QUẢN LÝ RỦI RO ĐÔ THỊ: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM

 

QUẢN LÝ RỦI RO ĐÔ THỊ: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM

1. Đặt vấn đề

Đô thị là vấn đề không mới, nhưng nghiên cứu về quản lý đô thị nói chung, quản lý rủi ro đô thị nói riêng chưa bao giờ là lạc hậu, thậm chí càng mang tích cấp bách. Không phải ngẫu nhiên mà “đột phá chiến lược” mà Đảng ta đã xác định trong mục tiêu phát triển cho giai đoạn 2021-2030 là: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu  về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số[1]. Như vậy, phát triển đô thị, phát triển đô thị thông minh bền vững thực sự là yêu cầu, nhiệm vụ mang tính chiến lược của đất nước. Xã hội càng phát triển thì hoạt động quản lý xã hội phải càng được chú trọng, chuyên nghiệp hơn, khoa học hơn. Hoạt động quản trị đô thị không phải là ngoại lệ.

Quản trị đô thị là quá trình phức hợp, mang tính hệ thống, sử dụng các công cụ chính trị, hành chính, kinh tế, pháp luật, xã hội và truyền thông để quản lý các công việc chung, giải quyết vấn đề công, cung ứng dịch vụ công trong phạm vi của một đô thị nhất định, qua đó nhằm tối đa hóa lợi ích công và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Để kiến tạo những “đô thị lớn”, “đô thị thông minh” trước tiên cần phải hình thành triết lý về quản trị đô thị. Tức là, vừa phải đảm bảo sự gắn kết hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế, quản trị môi trường và công bằng xã hội trong suốt quá trình phát triển của đô thị; vừa phải nhận diện, dự báo các rủi ro có thể nảy sinh để có giải pháp khắc phục, hạn chế tác động tiêu cực đến tiến trình phát triển bền vững của đô thị. Trong bài viết này, thông qua phân tích các kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về quản lý rủi ro đô thị, tìm hiểu những thế mạnh, rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đô thị, giảm thiểu các rủi ro đô thị, hướng đến phát triển đô thị một cách bền vững.

2. Kinh nghiệm quản lý rủi ro đô thị ở một số quốc gia trên thế giới

2.1. Quản lý rủi ro đô thị của Mỹ

Cho đến thời điểm hiện tại, có thể nhận định Mỹ là một trong nhóm quốc gia có hệ thống thể chế quản lý rủi ro đô thị khá hoàn thiện. Hệ thống chính sách, thể chế được xây dựng trên nền tảng năng lực quản trị chỉnh thể, thông qua quá trình pháp chế hóa, cơ quan chức năng quản lý đô thị của Mỹ đã hình thành các chính sách đối phó với các nguy cơ, khủng hoảng, rủi ro đô thị một cách hoàn chỉnh, mang tính hệ thống cao. Cụ thể, chính quyền các cấp của Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp như sau:

Thứ nhất, hình thành cơ cấu và bộ máy lãnh đạo thống nhất, phối hợp hài hòa trong quản lý, xử lý các rủi ro đô thị. Tại Mỹ, Cơ quan quản lý khẩn cấp Liên bang (FEMA)[2] là tổ chức cao nhất có chức năng, nhiệm vụ quản lý khủng hoảng, rủi ro cũng như các vấn đề xã hội nảy sinh. Cơ quan này có quyền chế định cơ chế quản lý tình trạng khẩn cấp trên phạm vi toàn quốc, chế định và quy phạm hóa các tiêu chuẩn; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về ứng phó với rủi ro, tình trạng khẩn cấp; cung cấp nguồn lực tài chính cho các bang phục vụ cho công tác ứng phó rủi ro, khủng hoảng; cho phép các bang chế định các quy định, chính sách phù hợp với luật liên bang về ứng phó rủi ro,… Trong những năm trở lại đây, FEMA đã phát triển thành một hệ thống quản lý ứng cứu mang tính tổng hợp để có khả năng ứng phó với các tình trạng khẩn cấp trên nhiều quy mô khác nhau từ thiên tai đến nhân tai: từ cảnh sách phòng cháy chữa cháy, các lực lượng chuyên biệt ứng phó với động đất đến biệt đội chống bạo động, khủng bố,...Cơ quan FEMA có trách nhiệm trực tiếp báo cáo với tổng thống tình trạng và cách xử lý các rủi ro, khủng hoảng. Ngoài ra, Cơ quan quản lý khẩn cấp Liên bang có quyền chỉ huy và huy động các lực lượng tại các bang (địa bàn xảy ra vấn đề cần giải quyết) để tiến hành ứng phó với các rủi ro, thảm họa.

Thứ hai, hình thành cơ chế phân cấp để tiến hành quản lý rủi ro đô thị hiệu quả. Theo kinh nghiệp xử lý các rủi ro và các vấn đề nảy sinh, tùy theo tính chất, mức độ, phạm vi ảnh hưởng mà FEMA chia rủi ro thành 3 cấp khác nhau. Cụ thể, Mức độ rủi ro cấp 1: những sự kiện, sự việc khẩn cấp mang tính địa phương, khu vực. Đương nhiên, cơ quan chức năng có nhiệm vụ xử lý, ứng phó là cấp thành phố và tương đương; Mức độ rủi ro cấp 2: là các sự kiện xảy ra trên quy mô một bang và thông thường chính quyền của bang có quyền phát ngôn, cung cấp thông tin, họp báo và có phương án xử lý tình trạng khẩn cấp đó. Nếu sự kiện, rủi ro xảy ra trên địa bàn giáp ranh hoặc liên đới đến nhiều bang lân cận thì có cơ chế phối hợp giải quyết; Mức độ rủi ro cấp 3: là cấp chỉ có tổng thống mới có quyền công bố tình trạng. Tổng thống có thể huy động nguồn lực và lực lượng hỗ trợ trên tất cả các bang nếu thấy cần thiết. Thế nhưng, các biện pháp hay phương tiện cụ thể thì phải thông qua luật định. Đương nhiên, từ cấp độ liên bang đến bang, địa phương đến cấp thấp hơn thì chính phủ Mỹ đã chế định hệ thống pháp quy, pháp luật khá hoàn chỉnh về công tác phối hợp, xử lý, ứng phó với tình trạng khẩn cấp.

Thứ ba, có cơ chế, chính sách để thị dân, cộng cồng và tổ chức phi chính phủ tham gia trong quản lý rủi ro đô thị. Trên bình diện chung mà nói, ý thức tham gia của người dân (và thể hiện quyền được tham gia) trên nhiều đô thị ở các nước tương đối cao. Đối với công tác quản lý rủi ro đô thị, chính phủ không chỉ phát huy vai trò chủ đạo của mình mà còn cần phải có cơ chế để cổ vũ cho người dân, cộng động, các tổ chức phi chính phủ tham gia, hình thành mạng lưới đa chủ thể trong công tác quản lý đô thị nói chung, quản lý rủi ro đô thị nói riêng. Điều này thể hiện trong công tác nghiên cứu điều tra để nắm bắt thông tin, công tác chuẩn bị để ứng phó với các sự kiện khẩn cấp, công tác giải quyết hậu quả do khủng hoảng từ thiên tai và nhân tai,... Tại Mỹ, cơ chế hợp tác công-tư gần như có mặt trên nhiều lĩnh vực. Trong khi thực hiện công tác cứu nạn, cứu hộ thì hầu như các cơ quan thông tấn (bất luận là công hay tư) đều dồn nguồn lực để đưa tin phục vụ. FEMA ban hành cơ chế để toàn dân tham gia ứng phó với các rủi ro, khủng hoảng, bao gồm cả đội ngũ tự ứng cứu ở cơ sở; hằng năm đều có các lớp huấn luyện cho cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ để nâng cao kiến thức, kỹ năng về ứng phó với các vấn đề nảy sinh.

Thứ tư, cung cấp các thông tin kịp thời và minh bạch hóa thông tin liên quan. Nhằm giúp công chúng nắm, hiểu đúng về các sự việc liên quan đến thảm họa, rủi ro thì cần phải cung cấp thông tin nhanh chóng, chính xác cho người dân, tránh hiện tượng tò mò, suy đoán mà nảy sinh các tin đồn bất lợi. Đương nhiên, trong hệ thống pháp luật của Mỹ có quy định chính quyền phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho người dân; các cơ quan truyền thông và các nền tảng thông tin khác có quyền độc lập trong quá trình đưa tin liên quan. Điều đáng nói là, cơ quan thông tin Mỹ luôn mong muốn cung cấp thông tin nhanh nhất, có giá trị nhất nên “không tiếc công sức, máu xương” để tìm kiếm thông tin “nóng” có liên quan. Điều này vô hình trung là lực lượng tăng cường giám sát hành vi của chính phủ. Về phía mình, để tranh thủ sự ủng hộ của người dân, xây dựng hình tượng, chấp hành pháp quy,... nên chính phủ luôn có thái độ trọng thị và hợp tác với giới truyền thông. Chính cơ chế này đã ít nhiều tạo sự “cân bằng thông tin” và người dân nhanh chóng nhận được thông tin chính xác từ các vấn đề nảy sinh.

Thứ năm, tăng cường công tác nghiên cứu quản lý rủi ro đô thị. Tại Mỹ, quản lý rủi ro là một khoa học, một ngành nghề. Từ đó cũng đòi hỏi những nghiên cứu một cách tỉ mỉ, nghiêm túc về các khía cạnh của rủi ro đô thị; cần có những nguồn lực tương ứng như nhân lực, vật lực, tài lực để phục vụ và tiến hành các nhiệm vụ quản lý rủi ro. Sự kiện 11-9 càng làm cho giới lãnh đạo Mỹ chú trọng đến khoa học về quản lý rủi ro; càng tăng thêm quỹ cho công tác xử lý tình trạng khẩn cấp; càng gia tăng đội ngũ làm công tác nghiên cứu, quản lý rủi ro. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Centers for Disease Control and Prevention - CDC) của Mỹ có cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quy mô ảnh hưởng rất lớn. Nhiều thành phố lớn trên thế giới có trụ sở của CDC, nhiệm vụ là nghiên cứu và ứng phó với các rủi ro, khủng hoảng y tế công (bao gồm các hoạt động khủng bố bằng vũ khí sinh học).

2.2. Quản lý rủi ro đô thị của Anh

Những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, xuất phát từ một số vấn đề xã hội nảy sinh cũng rủi ro tại các đô thị lớn ở Vương quốc Anh, Bộ Nội chính của quốc gia này đã ban hành cuốn “Sổ tay xử lý rủi ro” như là một kim chỉ nam cho việc quản lý các rủi ro xã hội. Chính phủ Anh đã ý thức được rằng, cơ chế phối hợp giữa các bộ phận chức năng là mấu chốt để phòng ngừa, xử lý rủi ro. Do đó, chính phủ Anh không những kiến lập cơ chế hợp tác trực tiếp mà còn thành lập cơ quan hữu quan mang tính liên đới, thống nhất để quản lý rủi ro. Cụ thể bao gồm một số chính sách sau:

Thứ nhất, thành lập cơ quan trường trực về điều phối phòng chống rủi ro. Chính phủ Anh tiến hành thành lập cơ quan phòng chống rủi ro mà cụ thể là chức danh “thủ trưởng tình trạng khẩn cấp” có chức năng dự báo, cảnh báo cáo rủi ro, khủng hoảng; chế định các kế hoạch, chính sách liên quan; tiến hành các hoạt động đào tạo, huấn luyện, tuyên truyền về rủi ro xã hội. Khi rủi ro, khủng hoảng nảy sinh, thì người phụ trách (thủ trưởng cơ quan tình trạng khẩn cấp) có thẩm quyền điều động các nguồn lực để xử lý, đồng thời phối hợp các cơ quan hữu quan của chính phủ (y tế, quốc phòng, cảnh sát) để tăng cường lực lượng và nguồn lực xử lý. Khi vấn đề nảy sinh tại đô thị thì chính quyền đô thị phối hợp với cơ quan trung ưng để ứng chiến. Chẳng hạn, khi phát sinh vấn đề y tế (dịch bệnh, bệnh truyền nhiễm,...) thì phải hợp tác với cơ quan y tế; khi phát sinh vấn đề ô nhiễm, thiên tai thì cần phối hợp với cơ quan về môi trường, nông nghiệp để xử lý; phát sinh vấn đề về giao thông thì phối hợp với cơ quan giao thông, vận tải để giải quyết,... Tại thủ đô Luân Đôn, Cục Chính sách ứng cứu và chữa cháy Luân Đôn là lực lượng phản ứng nhanh để giải quyết vấn đề cháy nổ, động đất, tai họa,... Mỗi quận của Luân Đôn đều có trạm ứng cứu phòng cháy tương ứng, trong đó có nhân viên quản lý, chuyên gia an toàn phòng cháy chữa cháy, nhân viên đại diện quận và các lực lượng khác để ứng phó (nhân viên cứu hỏa, nhân viên cứu hạn,...). Các trạm này hoạt động theo phương thức 24/7, người dân có thể xem trạm là nơi trú ẩn khi xảy ra thảm kịch, cũng có thể đến đây để tham vấn các vấn đề phòng cháy chữa cháy hoặc tư vấn một số vấn đề liên quan. Bắt đầu từ năm 2004, Cục này đã thành lập đường dây nóng về ứng phó với thảm họa cho công dân trên 60 tuổi cần có sự trợ giúp. Ngoài ra, Cục còn có nhiệm vụ ứng phó các vấn đề về y tế công cộng, bất cứ người dân cần trợ giúp đều có thể gọi điện thoại đề nghị cơ quan này hỗ trợ.

Thứ hai, ban hành chính sách và các biện pháp cụ thể để tiến hành quản lý rủi ro đô thị. Trong cơ cấu tổ chức của chính phủ Anh có rất nhiều cơ quan có chức năng thực hiện quản lý rủi ro, khủng hoảng và các vấn đề xã hội nảy sinh, mỗi một cơ quan. Tùy theo cấp độ (trung ương hay địa phương), đặc điểm ngành nghề mà mỗi bộ phận thực hiện những biện pháp, nhiệm vụ cụ thể được quy định một cách rõ ràng. Chẳng hạn, cơ quan bảo đảm sức khỏe công cộng, phòng chống khủng bố, đội ứng phó với đình công, bãi công, biểu tình và bạo loạn, lực lượng phòng cháy chữa cháy, cơ quan xử lý các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, cơ quan phòng ngừa và xử lý các dịch bệnh đột phát, cơ quan về an toàn vệ sinh thực phẩm, đội phòng chống ô nhiễm hóa học, cơ quan giải quyết các vấn đề về du lịch, cơ quan phòng chống và xử lý hacker máy tính ,… Một khi phát sinh sự việc, sự kiện thì các cơ quan hữu quan (tùy lĩnh vực chuyên ngành đã quy định) sẽ lập tức khởi động cơ chế ứng phó; các bộ phận liên quan sẵn sàng cơ chế phối hợp.

Thứ ba, coi trọng công tác giao lưu, hợp tác và tổng kết hoạt động quản lý rủi ro. Một điều có thể khẳng định rằng, mô thức, tính chất, tần số, sức ảnh hưởng của nguy cơ khủng hoảng hay rủi ro là không cố định, giống nhau hay “tuần hoàn”. Có nghĩa là, căn cứ vào các tính chất, sức ảnh hưởng của các rủi ro xảy ra mà có cách ứng phó một cách linh hoạt, đặc thù. Đương nhiên, bất cứ ứng phó với rủi ro nào cũng cần có tổ chức và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận hữu quan, đồng thời cần tìm ra điểm “tương đồng” nhất định nào đó giữa các rủi ro để rút ra kinh nghiệm xử lý cho các lần tiếp theo. Chẳng hạn, các tổ hợp ứng phó cần phải hướng đến các mục tiêu cơ bản với những vấn đề cụ thể, tình huống cụ thể, hiệu quả cụ thể để rút kinh nghiệm. Một khung chỉ đạo, mô thức điều hành đối với từng nhóm vấn đề rủi ro cần phải được rút ra trong mỗi lần ứng phó rủi ro. Muốn vậy, sau mỗi lần họp báo, tổng kết rút kinh nghiệm hoặc các báo cáo khoa học sau mỗi sự vụ chính là bài học quý giá cho hoạt động quản lý rủi ro nói chung, rủi ro đô thị nói riêng.

2.3. Quản lý rủi ro đô thị Nhật Bản

Quản lý rủi ro nói chung, rủi ro thiên tai nói riêng là hoạt động rất được chú trọng ở Nhật Bản. Đặc biệt, đối với một quốc gia nằm trên “Vành đai lửa Thái Bình Dương” nên thiên tai xảy ra với tần suất khá cao, trong đó hiện tượng bão nhiệt đới, nước biển dân do mưa bão, sạt lỡ đất, động đất,[3]… rất được chính phủ Nhật Bản chú ý phòng ngừa và khắc phục hậu quả. Có thể nói, Nhật Bản với công tác quản lý rủi ro là bài học kinh nghiệm quý giá cho nhiều đô thị trên thế giới, trong đó có Việt Nam chúng ta.

Thứ nhất, không ngừng kiện toàn, hoàn thiện hệ thống luật pháp về quản lý, ứng cứu rủi ro và khủng hoảng. Với tư cách là trong những một quốc gia đầu tiên ban hành luật liên quan đến quản lý rủi ro do thiên tai, hệ thống luật pháp của Nhật Bản về lĩnh vực này luôn được bổ sung, hoàn thiện và hình thành những bộ luật liên ngành. Luật ứng phó với thiên tai của Nhật quy định hết sức cụ thể, rõ ràng về vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước, chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội, của công dân và các nhóm xã hội[4]. Ngoài ra, Nhật Bản có hơn 50 luật liên quan đến công tác phòng chống, giảm nhẹ thiên tai các loại như: các luật về dự báo, dự phòng thiên tai; luật ứng cứu thiên tai; các luật về phục hồi và xây dựng sau thảm họa, thiên tai; luật tổ chức quản lý thiên tai,… Tất cả nhưng luật, bộ luật đó hình thành nên mạng lưới luật pháp và căn cứu pháp lý cho việc quản lý, chỉ đạo phòng chống, giảm nhẹ thiên tai cũng như các sự cố, rủi ro khác xảy ra.

Thứ hai, hình thành hệ thống quản lý thông tin đồng bộ, thống nhất. Như đã đề cập ở trên, với một đất nước chiếm khoảng 20% số trận động đất hơn 6 độ rích-te của thế giới thì Nhật Bản quả là một quốc gia gánh chịu nhiều thiệt hại do thiên tai gây ra. Đặc biệt, với trận động đất gây thiệt hại nặng là trận động đất mạnh 7,2 độ rích-te, xảy ra ngày 17-1-1995, tại thành phố Kô-bê. Ðây cũng được coi là một trong những vụ động đất tàn phá nghiêm trọng nhất trong lịch sử Nhật Bản, với khoảng 6.430 người chết, hơn 40 nghìn người bị thương và gần 400 nghìn ngôi nhà bị sập hoặc hư hại. Cũng trong thập niên 90 của thế kỷ trước, một số vụ động đất lớn đã xảy ra ở khu vực Hốc-kai-đô và Tô-hô-ku. Trong đó, mạnh nhất là vụ động đất ngoài khơi phía Tây - Nam Hốc-kai-đô vào tháng 12-1993, có cường độ 7,9 độ rích-te[5]. Từ những thực tế đó, chính phủ và người dân Nhật đã có những yêu cầu hết sức nghiêm ngặt, mạnh mẽ về công tác nghiệp vụ phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, đồng thời mức đầu tư của chính phủ cho hoạt động này được gia tăng hơn nhiều. Các trung tâm phòng chống và giảm nhẹ thiên tai luôn có những màn hình cỡ lớn cung cấp thông tin từ phía ngoài trụ sở; bất cứ lúc nào cũng có thể cung cấp các thông tin liên quan như động đất, núi lửa, sóng thần, lũ lụt, gió bão, sạt lỡ đất,….) từ thông tin dự báo đến các cảnh báo tương quan; cung cấp các hoạt động và thực trạng phòng chống, giảm nhẹ thiên tai của cơ quan quản lý rủi ro; có thể cung cấp hình ảnh trực tiếp truyền từ hoạt động của máy bay trực thăng đang hoạt động về phòng ngừa rủi ro. Trong hoạt động của chính phủ thì nhiệm vụ phòng chống thiên tai được coi trọng và chiếm một vị trí đặc biệt[6].

Thứ ba, cơ cơ chế cung cấp và minh bạch hóa thông tin. Nhu cầu và yêu cầu thông tin phục vụ cho công tác phòng chống, giảm nhẹ thiên tai của Nhật Bản đã trở thành thiết yếu và ở một trình độ khá cao. Từ người dân, doanh nghiệp cho đến chính phủ đều rất coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền về phòng chống rủi ro. Chính phủ và cơ quan hữu quan thường xuyên cung cấp thông tin cho người dân để nâng cao nhận thức và ý thức cảnh giác. Hằng năm, vào ngày Thiên tai (ngày 1 tháng 9), toàn đất nước Nhật triển khai công tác huấn luyện phòng chống, giảm nhẹ thiên tai trong vòng 1 tuần; thông qua mô phỏng các vụ thiên tai xảy ra để người dân và cơ quan chức năng đưa ra phương án xử lý, ứng phó và rút ra bài học kinh nghiệm. Hoạt động này có tầm ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trên thế giới.

Thứ tư, thường thức hóa công tác phòng chống rủi ro thiên tai. Năm 1961, Nhật Bản đã chế định “Luật cơ bản về chính sách phòng chống thiên tai” và quy định một cách rõ ràng về phạm vi trách nhiệm của cơ quan hữu quan về phòng chống rủi ro từ thiên nhiên; quy định “Hội nghị phòng chống thiên tai Trung ương” và “Hội nghị phòng chống thiên tai địa phương”. Các cơ quan phòng chống thiên đều phải tham gia vào “Hội nghị phòng chống thiên tai” đồng cấp; Hội nghị phòng chống thiên tai có thể điều động các nguồn lực khác nhau để dự phòng, giảm nhẹ, xử lý và cứu trợ khi xảy ra sự cố. Thông qua cơ chế Hội nghị phòng chống thiên tai, Nhật Bản đã đưa hoạt động quản lý rủ ro như một hoạt động thường xuyên, liên tục và kiến thức về phòng chống thiên tai được xem là kiến thức thường thức. Nói cách khác, không một quan chức nào đứng ngoài hoạt động phòng chống thiên tai; không một người dân nào không nắm rõ hay “vô ý thức” về phòng chống thiên tai hoặc các sự cố rủi ro khác.

3. Bài học kinh nghiệm cho hoạt động quản lý rủi ro đô thị ở nước ta

Từ việc phân tích kinh nghiệm về quản lý rủi ro từ thiên tai và nhân tai của một số quốc gia, có thể thấy, phòng ngừa và xử lý rủ ro là một vấn đề nghiêm túc, hệ trọng mang tính hệ thống, tính khoa học; nó ảnh hưởng đến sự sống còn của cộng đồng, dân tộc hay quốc gia. Mỗi quốc gia (hay đô thị) có điều kiện, hoàn cảnh, lịch sử, văn hóa và cơ chế chính sách không giống nhau nên những chính sách và cách thức ứng phó với vấn đề rủi ro cũng không hoàn toàn giống nhau. Thế nhưng, những việc làm của chính phủ các nước cũng ít nhiều cho chúng ta một số gợi ý có giá trị nhất định trong hoạt động quản lý rủi ro đô thị.

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thống nhất về cơ cấu điều hành. Có thể là sáo rỗng khi nói rằng giải pháp đầu tiên và cuối cùng trong quản lý rủi ro chính là luật pháp nhưng cần phải ý thức rằng, khi tiến hành giải quyết một vấn đề nảy sinh cần có căn cứ pháp lý tương ứng. Hơn nữa, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh không phải một sớm một chiều mà phải thông qua một quá trình thực tiễn, quyết tâm chính trị lớn của cơ quan hữu quan mới hình thành và vận hành được trong đời sống thực tế. Về điều này, trong công tác quản lý rủi ro mà nói, coi trọng yếu tố luật pháp chính là kinh nghiệm thật điển hình, quý báu đối với chúng ta. Đặc biệt khi Việt Nam đang xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa; các đô thị ngày càng mở rộng về quy mô và tính chất; cải cách hành chính và thí điểm mô hình “thành phố trong thành phố”[7], “thành phố thông minh”, “chính quyền đô thị”[8] thì hệ thống pháp luật chính là giải pháp căn cơ để thực hiện. Bởi qua đó, các cơ quan hữu quan mới đủ căn cứ pháp lý thực hiện; bộ máy thực thi mới đủ cơ sở áp dụng chế tài; người dân mới có căn cứ tham gia, giám sát các hoạt động của chính quyền,… Chẳng hạn, với việc thành lập FEMA, thì Cơ quan Quản lý tình trạng khẩn cấp Liên bang mới thực sự là tổ chức có quyền lực và trách nhiệm điều hành, xử lý, huy động các nguồn lực trong ứng phó với tình trạng khẩn cấp. Ngay trong cơ quan này cũng từng bước hình thành cơ cấu tổ chức, phân chia các chức năng để đảm bảo xử lý tất cả các vấn đề liên quan đến an ninh xã hội, an sinh xã hội và an ninh con người. Cơ quan này còn quy định vai trò, trách nhiệm của các bang và liên bang khi xảy ra sự cố (bao gồm 12 lĩnh vực, 27 nhiệm vụ). Chúng ta không quá xa lạ với Trung tâm dự phòng và kiểm soát bệnh tật của Hoa Kỳ (CDC) bởi những phản ứng, hoạt động của họ đối với tình trạng dịch bệnh (nhất là trong đợt ứng phó với COVID-19 vừa qua), hầu như trong tất cả các thành phố của nước Mỹ, đều có sự hiện diện của cơ cấu tổ chức này.

Thứ hai, mở rộng sự tham gia của người dân, cộng đồng vào hoạt động quản lý rủi ro. Một khi rủi ro, khủng hoảng phát sinh thì chỉ sử dụng duy nhất lực lượng “của nhà nước” là không đủ, cần phải có sự tham gia của người dân, cộng đồng và cả các tổ chức ngoài nhà nước. Chí ít cũng phải hình thành cơ chế đa chủ thể, cộng đồng hóa trách nhiệm trong phòng tránh, xử lý và khắc phục rủi ro: chính phủ, người dân và các tổ chức phi chính phủ. Trách nhiệm của nhà nước, chính phủ là hình thành hệ thống luật pháp, bộ máy chuyên nghiệp; lãnh đạo, chỉ đạo, huy động các nguồn lực để phối hợp; thị dân là lực lượng tham gia nhưng cũng phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong phòng ngừa rủi ro (kể cả di tản); các tổ chức phi chính phủ (NGOs) là tham gia ứng phó, tự giải cứu mình trong trường hợp nguy cấp, có trách nhiệm tham gia cùng chính phủ và người dân trong phối hợp xử lý rủi ro.

Thứ ba, làm tốt công tác thông tin, truyền thông. Các thông tin liên quan đến phòng ngừa, xử lý rủi ro cần phải được cập nhật một cách chính xác, nhanh chóng và cung cấp cho người dân những thông tin hữu ích, cơ bản để nâng cao ý thức cảnh giác và kiến thức phòng ngừa rủi ro. Điểm “tương đồng” của các quốc gia phát triển khi xử lý rủi ro là cung cấp thông tin của sự việc một cách nhanh chóng, chân thực. Đây là điều đã được quy định trong luật pháp của các quốc gia này, trong đó có trách nhiệm của truyền thông đại chúng và các nền tảng truyền thông khác trong việc cung cấp tin cho người dân. Trên thực tế, chính phủ các nước phối hợp và chỉ đạo với các lực lượng truyền thông để kịp thời cung cấp thông tin và định hướng tâm lý, dư luận cho người dân; vừa nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính phủ nhưng cũng vừa xây dựng hình tượng tốt đẹp trong mắt người dân.

Thứ tư, tăng cường công tác nghiên chuyên sâu, gia tăng nguồn tài chính cho hoạt động quản lý rủi ro. Các nước phát triển rất chú ý đến nghiên cứu chuyên sâu về quản lý rủi ro đô thị, do đó đã hình thành một hệ thống nghiên cứu khá chặt chẽ và gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực khủng hoảng xã hội, rủi ro xã hội. Chẳng hạn tại Nhật Bản, nghiên cứu vấn đề ứng phó với thảm họa thiên nhiên đã trở thành một lĩnh cần thiết và có nhiều chuyên ngành khác nhau, không chỉ nghiên cứu rủi ro ở bình diện chung mà còn ở từng lĩnh vực, địa phương, tính chất vấn đề đặc thù. Trung tâm CDC của Mỹ không chỉ có tổng bộ ở thành phố Atlanta với một lực lượng quản lý, nghiên cứu hết sức đồ sộ mà còn hình thành các cơ cấu chi nhánh trên hầu hết các bang của nước Mỹ. Sau sự kiện 11-9 , Trung tâm này thành lập mới cơ sở nghiên cứu thích ứng với vấn đề hiện đại, có đội ngũ nghiên cứu khá lớn, có phòng thực nghiệm trên nhiều bang và các thành phố lớn ở nước Mỹ, nhiệm vụ mới là nghiên cứu tính hiệu quả trong tiến hành ứng phó với rủi ro ở đô thị cũng như các loại dịch bệnh xảy ra.

4. Giải pháp tăng ường hiệu quả với hoạt động ứng phó với rủi ro đô thị trong tình hình mới

Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (còn gọi là dịch SARS) đã trở thành đại dịch lấy đi sinh mạng của nhiều người; đại dịch COVID-19 cũng đã khiến cả thế giới lao đao trong một thời gian khá dài và con số người mắc phải, người chết không ngừng gia tăng[9]; trong những năm gần đây, chúng ta bắt đầu chứng kiến những sự cố bất thường từ thiên nhiên như mưa bão, lũ lụt, hạn hán, sạt lỡ đất,…

Theo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, trong năm 2020, ở nước ta đã xảy ra 16 loại hình thiên tai, cụ thể: 13 cơn bão trên biển Đông; 264 trận dông, lốc, mưa lớn trên 49 tỉnh, thành phố, trong đó 9 đợt có diện rộng tại 21 tỉnh, thành phố Bắc Bộ và Trung Bộ; 120 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất; đặc biệt là đợt mưa lũ lớn lịch sử từ ngày 6 đến 22 tháng 10 năm 2020 tại khu vực Trung Bộ; 86 trận động đất, trong đó có 2 trận động đất với rủi ro thiên tai cấp 4 (tại Mường Tè, Lai Châu ngày 16 tháng 6 năm 2020 với độ lớn 4.9; tại Mộc Châu, Sơn La ngày 27 tháng 7 với độ lớn 5.3); hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đê biển tại Đồng bằng sông Cửu Long…[10]

Tất cả những điều đó, dù chưa phải là bức tranh đầy đủ, nhưng cũng đủ để mỗi người chúng ta cảm nhận được sự khốc liệt của thiên tai cũng như những rủi ro mà con người phải hứng chịu. Nói cách khác, chúng ta đang sống trong một thế giới không phải lúc nào cũng yên bình, mà ngược lại, con người bắt đầu phải ý thức được các rủi ro để phòng ngừa, ứng phó một cách hiệu quả. Con người ngày càng nhận thấy, trong thế giới phẳng, thế giới số như hiện nay chúng ta không nên “trốn tránh” hay “che đậy” hiện thực mà phải “nhìn thẳng vào hiện thực” để có phương án, chính sách phù hợp hóa giải các vấn đề nảy sinh. Đối diện với nhiều vấn đề, sự cố, hiện tượng thiên nhiên thì các cấp lãnh đạo và nhà quản lý đô thị cần phải coi trọng, thận trọng và thái độ khoa học để nhìn nhận, xử lý rủi ro một cách hiệu quả, mang lại sự bình yên và tạo điều kiện thuận lợi để xã hội phát triển. Trong phần này, chúng tôi chỉ bàn đến một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực quản lý rủi ro đô thị thời gian đến.

Có thể nói, từ rất sớm chúng ta đã hình thành ý thức và bộ máy phòng ngừa các rủi ro đô thị như lực lượng phòng cháy chữa cháy, lực lượng phản ứng nhanh tại các đô thị xử lý các vấn đề tội phạm,... Trong vài năm trở lại đây đặc biệt là cách chúng ta ứng phó với đại dịch COVID-19 đã cho thấy sự quyết tâm chính trị của toàn hệ thống và nhân dân trong xử lý tình huống khẩn cấp phát sinh. Tuy vậy, cũng qua đó chúng ta mới thực sự “nhìn thấy” được những mặt được, điểm chưa được để khắc phục, hoàn thiện, nâng cao trình độ, năng lực xử lý các tình huống rủi ro trong tương lai.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý rủi ro. Hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro đô thị gồm: hệ thống luật pháp, cơ chế trách nhiệm và cơ chế động viên, huy động các nguồn lực phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, dự báo, ứng phó, xử lý với các rủi ro. Đối với cơ chế động viên, cần phải nhận thức rằng, đối với các vấn đề rủi ro đô thị thì chỉ có toàn xã hội mới có thể giải quyết một cách triệt để. Do đó, trong quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý rủi ro đô thị cần phải động viên mọi lực lượng, nguồn lực trong xã hội (chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp và người dân), đồng thời giảm thiểu sự tác động tiêu cực của rủi ro đối với đời sống xã hội đô thị. Chỉ khi hình thành cơ chế động viên (bằng thể chế) mới có căn cứ pháp lý để chính quyền thực hiện vai trò quản lý của mình; mới động viên được các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực) vào hoạt động quản lý rủi ro; tránh có những “lỗ hổng” về luật pháp. Đối với cơ chế trách nhiệm, như đã phân tích ở trên, quản lý và ứng phó với rủi ro đô thị không chỉ có cơ quan nhà nước, chính phủ hay chính quyền đô thị mà các tổ chức phi chính phủ, thị dân cũng là lực lượng không thể thiếu; có trách nhiệm cùng với cơ quan nhà nước để quản lý, phòng ngừa, xử lý các rủi ro đô thị. Đương nhiên, cơ chế trách nhiệm không phải là “vịn dây ăn phần” hay “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” theo kiểu “mạnh ai nấy làm” mà phải được phân định, quy định rõ ràng. Chính phủ có trách nhiệm chế định hệ thống pháp luật và các quy định liên quan; thị dân cần phải tham gia các lớp bồi dưỡng để nâng cao ý thức phòng tránh và ứng phó rủi ro khi cần thiết, từng bước nâng cao ý thức văn minh, trách nhiệm của công dân đô thị. Việc quản lý rủi ro, giải quyết các vấn đề này sinh luôn phải đảm bảo yếu tố đoàn kết, trách nhiệm, hợp tác và ủng hộ. Đó là ý thức trách nhiệm chứ không phải “nghĩa vụ” phải “đóng góp”. Thông qua việc xử lý các rủi ro trong thực tiễn, cơ quan chức năng không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý rủi ro, hình thành hành lang pháp lý cho các chủ thể đóng đúng vai trò, trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, các cơ quan truyền thông cũng cần có trách nhiệm trong tuyên truyền, định hướng, từng bước nâng cao ý thức về phòng chống rủi ro cho người dân; nâng cao năng lực “tự ứng cứu” và ý thức bảo vệ an toàn tài sản, tính mạng của mình, cộng đồng. Về hệ thống pháp luật, cần có luật (bộ luật) mang tính thống nhất, chỉnh thể, bao trùm về quản lý rủi ro xã hội. Đối với quản lý rủi ro đô thị, hiện dường như chưa có một luật (bộ luật) chuyên biệt đối với khu vực mang tính đặc thù này. Do đó, việc hình thành một hệ thống luật pháp một cách hoàn chỉnh về quản lý rủi ro đô thị là vô cùng cần thiết trong bối cảnh và yêu cầu hiện tại. Đầu tiên, cần thống nhất hóa các luật (kể cả các quy định, nghị định, thông tư,…) liên quan như phòng cháy chữa cháy, luật đê điều, luật phòng chống thiên tai, luật an toàn thực phẩm, luật phòng chống khủng bố, luật dự phòng và kiểm soát bệnh tật,…thành một bộ luật về quản lý rủi ro xã hội. Cần tham chiếu kinh nghiệm của các quốc gia phát triển về hoàn thiện pháp luật; cơ chế phối hợp, động viên; cơ chế quản lý và cung cấp thông tin liên quan; phát động và tuyên bố tình trạng khẩn cấp; đào tạo, huấn luyện đội ngũ thực thi chuyên nghiệp; nâng cao ý thức người dân trong phòng, chống, ứng phó, xử lý các rủi ro; công tác định hướng dư luận của cơ quan truyền thông,…Nên lưu ý, thông thường rủi ro đô thị có quy mô, tính chất và sức tác động cao hơn ở khu vực khác nên luật quản lý rủi ro, nếu có, sẽ phải có những quy định đặc thù đối với khu vực đô thị. Chẳng hạn, cũng một người bị nhiễm virut Corona (Covid-19) nhưng ở đô thị thì khả năng lây nhiễm cao hơn ở khu vực nông thôn, miền núi; do đó, khả năng truy vết sẽ khó khăn hơn nhiều. Ví dụ khác, một vụ hỏa hoạn xảy ra ở khu vực thành phố (nơi đông dân cư, mật đô xây dựng cao) thì vấn đề chữa cháy, cứu nạn cứu hộ phải có phương án đặc thù, cách xử lý phải nhanh mới có thể hạn chế những thiệt hại liên đới về tài sản và người,…

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế giám sát, cảnh báo rủi ro. Hệ thống quan trắc, giám sát rất cần thiết đối với quản lý rủi ro. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, thành phố mà tiến hành khảo sát, đánh giá, tập hợp các luận cứ khoa học để hình thành nên một kho dữ liệu liên quan; từ đó tiến hành phân tích, đánh giá để tìm kiếm những mối tương quan, giá trị khoa học để phục vụ cho hoạt động quản lý rủi ro. Song song với đó, cần lắp đặt hệ thống quan trắc, camera giám sát, các máy móc hiện đại để phát hiện, phân tích, đưa ra cảnh báo dự phòng hoặc phương án ứng phó. Xin nhắc lại, rủi ro đô thị chính là rủi ro xã hội, và do đó, xử lý các vấn đề về rủi ro xã hội muốn đạt hiệu quả thì phải nhận được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng, xã hội.

Thứ ba, tăng cường công tác phối hợp, liên kết giữa các lực lượng trong ứng phó với rủi ro. Nhiệm vụ ứng phó với các rủi ro, khủng hoảng tại đô thị dường như không ai có thể đứng ngoài cuộc: từ người dân đến các lực lượng chức năng như công an, cứu nạn cứu hộ, cấp cứu, dân phòng,… đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình. Từ những tình huống thực tế nhìn nhận, khi xảy ra các rủi ro trong đô thị thì lực lượng nòng cốt nhất vẫn là công an, y tế và cứu nạn cứu hộ, tuy nhiên hiện nay 3 lực lượng này lại có 3 số điện thoại khẩn cấp khá “độc lập” nhau (cảnh sát trật tự là 113; 114 là cơ quan phòng cháy, chữa cháy-cứu hỏa; 115 là cấp cứu y tế-cứu thương,…). Đây cũng là vấn đề cần phải suy nghĩ khi kiến lập một lực lượng thống nhất trong quản lý rủi ro đô thị trong thời gian đến (thống nhất số điện thoại chuyên dụng; thống nhất chỉ huy; thống nhất lực lượng; thống nhất hành động)[11].

Thứ tư, kiện toàn cơ chế và nguồn lực tài chính. Một khi phát sinh một vấn đề rủi ro thì, trên một phương diện nào đó, dù ở mức độ khác nhau, luôn khiến cho đô thị chịu ảnh hưởng về kinh tế, xã hội, môi trường, thậm chí an ninh, chính trị và trật tự an toàn đô thị. Trong đó, tài sản và sinh mạng của nhà nước, người dân là rất quan trọng. Do vậy, cần phải có tư duy và kế hoạch thành lập “quỹ dự phòng về quản lý rủi ro đô thị”. Nói cách khác, cần phải có cơ chế đảm bảo tài chính cho hoạt động quản lý rủi ro (ngân sách dành cho quản lý rủi ro), tức là cần phải dự toán nhà nước về chi phí quản lý rủi ro[12]. Thực tế nhìn nhận, đây là “nút thắt cổ chai” đối với hoạt động phòng ngừa, ứng phó rủi ro. Đương nhiên, khi đã có dự toán ngân sách về quản lý rủi ro thì nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, phương thức xã hội hóa sẽ bổ sung thêm. Vấn đề đặt ra là, quản lý sử dụng nguồn vốn này cần phải chính xác, minh bạch và hiệu quả vì đây là vấn đề an toàn công cộng và gắn với niềm tin của nhân dân đối với chính quyền. Ngồn vốn này có thể sử dụng cho hoạt động nghiên cứu, hoạt động truyền thông, hoạt động bồi dưỡng và dự báo, xử lý khi tình huống khẩn cấp xảy ra.

Thứ năm, tăng cường công tác truyền thông và quản lý thông tin. Hiện chúng ta đang bước vào xã hội số, xã hội “vạn vật kết nối”, xã hội thông tin. Do đó, thông tin được xem là chất dầu nhờn bôi trơn cỗ máy xã hội và là một trong những nguồn lực để phát triển xã hội. Trong hoạt động quản lý xã hội nói chung, quản lý rủi ro nói riêng không là ngoại lệ. Thông tin luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng: chính xác, kịp thời, minh bạch. Do đó, chính quyền đô thị cần phải tăng cường công tác quản lý, xử lý thông tin để cung cấp cho hoạt động quản lý và cung cấp cho người dân. Nên nhớ, cung cấp thông tin liên quan đến rủi ro nhưng không chuẩn xác dễ dẫn đến hoang mang, mất niềm tin nhưng cung cấp không kịp thời sẽ dẫn đến tin đồn thất thiệt. Do vậy, cơ quan chức năng nhà nước cần phải nắm quyền thu thập, xử lý thông tin và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho nhân dân và báo giới theo quy định của pháp luật. Đương nhiên, truyền thông đại chúng và các nền tảng thông tin khác cũng phải có trách nhiệm trong đưa tin liên quan; không “ăn theo” những thông tin để trục lợi nhưng cũng không “cầm đèn chạy trước ô tô” mà qua mặt cơ quan chức trách về thông tin, gây nên những xáo trộn xã hội không cần thiết.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr222.

[2] Còn gọi là “Cục quản lý tình trạng khẩn cấp liên bang” hay “Cục quản lý thảm họa” (Federal Emergency Management Agency)

[3] Trong vòng một thế kỷ qua, ở Nhật Bản đã có 24 vụ động đất mạnh từ 6 độ rích-te trở lên, chiếm khoảng 20% số trận động đất hơn 6 độ rích-te của thế giới. Gần 10% năng lượng thoát ra trên toàn thế giới mỗi năm do các vụ động đất tập trung ở quần đảo Nhật Bản. Tham kiến: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-the-gioi/Nh%E1%BB%AFng-tr%E1%BA%ADn-%C4%91%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BA%A5t-t%E1%BA%A1i-Nh%E1%BA%ADt-B%E1%BA%A3n-531478

[4] Sách trắng về phòng chống thiên tai là một trong những sáng kiến đáng chú ý nhất của xứ sở hoa anh đào, trong đó báo cáo toàn diện và thường xuyên về vấn đề này mỗi năm. Sách trắng lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1963 theo Luật Cơ bản về phòng chống thiên tai.

[6] Năm 2015, chúng tôi có dịp đến thăm và làm việc tại  Cơ quan nhân sự quốc gia Nhật Bản (National Personnel Authority – NPA) và được thăm thư viện của một cơ sở đào tạo trực thuộc. Điều đặc biệt là, trong thư viện có dành riêng cho một tầng để trưng bày các thảm họa cũng như hệ thống sách báo nghiên cứu về phòng chống, giảm nhẹ thiên tai. Trong đó, các luật và bộ luật tương ứng cũng được trưng bày để học viên có thể mượn đọc. Trong hệ thống kiến thức để đào tạo cán bộ thì phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và các rủi ro là môn học bắt buộc.

[7] Thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

[8] Thành phố Đà Nẵng thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận và xã theo Nghị quyết 119/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội Về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng

[9] Tính đến ngày 8 tháng 7 năm 2021, số ca nhiễm, ca đang điều trị, ca khỏi và ca tử vong lần lượt là: (1) Thế giới:

185.822.570; 11.727.537; 170.077.825; 4.017.208; (2) Việt Nam: 21.560; 13.432; 8.022; 102. Nguồn: Bộ Y tế,

Trang tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp covid-19. Tham kiến: https://ncov.moh.gov.vn/

[11] Chúng tôi tạm gọi là “Phương án 4 thống nhất” ( Mô hình 4 “Thống”)

[12] Hiện chúng ta đã có Quỹ Phòng chống thiên tai theo tinh thần của Nghị định số 94/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2014 của Chính phủ về Quy định về thành lập và quản lý quỹ phòng, chống thiên tai. Đây là khoản đóng bắt buộc theo quy định. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng và hiệu quả sử dụng vẫn còn bất cập. Hơn nữa, phòng chống thiên tai cũng chỉ là một hoạt động bộ phận của toàn bộ quá trình quản lý rủi ro. Do đó, hình thành quỹ và chế định ngân sách về quản lý rủi ro cần phải mang tính hệ thống, chiến lược.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ