VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI
VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI
Trong suốt chiều
dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, dư luận xã hội có một vai trò quan
trọng đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội. Tuy nhiên, việc nhìn nhận về
vai trò và chức năng của dư luận xã hội lại rất khác nhau: từ cách đánh giá dư
luận xã hội như là phương tiện có sức mạnh tác động to lớn đến cách nhìn nhận
dư luận xã hội như một mớ ý kiến lộn xộn, không xứng đáng để áp dụng vào công
việc quản lý nhà nước. Xét từ giác độ xã hội học, việc tìm hiểu, phân tích vai
trò và chức năng của dư luận xã hội cần được tiến hành từ nhiều góc độ mà nổi
lên đó là góc độ tính tích cực hay tiêu cực đối với tiến trình phát triển của
xã hội và con người. Không phải ngẫu nhiên mà tư tưởng đoàn kết và gần dân, lắng
nghe nhân dân luôn xuyên suốt trong các trước tác của Hồ Chí Mình, Người khẳng
định: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng
và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng
và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[1]. Tuy nhiên, cần phải nhận thức chức năng của dư
luận ở cả bình diện tích cực và tiêu cực, cả yếu tố hợp lý và bất hợp lý, tránh
“không theo đuôi dư luận” nhưng cũng không “đứng trên dư luận”. Với điểm này,
Bác đã chỉ ra: “Dân chúng không nhất luật
như nhau. Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến
khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu”[2]; “Chúng ta
tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng”[3].
Như vậy, theo nhìn
nhận chung, các nhà lãnh đạo và nhà nghiên cứu đều thống nhất ở nhận định cho rằng
dư luận xã hội tiềm ẩn sức mạnh to lớn, vừa có tác động tích cực, vừa có yếu tố
tiêu cực. Sức mạnh này thể hiện qua các chức năng cơ bản của dư luận xã hội
trong đời sống xã hội và con người cũng như trong hoạt động lãnh đạo, quản lý.
1. Là nhiệt
kế để đo bầu không khí chính trị-xã hội
Bằng cách thức,
phương thức phản ánh riêng của mình gắn với nội dung cụ thể nảy sinh trong đời
sống xã hội thông qua các cuộc trao đổi, thảo luận thì dư luận xã hội, trên
bình diện nào đó mà nói, như một chiếc nhiệt kế khổng lồ để “đo” nhiệt độ “cơ
thể xã hội”. Thông qua phản ánh của các nhóm, các tầng lớp nhân dân trong xã hội
về những vấn đề mà họ quan tâm (kể cả những cơ chế, chính sách của nhà nước có
tác động đến lợi ích của họ) bằng những trạng thái đồng tình hay phản đối, chia
sẻ hay bất đồng, giúp nhà lãnh đạo và quản lý xã hội nhận thấy được những thuận
lợi (hợp lòng dân) hay khó khăn (chưa phù hợp) để có những điều chỉnh kịp thời
và phù hợp. Qua các trạng thái của dư luận xã hội có thể nhận thấy trạng thái
xã hội (chấp nhận hay không chấp nhận, hài hòa hay xung đột, thăng bằng hay
thiêng lệch, bình ổn hay mâu thuẫn, hợp lòng dân hay không hợp lòng dân,…).
Trên bình diện lãnh đạo, quản lý mà nói, đây chính là biểu hiện trạng thái xã hội
để người lãnh đạo nhìn nhận, nắm bắt và có kế hoạch, phương án và đưa ra các
“phác đồ điều trị” phù hợp nhất, nhanh chóng nhất, hiệu quả nhất.
2. Điều
chỉnh các hành vi xã hội
Dư luận xã hội có
tác động trực tiếp bằng cách lên án những hành vi vi phạm pháp luật, trái với đạo
đức, trái với thuần phong mỹ tục hiện hữu; đồng thời cổ vũ những hành vi phù hợp
với lợi ích chung, nêu gương cao đẹp. Từ đó, cá nhân hay nhóm sẽ có hành vi đáp
ứng đối với sự đánh giá của dư luận mà cụ thể là họ sẽ điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với giá trị, chuẩn mực chung.
Dư luận xã hội có
tác dụng lâu dài đến việc xây dựng nhân cách của con người, quá trình xã hội
hoá cá nhân. Sự đánh giá của dư luận xã hội dựa trên những chuẩn mực hành vi đã
có sẵn và được thừa nhận trong cộng đồng người. Trải qua một thời gian nhất định,
cá nhân sẽ cảm nhận được những điều nên và không nên, những hành động cư xử chấp
nhận được trong cuộc sống của họ. Các quá trình này đều diễn ra trong giao tiếp
của nhóm nhỏ, nơi mà các cá nhân thực hiện các hành vi và nhận được sự phán
xét, đánh giá của dư luận. Nếu coi hệ thống giá trị, chuẩn mực là sự kiện đã được
hình thành trong xã hội thì sự phán xét, đánh giá của dư luận được coi là lời
khuyến cáo, nhắc nhở con người quay trở về với khuôn mẫu tư duy và khuôn mẫu
hành vi đã có phù hợp với các giá trị, chuẩn mực văn hoá trong cộng đồng.
Bên cạnh những yếu
tố tích cực, cần thiết phải xem xét cả
tác động tiêu cực của dư luận đối với cuộc sống của cá nhân, nhóm. Trong lịch sử
có không ít những cá nhân là những nạn nhân của dư luận xã hội. Nguyên nhân chủ
yếu là họ có những nhận thức, suy nghĩ, hành vi khác với nhận thức thông thường
và thậm chí đối nghịch với nó. Galileo Galilei và Bruno là những ví dụ.
Như thế, dư luận
xã hội không chỉ có tác tác động điều chỉnh hành vi con người mà chính con người
cũng có tác động khiến dư luận xã hội thay đổi. Sự phán xét, đánh giá của dư luận
xã hội không phải lúc nào cũng đúng, hợp lý và tích cực với quá trình phát triển
của xã hội và con người.
3. Điều
hòa các mối quan hệ xã hội
Hệ thống xã hội tồn
tại rất nhiều các mối quan hệ, các nhóm lợi ích và không phải bao giờ các lợi
ích này cũng được dung hòa mà nhiều lúc khác biệt, thậm chí là xung đột nhau.
Trên cơ sở những sự khác biệt đó, các nhóm thường có những ý kiến đánh giá,
phán xét khác nhau về cùng một sự kiện, hiện tượng, quá trình xảy ra trong hiện
thực xã hội, đặc biệt các sự kiện này động chạm đến lợi ích thiết thân của họ.
Trong bối cảnh đó, dư luận xã hội được coi như một cơ chế thảo luận và trao đổi
liên tục nhằm tìm đến những điểm chung trong lợi ích, trong quan điểm về nhìn
nhận và đánh giá về thực tế xã hội. Chính quá trình này, các lợi ích nhóm dần
được điều hoà mà dần chuyển về lợi ích chung. Trong trạng thái trọn vẹn của
mình, dư luận xã hội thường phản ánh lợi ích và quan điểm của nhóm lớn trong xã
hội, đồng thời thoả mãn một cách hợp lý về lợi ích và quan điểm của các nhóm khác
trong xã hội. Đây là cơ sở cho việc điều hoà các mối quan hệ xã hội và ổn định
trong tiến trình phát triển đời sống kinh tế-xã hội của đất nước.
Từ đó có thể thấy,
quá trình dân chủ hoá đời sống chính trị-xã hội luôn có điều kiện tiên quyết
kèm theo là tăng cường vai trò lãnh đạo, định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam,
người đại diện chính trị duy nhất của giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp
trí thức và của toàn thể nhân dân. Trong quan hệ với dư luận xã hội, vai trò
lãnh đạo, định hướng này phải được thực hiện thông qua công tác tuyên truyền, vận
động liên tục, có hiệu quả cao và phù hợp với mọi nhóm xã hội. Trong phong trào
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng không coi đây là công việc nội bộ của riêng tổ
chức Đảng mà là công việc công khai, công việc của toàn dân. Chính tư duy chính
trị này sẽ là định hướng cần thiết và kịp thời cho các luồng dư luận xã hội
tích cực của đông đảo người dân nhằm ủng hộ công cuộc làm trong sạch đội ngũ Đảng
và tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo và đại diện duy nhất của Đảng cộng sản
Việt Nam.
4. Là cơ
chế kiểm soát, tư vấn xã hội
Sự phán xét và
đánh giá của dư luận xã hội được hình thành thông qua những cơ chế đặc biệt,
trong đó có trao đổi, thảo luận, bàn bạc và đi đến thống nhất. Bằng cơ chế đó,
vô hình trung dư luận xã hội là cơ chế kiểm soát hành vi (hành vi pháp luật,
hành vi hành chính) của bộ máy các cấp; giám sát hoạt động của cá nhân người
lãnh đạo, quản lý (có phù hợp với các văn bản pháp quy hiện hành không, có phù
hợp với lợi ích chung hay không, có “tự tư tự lợi” hay không,…). Các thông tin
của dư luận xã hội còn có ý nghĩa phát hiện, phản ánh vấn đề giúp các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành
pháp, tư pháp) thuận lợi hơn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ngoài ta, thông
qua dư luận xã hội, người dân phán xét, đánh giá về chủ trương chính sách lớn của
đất nước và các hoạt động cụ thể của bộ máy chính quyền. “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” gắn liền với chức năng giám sát và tư vấn của dư luận xã
hội.
Khi sử dụng các tư
vấn của dư luận xã hội cần sự cân nhắc kỹ lưỡng. Một mặt, bộ máy nhà nước mà cụ
thể là cán bộ lãnh đạo quản lý không xem nhẹ dư luận xã hội hoặc coi nó là ý kiến
bên rìa, không giá trị. Đây được coi là thái cực “quay lưng với dư luận”. Hành
động này sẽ dẫn đến sự bất bình, tâm lý ức chế và phản kháng của người dân khi
họ thấy rằng tiếng nói của họ không được tôn trọng. Mặt khác, cũng phải tránh
thái cực thứ hai khi nhất nhất mọi việc đều làm theo sự tư vấn của dư luận. Đây
được coi là thái cực “theo đuôi dư luận”. Thái cực thứ hai sẽ dẫn đến tình trạng
trốn tránh trách nhiệm cá nhân, các công việc nhà nước sẽ không bao giờ có được
quyết định thực hiện và chính điều này sẽ gây tổn thất lớn cho người dân.
5. Chức
năng giáo dục
Trên một bình diện
nào đó mà nói, thông qua các cơ chế phán xét, thái độ của mình, dư luận xã hội
góp phần hình thành nhân cách cho con người. Để điều chỉnh hành vi của cá nhân,
nhóm xã hội, công cụ không thể khuyết thiếu đó chính là hệ thống pháp luật. Thực
tế cho thấy, không phải lúc nào, lĩnh vực nào pháp luật cũng có thể điều chỉnh
được mà cần có sự “can thiệp” của đạo đức hay tín ngưỡng-tôn giáo[4]. Trong rất nhiều trường hợp, một nhận xét, đánh
giá, khen ngợi, cổ vũ, động viên, thừa nhận,…đúng lúc, kịp thời làm cho cá nhân
biết nhìn nhận lại mình, tự thấy mình “lệch lạc” hay không và điều chỉnh hành
vi một cách nhanh chóng. Thực tế cho thấy, dư luận xã hội đôi khi có sức mạnh
và mang lại hiệu quả giáo dục còn hơn cả các thiết chế khác[5].
[1] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.
2002, tập 5, tr 286.
[2] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.
2002, tập 5, tr 296.
[3] Hồ
Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.
2002, tập 5, tr 296
[4] Một trong những nét ấn tượng mà Nhật Bản
đem tới cho du khách khi đến thăm đất nước mặt trời mọc chính là sự sạch sẽ đến
kỳ lạ ở phần lớn các nhà vệ sinh. Dù là khu vệ sinh công cộng hay trong quán
ăn, chúng đều được giữ gìn sạch sẽ, lau chùi cẩn thận và mọi người đều có ý thức
giữ gìn cho nơi này. Theo tín ngưỡng của người dân Nhật Bản, thần toilet là một
người phụ nữ xinh đẹp, cai quản việc sinh sản. Do đó, người dân tin rằng giữ
gìn nhà vệ sinh sạch sẽ luôn là điều tốt và thậm chí, những người thế hệ trước
còn thường truyền nhau câu nói: "Nhà vệ sinh là bộ mặt của mỗi gia đình
người Nhật".
[5] Đôi khi những câu nói “Đừng ăn quá miệng,
đừng diện quá đáng”, hay “Ăn theo thuở, ở theo thời” có tác dụng hơn cả một cuốn
sách, góp phần hình thành nhân cách cho con người: không quá phô trương, kiêu
ngạo; sống khác người. Thậm chí từ đó hình thành ý thức quan tâm, giúp đỡ người
khác.
Nhận xét
Đăng nhận xét