chuyên ngành gần hỗ trợ tốt cho việc gắn kết giữa Nhà Doanh nghiệp - Nhà Trường - Nhà Quản lý, giúp thu hẹp khoảng cách nghiên cứu, ứng dụng trên lĩnh vực CNTT-TT, tạo dựng các nền tảng cho các nghiên cứu xử lý dữ liệu lớn (Bigdata), nền tảng lưu trữ (Cloud computing), trí tuệ nhân tạo (AI), nhận dạng[7],..

Bên cạnh kết quả đạt, công tác huy động, bố trí nguồn lực cho việc triển khai thực hiện chính sách TPTM vẫn còn những thách thức, rào cản như: Ngân sách bố trí cho kế hoạch ứng dụng CNTT còn hạn chế, ở mức khá thấp ở một số quận, thậm chí có quận có nguy cơ không đủ nguồn lực để duy trì, phát triển hạ tầng và ứng dụng CNTT trong những năm đến. Hơn nữa, do việc triển khai chính sách ĐTTM cần nguồn kinh phí khá lớn và lâu dài những thực tế chưa tạo ra được môi trường tham gia của các doanh nghiệp để có nguồn đầu tư thích hợp do bị ràng buộc theo các định chế trong đầu tư và các hướng dẫn “Công - Tư hợp tác” trên lĩnh vực CNTT-TT.

Các ứng dụng thông minh triển khai trong thời gian qua là giai đoạn thí điểm. Thực tiễn cho thấy nguồn nhân lực dành cho TPTM đòi hỏi ở trình độ cao, mang yếu tố cạnh tranh với các Doanh nghiệp; việc thu hút nguồn nhân lực có trình độ về CNTT là hết sức khó khăn; các lĩnh vực như Giáo dục, Y tế, Du lịch, Giao thông,... nhân lực chưa sẵn sàng cho việc tiếp nhận, vận hành hệ thống CNTT, hệ thống thông minh. Đặc biệt, một số địa phương có cơ chế thu hút, ưu đãi nguồn lực công nghệ thông tin còn hạn chế, chưa khuyến khích được cán bộ tích cực trong công tác triển khai và ứng dụng công nghệ thông tin ở đơn vị mình.

2.4. Công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện

Để quá trình triển khai chính sách ĐTTM đạt hiệu quả đồng thời cũng hạn chế được những sai sót trong quá trình thực hiện, công tác kiểm tra, giám sát cần phải được chú trọng. Với tinh thần nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan đơn vị địa phương, phát huy tính sáng tạo chủ động trong công tác quản lý điều hành, thường xuyên bám sát chương trình, kế hoạch và các văn bản quy định, chỉ đạo, hướng dẫn trong quá trình triển khai chính quyền đô thị và thí điểm các ứng dụng thông minh, thời gian qua Đà Nẵng đã huy động sự tham gia của cộng đồng xã hội ủng hộ việc triển khai các hệ thống CNTT-TT để bảo đảm việc giám sát tình hình an ninh trật tư tại các khu dân cư; người dân tự giác đăng ký các tài khoản công dân điện tử; tham gia góp ý, phản ánh các vấn đề liên quan đến QLĐT trên Hệ thống thông tin CQĐT,...có thể nói đây là một trong những cách thức kiểm tra, giám  sát phát huy được tính dân chủ, công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách phát triển TPTM cho Đà Nẵng.

2.5. Công tác đánh giá quá trình thực hiện

Quá trình triển khai chính sách phát triển ĐTTM ở Đà Nẵng thời gian qua bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng[8]. Trong đó có thể kể đến là việc ứng dụng CNTT vào trong công tác quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công ở các ngành, các cấp luôn được quan tâm và chú trọng triển khai thực hiện theo hướng dẫn, chỉ đạo của thành phố; các cơ chế, chính sách để thúc đẩy ứng dụng CNTT trong các cơ quan, đơn vị được ban hành đầy đủ kịp thời và thường xuyên cập nhật, bổ sung sao cho phù hợp với thực tế triển khai. Cụ thể, thành phố Đà Nẵng đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT trên các lĩnh vực: xây dựng chính quyền điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, áp dụng CNTT trong các lĩnh vực giao thông, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường,...

Điều đáng ghi nhận là, trong giai đoạn 2019-2021, Đề án TPTM có 13 mục tiêu và thành phố Đà Nẵng đã hoàn thành 12/13 mục tiêu[9]. Cụ thể là mạng đô thị MAN được mở rộng, kết nối đến các cơ quan Đảng và các đơn vị sự nghiệp; trung tâm dữ liệu thành phố bảo đảm nâng cao năng lực cài đặt, triển khai các CSDL và ứng dụng thông minh; hình thành trung tâm giám sát, điều hành và xử lý tập trung, đa nhiệm giai đoạn 1 để kết nối và phân tích dữ liệu liên ngành, cung cấp các chỉ số kinh tế - xã hội và đô thị (KPI).

Đến nay, Đà Nẵng đã triển khai 34 dự án, chương trình thuộc Đề án thành phố thông minh với kinh phí bố trí từ ngân sách địa phương. Hiện có 21 dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng với tổng kinh phí thực hiện 97,9 tỷ đồng; 5 dự án đã phê duyệt hồ sơ thiết kế thi công - dự toán với tổng kinh phí dự kiến 147,5 tỷ đồng và đưa vào sử dụng năm 2022-2023; 3 dự án đã phê duyệt chủ trương đầu tư với tổng kinh phí dự kiến 8,5 tỷ đồng, hiện đang hoàn thiện hồ sơ thiết kế thi công - dự toán để đưa vào sử dụng trong năm 2024; 4 dự án đang hoàn thiện hồ sơ chủ trương đầu tư và 1 dự án tạm dừng. Theo đó, dự án hoàn thiện hệ thống giám sát an ninh trật tự tạm dừng để gộp chung với dự án hiện đại hóa trung tâm thông tin chỉ huy kết hợp hệ thống camera và các phần mềm thông minh...

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện chính sách xây dựng ĐTTM của thành phố trong những năm qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế như: (i) Trên địa bàn một số quận chưa có chính sách thu hút các công ty công nghệ thông tin về kinh doanh và đầu tư; chưa có kế hoạch cụ thể phối hợp với công ty công nghệ thông tin xây dựng khung kiến trúc để thống nhất, đồng bộ hóa hạ tầng công nghệ thông tin để phục vụ xây dựng ĐTTM; (ii) Hiệu quả sử dụng trang thiết bị, hạ tầng công nghệ thông tin vẫn chưa đạt hiệu quả cao, nhất là ở các phường do thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo và thiếu cán bộ chuyên trách CNTT; các đơn vị còn ít quan tâm đến công tác bảo trì, bảo dưỡng nên thường dẫn đến hư hỏng thiết bị; (iii) Mức độ an toàn, an ninh thông tin tại các máy tính cá nhân của cán bộ, công chức ở một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, cán bộ, công chức còn tùy ý cài đặt các phần mềm bẻ khóa, phần mềm không rõ nguồn gốc, gây nguy cơ mất an ninh mạng; (iv) Nhận thức của người dân đối với chính sách còn nhiều hạn chế, mặc dù chính sách ban hành rất thiết thực nhưng do thói quen của người dân nên việc thực hiện chính sách theo đúng mục tiêu còn gặp nhiều khó khăn; (v) Cơ chế thu hút, ưu đãi nguồn lực công nghệ thông tin còn hạn chế, chưa khuyến khích được cán bộ tích cực trong công tác triển khai và ứng dụng công nghệ thông tin ở đơn vị mình,...

3. Thay cho lời kết

Để triển khai thực hiện, kiến tạo và phát triển TPTM, điều tiên quyết là phải có cơ chế, thể chế, chính sách hết sức rõ ràng, tính khả thi cao; cần có sự quyết tâm chính trị lớn của toàn hệ thống chính trị, của chính quyền thành phố Đà Nẵng và các cơ quan chức năng hữu quan. Thời gian qua, lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã thể hiện sự quyết tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung đẩy mạnh công tác ứng dụng và phát triển CNTT; thành phố đã thành lập các ban chỉ đạo (người đứng đầu UBND là Trưởng ban) để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng TPTM. Điều đó thể hiện sự linh hoạt, quyết liệt và quyết tâm của các cấp lãnh đạo thành phố Đà Nẵng qua các thời kỳ.

Tuy nhiên, bên cạnh sự vào cuộc của lãnh đạo trong hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách cho phát triển ĐTTM, song nhìn chung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến ĐTTM còn chưa đồng bộ và thiếu tính liên ngành; quy chế thí điểm quản lý đầu tư phát triển ĐTTM và tiêu chí đánh giá ĐTTM chưa được thống nhất ban hành; tiêu chuẩn, quy chuẩn quy hoạch ĐTTM và hạ tầng kỹ thuật, công trình kiến trúc thông minh chưa được ban hành đầy đủ và đồng bộ.

Rõ ràng, việc xây dựng và phát triển ĐTTM rất cần phải dựa trên một hành lang pháp lý đồng bộ và có hiệu lực, hiệu quả. Do đó, thiết nghĩ cần tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với cơ chế thị trường định hướng; tạo hành lang pháp lý chặt chẽ, minh bạch, khuyến khích phát triển thị trường khoa học CNTT và ứng dụng CNTT vào trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Điều quan trọng hơn là, trong những giai đoạn tiếp theo của tiến trình xây dựng TPTM, Đà Nẵng cần chú trọng hơn các yếu tố về quy hoạch và quản lý quy hoạch; chú trọng hơn việc gắn kết giữa quá trình “chuyển đổi số” với xây dựng TPTM; chú trọng hơn các yếu tố khoa học kỹ thuật, áp dụng các công nghệ tiên tiến và đổi mới tư duy hoạch định, thực thi chính sách để tránh “lạc hậu về tư duy”, lạc hậu về công nghệ; góp phần thúc đẩy thành phố Đà Nẵng phát triển theo hướng thông minh hơn, thông minh bền vững./

TS. Phạm Đi



[1] Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá về quy hoạch và đầu tư xây dựng đô thị theo hướng phát triển đô thị thông minh, xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên và nguồn lực, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật,H.2021,  tập 2, tr124.

[2] Theo Quyết định số 6439/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2018 của UBND thành phố Đà Nẵng (Sau đây gọi là Đề án)

[3] Tức là các “vấn đề nan giải” (phát sinh các tình huống, hiện tượng, vấn đề buộc chủ thể quản lý phải tìm kiếm nguyên nhân, phân tích các nhân tố tác động và đưa ra sự lựa chọn phương án để giải quyết vấn đề nảy sinh đó

[4] TS Nguyễn Văn Quảng, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo xây dựng chính quyền đô thị: Những kết quả bước đầu, vấn đề đặt ra và phương hướng trọng tâm thời gian tới, Tạp chí Cộng sản (điện tử, số ra ngày 05 tháng 01 năm 2024). Tham kiến: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/869202/view_content

[5] Lúc đó do Chủ tịch UBND thành phố là ông Huỳnh Đức Thơ làm Trưởng ban; Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông làm Phó Trưởng ban thường trực; Các thành viên khác của Ban chỉ đạo gồm các Sở: Tài chính,  Nội vụ,  Khoa học và Công nghệ,  Giao thông Vận tải,  Y tế, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Văn phòng UBND Thành phố Đà Nẵng.

[6] Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Bộ Chính trị Về xây dựng và phát triển thành phố đà nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

[7] Đề án xây dựng thành phố thông minh tại Đà Nẵng giai đoạn 2018-2025, định hướng đến năm 2030 (kèm theo Quyết định số 6439/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2018 của UBND thành phố Đà Nẵng)

[8] Không phải ngẫn nhiên mà Đà Nẵng đã 4 lần nhận giải thưởng Thành phố thông minh (https://nhandan.vn/da-nang-lan-thu-4-nhan-giai-thuong-thanh-pho-thong-minh-viet-nam-post785175.html)

[9] Mai Quế, Nhiều kết quả sau 3 năm triển khai đề án thành phố thông minh. Báo Đà Nẵng  Online. Tham kiến: https://baodanang.vn/channel/5399/202210/nhieu-ket-qua-sau-3-nam-trien-khai-de-an-thanh-pho-thong-minh-3928552/index.htm

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ