TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI

 

TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI

Trong quá trình phát triển đất nước, nhiều vấn đề xã hội nảy sinh như tranh chấp đất đai, mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, ô nhiễm môi trường, tham nhũng, thất nghiệp, tệ nạn xã hội… tạo ra nhiều luồng tâm trạng, nhiều thái độ xã hội. Lợi dụng những vấn đề xã hội, tâm trạng xã hội đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội như mạng xã hội, kết nối internet để công kích, kích động tâm trạng xã hội, chống phá Đảng và Nhà nước với mục đích gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây bạo loạn lật đổ. Trong bối cảnh đó, định hướng dư luận xã hội trở nên quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng bởi vai trò góp phần làm thay đổi thái độ, nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Dư luận xã hội, truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội là những nội hàm có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, ở nhiều cấp độ khác nhau. Do vậy, nếu biết cách tạo dựng, định hướng, điều chỉnh thì dư luận xã hội dưới sự tác động của thông tin đại chúng và truyền thông xã hội là một loại nguồn lực, một sức mạnh, một loại quyền lực rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Truyền thông đại chúng ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người và bị chi phối trực tiếp bởi hai yếu tố là nhu cầu thông tin - giao tiếp và kỹ thuật - công nghệ thông tin. Dư luận xã hội không chỉ là phép cộng đơn giản giữa các ý kiến cá nhân. Dư luận xã hội chỉ được hình thành thông qua quá trình tương tác và trao đổi ý kiến giữa nhiều người với nhau, hình thành nên các luồng ý kiến chung của một số đông nhất định. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng tác động đến dư luận xã hội và dư luận xã hội cũng tác động trở lại đối với truyền thông đại chúng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội có tác động rất lớn đối với dư luận xã hội ở Việt Nam, nó thể hiện cụ thể như sau:

1. Tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội

Như đã nói, truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Truyền thông đại chúng tác động tới dư luận xã hội thông qua vai trò của mình đối với công chúng như cung cấp thông tin; tạo diễn đàn công khai ngôn luận và định hướng dư luận. Dư luận xã hội cũng không thụ động chịu tác động của truyền thông đại chúng thông qua nội dung của dư luận và yêu cầu của chủ thể dư luận. Nói đến truyền thông đại chúng trước hết, là nói đến đối tượng tham gia là các công chúng thuộc các nhóm người khác nhau, các cộng đồng và các xã hội, các đại chúng. Truyền thông đại chúng là giao tiếp xã hội với sự tham gia của đại chúng trong phạm vi không gian và thời gian rộng lớn vượt ra ngoài khuôn khổ một nhóm xã hội, giai tầng xã hội, cộng đồng xã hội hay một quốc gia. Truyền thông đại chúng hiện nay có thể được tiếp cận trên phạm vi toàn cầu.

Xã hội càng phát triển càng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng nhu cầu, quy mô, tăng cường tính đa dạng và hiệu quả của hoạt động truyền thông. Ngày càng có nhiều người tham gia vào các giao tiếp xã hội, vì vậy truyền thông trực tiếp giữa các cá nhân không thể đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu và đòi hỏi của xã hội. Con người tìm đến những quá trình truyền thông ở qui mô lớn nhờ sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật thông tin mới.

Tác động của truyền thông đại chúng tới dư luận xã hội thông qua các nội dung sau: (1) Truyền thông đại chúng là kênh cung cấp thông tin cho chủ thể của dư luận xã hội; truyền tải kịp thời, đầy đủ thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội. Sự phát triển của truyền thông đại chúng đã trở thành phương tiện cơ bản trong tiếp cận các thông tin đại chúng; (2) Truyền thông đại chúng tạo ra diễn đàn công khai ngôn luận, tạo ra diễn đàn để các cá nhân trao đổi, tranh luận những ý kiến liên quan tới các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, hình thành nên các nhóm xã hội, cộng đồng chia sẻ những quan điểm, ý kiến về vấn đề, sự kiện nào đó; (3) Truyền thông là phương tiện để định hướng dư luận. Truyền thông đại chúng có thể định hướng sự đánh giá của các nhóm xã hội thông qua hoạt động cung cấp thông tin của mình. Truyền thông đại chúng định hướng dư luận xã hội thông qua một số cách sau: Thông qua việc cung cấp thông tin trung thực, khách quan và nghiêm túc; thông qua việc nhấn mạnh, khuếch đại mặt này mà xem nhẹ, bỏ qua mặt khác; thông qua việc cưỡng bức thông tin như chỉ cung cấp liên tục loại tin một chiều mà không có sự lựa nào khác buộc cá nhân phải nghe theo, tin theo; thông qua việc bóp méo, xuyên tạc nhằm đạt được mục đích của mình.

Tác động của truyền thông đại chúng đến dư luận xã hội thể hiện ở các khía cạnh: (1) Truyền thông đại chúng cung cấp cho công chúng một lượng thông tin đa dạng, nhiều chiều và cập nhật liên tục. Khi một sự kiện hay vấn đề xã hội xảy ra trong đời sống xã hội, truyền thông đại chúng ngay lập tức có thể truyền tin đến người dùng thông qua các trang mạng xã hội, điều này đáp ứng được tính thời sự của sự kiện, giúp cho người dùng tiếp cận nhanh với sự kiện. Thông qua việc cập nhật thông tin về sự kiện nhanh chóng, kịp thời, công chúng sẽ đưa ra những đánh giá, phán xét và thậm chí tạo áp lực đòi hỏi phải giải quyết vấn đề; (2) Truyền thông xã hội tác động tới công chúng ở cả hai mặt tích cực và tiêu cục. Ở khía cạnh tích cực truyền thông xã hội có thể cung cấp thông tin đa dạng, kịp thời tới công chúng. Ở khía cạnh tiêu cực truyền thông xã hội cũng là môi trường thuận lợi để phát tán các “tin đồn giả mạo” hay “tin vịt”. Việc phát tán tin giả tác động tiêu cực tới nhận tức của công chúng có thể dẫn đến nhiều hệ luỵ xấu, các hành vi lệch chuẩn.

Ba là, truyền thông xã hội và truyền thông đại chúng tạo ra sự kết nối trong tiếp cận công chúng và truyền tải thông tin.

Truyền thông xã hội có nhiều loại hình, trong đó mạng xã hội là loại hình phổ biến nhất hiện nay. Nghiên cứu người dùng mạng xã hội hiện cho thấy, tính đến tháng 8 năm 2017, bốn mạng xã hội có số người dùng trên 1 tỷ người gồm Facebook (2.047.000.000 người), YouTube (1.500.000.000 người), WhatsApp (1.200.000.000 người) và Facebook Messenger (1.200.000.000 người). Các nghiên cứu cũng cho thấy 70% người dùng Facebook vào mạng hàng ngày, trong đó 45% vào mạng nhiều lần trong ngày. Trong số người dùng Facebook, 65% thường xuyên hoặc đôi khi chia sẻ, đăng thông tin hoặc gửi các phản hồi.

Theo báo cáo của Ecomobi, Việt Nam có tỷ lệ người dùng mạng xã hội cao. Trong số 12 nền tảng mạng xã hội được báo cáo, có 4 nền tảng mạng xã hội có tỷ lệ người dùng cao gồm: Facebook và Youtube (51%), tiếp đến là Facebook Messenger (37%), Google+ (32%); Có 5 mạng xã hội có tỷ lệ người dùng trên 20% - 30% là Zalo, Twitter, Insta, Skype và 4 mạng xã hội có tỷ lệ người dùng trên 10% triệu là Viber, Linkdin, Wechat, Line

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sự ra đời của báo mạng, diễn đàn mạng, mạng xã hội và Blogs đã tạo ra văn hóa báo chí mới, công dân có thể trực tiếp tham gia vào việc sản xuất tin tức, bình luận và trực tiếp bình luận. Mặc dù, truyền thông xã hội có nhiều lợi thế trong cập nhật tin tức và tính linh hoạt trong truyền tải thông tin, tuy nhiên đối với công chúng, việc lọc thông tin và xác tín thông tin trên truyền thông xã hội là một điều không dễ dàng.

2. Lãnh đạo, quản lý với dư luận xã hội và truyền thông đại chúng

Như đã phân tích ở phần vai trò của thông tin đại chúng với xã hội, nhất là đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội, chúng ta đã nhận thức đầy đủ ý nghĩa và vai trò to lớn của truyền thông đại chúng, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Theo đó, trong điều kiện truyền thông xã hội phát triển nhanh chóng như hiện nay cần nhận thức đúng và thực hiện một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với công tác truyền thông nói chung, truyền thông xã hội nói riêng trong định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hữu quan. Công tác dư luận xã hội phải gắn liền với công tác tư tưởng và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của đảng bộ và của mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức trong Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể chính trị các cấp về vai trò, vị trí, chức năng và sự cần thiết phải nắm bắt dư luận xã hội; cấp ủy các cấp phải chỉ đạo, chủ động nắm, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình tư tưởng để có biện pháp giải quyết kịp thời đúng đắn các vấn đề bức xúc nảy sinh, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Thứ hai, khẩn trương thể chế hóa, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trong thực tiễn; tích cực xây dựng khuân khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng. Thời gian qua, những thay đổi chóng mặt về thuật toán của các nền tảng công nghệ “làm khó” cả về nhận thức và hành động khiến các cơ quan chức năng vốn đã chậm trễ, hạn chế trong quản lý không gian mạng lại càng lúng túng, bất cập, chưa theo kịp trong việc hoạch định chính sách, pháp luật đối với truyền thông xã hội. Để quản lý tốt, cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội... thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị đạo đức và văn hóa. Bởi lẽ, khi các ràng buộc pháp lý không cụ thể, rõ ràng và đủ mạnh thì các quy tắc đạo đức, văn hóa cũng rất khó để đi vào cuộc sống.

Thứ ba, phải chủ động đánh giá, dự báo chính xác tình hình, chú trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề bức xúc của người dân; khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập, không để hình thành “điểm nóng”, những xu hướng tiêu cực trên mạng xã hội. Các cơ quan chức năng cần cung cấp thông tin cho báo chí một cách đầy đủ, công khai, minh bạch, kịp thời, nhất là với các vấn đề quan trọng được người dân quan tâm, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh truyền thông xã hội. Đồng thời, giữ nghiêm kỷ luật thông tin, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm khắc với các phần tử cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cố tình làm lộ lọt, cung cấp thông tin nội bộ, hỗ trợ cho các phần tử mạng xã hội đưa tin sai sự thật, kích động, tiến công vào nội bộ.

Thứ tư, phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng của báo chí trong thông tin tích cực. Báo chí cách mạng cần khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số. Dòng thông tin tích cực của báo chí vẫn phải là dòng thông tin chủ lưu với thông tin chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội, dư luận quan tâm. Xác định rõ tiêu chí đối với từng loại hình thông tin điện tử nhất là báo điện tử, tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội; có quy định để điều chỉnh hoạt động của các công ty công nghệ chuyên cung cấp thông tin báo chí. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, của cơ quan báo chí trong thực hiện tôn chỉ, mục đích và nội dung thông tin, trong hợp tác hoạt động báo chí, trong đầu tư nền tảng công nghệ số cho sự phát triển vươn tầm của báo chí.

Thứ năm, thúc đẩy các giải pháp công nghệ, các biện pháp kỹ thuật phù hợp bắt kịp với sự phát triển của Internet, mạng xã hội. Khuyến khích mạng xã hội có nền tảng công nghệ trong nước phát triển, khuyến khích các cơ quan, tổ chức trong nước xây dựng mạng xã hội nội bộ. Tăng cường ứng dụng công nghệ để phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các thông tin sai sự thật, xấu, độc có ảnh hưởng đến ổn định chính trị, xã hội. Nâng cao năng lực phân tích, điều tra, nghiên cứu công chúng, đo lường thái độ của người sử dụng in-tơ-nét, tham gia truyền thông xã hội đối với những vấn đề được dư luận quan tâm.

Thứ sáu, truyền thông xã hội khác biệt vì nội dung do người dùng tạo ra và thông tin mang tính cá nhân hóa cao, do đó, sự quản lý của Nhà nước là cần thiết nhưng quan trọng nhất vẫn là ý thức người dùng. Việc người dùng nâng cao sức “đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh, lịch lãm trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên truyền thông xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc.

Thứ bảy, tiếp tục đổi mới mạnh mẻ nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dư luận xã hội, đặc biệt coi trọng yêu cầu về mặt khoa học, tính chính xác, khách quan, toàn diện trong việc nắm bắt, phản ánh dư luận xã hội. Xây dựng, củng cố đội ngũ làm công tác dư luận xã hội và đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội, Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác dư luận xã hội và cộng tác viên; tổ chức các cuộc điều tra xã hội học nắm bắt dư luận xã hội.

Thứ tám, tăng cường đầu tư phương tiện, kinh phí hoạt động cho công tác dư luận xã hội. Việt Nam đang là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển, tuy nhiên, cũng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định. Tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, an toàn từ đó định hướng dư luận xã hội, trong đó, truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội là một trong những nguồn lực thông tin quan trọng, sẽ góp phần tích cực, hiệu quả, bảo vệ, gìn giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định làm nền tảng cho đất nước phát triển bền vững./.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ