QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

 

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1.     Quan điểm của Đảng ta

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng thể hiện bước ngoặc trong đổi mới tư duy của Đảng về chính sách xã hội, đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong phát triển đất nước. Chính sách xã hội được coi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, là động lực to lớn, phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội chủ yếu tập trung ở một số điểm then chốt:

- Công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để thực hiện chính sách xã hội. Nhiều vấn đề xã hội nhức nhối hiện nay không phải chỉ do kinh tế kém phát triển, mà còn do chúng ta buông lỏng lãnh đạo và quản lý, chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chưa chú trọng kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Do đó, đẩy mạnh công tác lãnh đạo, quản lý xã hội trong quá trình thực hiện chính sách xã hội, tạo công bằng xã hội là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta.

- Thống nhất hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội: Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế; Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế . Do đó, thực hiện chính sách kinh tế phải đi đôi với thực hiện chính sách xã hội.

- Xem trọng yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội: phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động. Ngược lại, chính sách xã hội phải xuất phát từ nhu cầu thiết thân của con người chứ không phải xuất phát từ những biện pháp hành chính, duy ý chí của chủ thể quản lý.

- Chính sách xã hội cần sự quan tâm và “nhận thức chung” của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội nghĩa là phải thực hiện quan điểm “nhà nước và nhân dân cùng làm” với chủ trương xã hội hóa.

- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn, đáp nghĩa”, “nhân hậu, thuỷ chung”, “lá lành đùm lá rách.

- Gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, thưởng và phạt.

2.     Một số thành tựu, hạn chế trong thực hiện một số chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam

Thực hiện chính sách xã hội nói chung, chính sách an sinh xã hội nói riêng, chúng ta đã đạt được nhiều thành quả hết sức to lớn. Những thành quả đó có thể được mô tả ở các điểm chủ yếu sau:

2.1. Thành tựu

Thứ nhất, chúng ta đã xây dựng  được hệ thống chính sách ngày càng toàn diện, hiệu quả.Việt Nam đã hoạch định và triển khai nhiều chính sách xã hội quan trọng trong từng trụ cột trong việc thực hiện an sinh xã hội cơ bản, huy động được nhiều nguồn lực tham gia trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội. Hệ thống chính sách bảo đảm xã hội được triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương, nhiều ban chỉ đạo được thành lập (Ban Chỉ đạo xóa đói giảm nghèo các cấp)... Hệ thống chính sách an sinh xã hội được triển khai đồng bộ trên ba phương diện: khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng của các đối tượng; hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua quỹ tín dụng; phát triển kết cấu hạ tầng cho các địa phương phục vụ cho người dân tốt hơn[1].

Thứ hai, nhờ có các chính sách an sinh xã hội bao phủ rộng khắp nên các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn được đi học tăng lên,  tỷ lệ mù chữ giảm xuống. Sau 34 năm đổi mới, Việt Nam đã phổ cập trung học cơ sở. Về cơ bản đã xóa được “xã trắng” về giáo dục mầm non. Các tỉnh và các huyện miền núi đã có trường nội trú, bán trú cho các học sinh dân tộc thiểu số và số học sinh, sinh viên học tại các trường đại học, cao đẳng tăng lên đáng kể nhờ chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên vay vốn.

Thứ ba, đối tượng hưởng trợ cấp xã hội ngày càng nhiều. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để trợ cấp cho các đối tượng được thụ hưởng ngày càng tăng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi của xã hội (người già, người cô đơn không nơi nương tựa, người bị phơi nhiễm chất độc da cam,…).

Thứ tư, thực hiện hiệu quả trụ cột cơ bản của chính sách an sinh xã hội đã tạo động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng việc làm, năng suất lao động, thu nhập bình  quân đều tăng. Bên cạnh đó, chúng ta đã xây dựng và triển khai luật việc làm, khẩn trương xây dựng chương trình việc làm cho người lao động.

Thứ năm, thực hiện chính sách an sinh xã hội đã góp phần tích cực vào bình đẳng giới, bước đầu góp phần giảm tải ô nhiễm môi trường và giải quyết các vấn đề toàn cầu. Vấn đề về nhà ở và nước sạch cũng được giải quyết tốt hơn nhờ chính sách bảo đảm xã hội. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới thực hiện thành công bước đầu Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số, người dân ở miền núi, hải đảo, vùng ngập lũ, vùng bị nhiễm mặn, cải thiện cơ bản tình trạng sử dụng nước không đảm bảo an toàn.

2.2. Hạn chế

Bên cạnh thành tựu đạt được, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam sau 34 năm đổi mới còn một số hạn chế. Cụ thể:

Thứ nhất, đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù chính sách an sinh xã hội đã được đồng bộ thực hiện trong cả nước. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý của từng vùng cũng như điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khác nhau nên đời sống của nhân dân vẫn còn gặp khó khăn, đặc biệt là nhân dân vùng sâu, vùng xa. Thu nhập bình quân của người lao động ở Việt Nam thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi là khác nhau. Vấn đề đảm bảo vệ sinh nước sạch, vấn đề lương thực, thực phẩm chưa thực sự được quan tâm sâu rộng.

Thứ hai, trợ cấp xã hội chưa toàn diện, có biểu hiện tiêu cực trong quá trình thực thi. Một số ban ngành, địa phương  xuất hiện một bộ phận cán bộ làm công tác an sinh xã hội lợi dụng để sinh lợi, thiếu năng lực, trình độ, thủ tục hành chính giải quyết các vấn đề liên quan còn phức tạp, rắc rối gây khó khăn cho nhân dân.

Thứ ba, nguồn lực cho việc thực hiện an sinh xã hội, nhất là nguồn lực tài chính còn hạn hẹp đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Nguồn lực tài chính chủ yếu được cấp từ ngân sách nhà nước; nguồn kinh phí từ tổ chức, đoàn thể, cá nhân, doanh nghiệp có tấm lòng hảo tâm chiếm một phần nhỏ. thế,  việc thực hiện an sinh xã hội chưa thực sự sâu rộng trong nhân dân dẫn đến việc chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng trong xã hội nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực bổ sung để thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội hướng tới. Hơn nữa, các nguồn lực này không được phân bố đồng đều giữa các khu vực nên vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, nội dung yêu cầu  trong công tác tuyên truyền về chính sách an sinh xã hội chưa đầy đủ, kịp thời và rõ ràng đối với những đối tượng liên quan. Các văn bản hướng dẫn, thực thi nhiều khi không được công khai minh bạch và còn chồng chéo nhau. Các thông tin về nhà cho người thu nhập thấp chưa ràng, cụ thể đến đối tượng nhu cầu. Thông tin pháp luật về an sinh xã hội các vùng nông thôn, vùng núi còn nhiều hạn chế, cách tiếp cận chưa hiệu quả dẫn đến người dân chưa thực sự hiểu biết về quyền lợi nghĩa cụ của mình trong thực tế.

Thứ năm, chất lượng dịch vụ bảo đảm xã hội còn thấp so với một số nước trong khu vực và thế giới (chất lượng giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch chưa đảm bảo), các nguyên tắc của hệ thống an sinh xã hội, quyền an sinh, sự tương trợ giữa các cá nhân, nhóm xã hội, gắn trách nhiệm và quyền lợi... chưa được nhận thức một cách đầy đủ trong thực tiễn.

3.     Việc cần làm để tăng cường hiệu quả thực hiện CSXH

Một là, thường xuyên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực thi chính sách an sinh xã hội. Việc thực hiện chính sách an sinh xã hội được tiến hành đồng bộ và hiệu quả, đòi hỏi các cơ quan chức năng các cấp luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo trong mọi hoạt động bằng cách cụ thể hóa các chương trình hành động, chương trình mục tiêu và các kế hoạch thực hiện. Những kế hoạch, mục tiêu này là định hướng, bước đi cần thiết trong việc thực hiện các chính sách. Ngoài ra, việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội cần phải khoa học. Cá nhân, tổ chức liên quan sẽ được phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể theo từng chuyên môn nhất định. Việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội sẽ thống nhất và có hiệu quả cao. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội là yếu tố rất quan trọng và cần thiết. Có như vậy, Việt Nam sẽ phát hiện ra những sai trái trong quản lý và thực thi chính sách an sinh xã hội, từ đó, đưa ra biện pháp để khắc phục những việc làm sai trái, góp phần đảm bảo công bằng và hiệu quả.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội và người dân tham gia thực hiện chính sách an sinh xã hội. Công tác tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của người dân là rất cần thiết. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trong nhân dân nhằm tăng cường tinh thần tương thân, tương ái, tạo bầu không khí hiểu biết, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động vì cộng đồng và xã hội. Thực tế cho thấy, các hình thức tuyên truyền, vận động cũng phải được đa dạng, phong phú và phù hợp với từng đối tượng tham gia thực hiện chính sách an sinh xã hội như thông qua tọa đàm, hội thảo, phát thanh, tuyên truyền trong khu phố, tổ dân cư, tổ chức các hội thi dưới dạng sân khấu hóa... Cụ thể như tuyên truyền, vận động để mọi người dân hiểu biết và tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế; vận động các tổ chức từ thiện quốc tế hỗ trợ đối tượng có hoàn cảnh khó khăn hòa nhập cộng đồng; vinh danh các cá nhân tích cực có đóng góp to lớn trong việc thực thi các chính sách an sinh xã hội. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, vận động phải được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua các phương tiện truyền thông. Việc làm đó được sự quan tâm, giúp đỡ của các tổ chức từ thiện trong nước và quốc tế. Cần vận động, tập hợp các tổ chức, cá nhân nhằm tăng cường tinh thần đoàn kết tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu an sinh xã hội.

Ba là, chú trọng đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực an sinh xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên  môn, nghiệp vụ là nhân tố quan trọng để chính sách an sinh xã hội tránh sự chồng chéo, thiếu hiệu quả không đồng bộ. Bởi vậy, Việt Nam cần đầu tư, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực an sinh xã hội cả về số lượng chất lượng. Tăng cường mở các lớp tập huấn định kỳ  hàng tháng;  tổ chức hội thảo, tọa đàm nhằm trao đổi kinh nghiệm thực hiện chính sách an sinh xã hội ở các địa phương với nhau; mở khóa đào tạo ngắn trung hạn liên quan đến chính sách quá trình thực hiện an sinh xã hội. Mặt khác, các địa phương cần chủ động liên  kết với cơ sở đào tạo uy tín, đúng chuyên ngành để xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu trong lĩnh vực an sinh xã hội. Bên cạnh đó, các địa phương cần đầu tư cơ sở làm việc cho cán bộ. Trang thiết bị, cơ sở vật chất đảm bảo sẽ giúp đội ngũ cán bộ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động toàn xã hội tích cực tham gia các chương trình, dự án. Các địa phương cần lập dự toán và đầu tư kinh phí phát triển cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống tư liệu, tài liệu tham khảo về an sinh xã hội và phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập của đội ngũ cán bộ.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển kinh tế xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường… kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường”.  Vì vậy, phát triển kinh tế lớn sẽ có nguồn lực tài chính bảo đảm tính bền vững của chính sách an sinh xã hội. Việt Nam cần tập trung đẩy mạnh hội nhập sâu rộng, tăng cường hợp tác đầu  tư phát triển kinh tế  với các nước, phát triển các đặc khu kinh tế, khu công nghiệp sẽ góp phần giải quyết việc làm, giảm tệ nạn xã hội và xóa đói giảm nghèo bền vững cho người dân. Đồng thời, chú trọng phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo sinh kế bền vững, ứng dụng khoa học - công nghệ trong quá trình sản xuất.

Năm là, học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới. Với sự nỗ lực không ngừng trong thời gian qua, Việt Nam đạt được những thành tựu trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội cho người dân. Song, có thể thấy, muốn phát triển an sinh xã hội có hiệu quả, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước khác trong khu vực và thế giới như Thụy Điển, Singapore, Ôxtrâylia, Nhật Bản… Đó là những quốc gia có nhiều thành công về xây dựng các mô hình thực hiện chính sách an sinh xã hội. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam tiếp thu, học hỏi những kinh nghiệm quản lý và tránh được những sai lầm mà các quốc gia khác đã trải qua. Đặc biệt, học tập kinh nghiệm của các nước về xây dựng hệ thống chỉ tiêu, theo dõi, đánh giá, giám sát. Định kỳ thực hiện phân tích, đánh giá sinh kế, rủi ro của các biện pháp thực hiện chính sách an sinh xã hội.



[1] Khi dịch bệnh viên đường hô hấp cấp do vi rút CORONA  NcoV xảy ra ở Vũ Hán, Trung Quốc (vấn đề khởi nguồn dịch bệnh này hiện vẫn còn tranh cãi) vào cuối năm 2019 đầu năm 2020 (còn gọi là COVID 19 hay SARS-CoV-2), Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra “9 điều cần thiết để phòng chống dịch” trong đó và tiên quyết là “Cần hoàn thiện các chính sách pháp luật liên quan đến phòng, chống dịch bệnh”. (Xem: http://www.xinhuanet.com/video/sjxw/2020-02/06/c_1210463389.htm). Điều đó cho thấy, chính sách xã hội nói chung,, chính sách y tế công cộng nói riêng là hết sức quan trọng và cần thiết. Trong những điều kiện bất lợi hoặc bất trắc, nếu chưa có hệ thống chính sách đủ mạnh, toàn diện thì công tác triển khai phòng chống dịch bệnh gặp trở ngại.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ