“ĐẦU TƯ CHO CHÍNH SÁCH XÃ HỘI LÀ ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN”
Nhận thức đúng và quán triệt tinh thần: “Đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển”
Phát triển kinh tế không
chỉ đơn thuần là tăng trưởng về số lượng một cách cơ học về thu nhập, chi tiêu,
tiêu dùng mà, thông qua đó, còn cần phải tái cơ cấu phân phối nhằm nâng cao mức
độ phúc lợi cho mọi thành viên trong xã hội. Hệ thống chính sách xã hội tựa như
“tấm lưới an toàn” cho mọi thành viên trong xã hội để “không ai bị bỏ lại phía
sau” trong quá trình phát triển. Thế nhưng, nhận thức đúng, đầy đủ và triển
khai, quán triệt tinh thần “đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát
triển” không phải lúc nào, cán bộ nào, địa phương nào cũng thực hiện nghiêm
túc, hiệu quả.
Nghị quyết 42-NQ/TW ngày
24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII Về tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới (Nghị quyết) đã nhấn mạnh “Đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển”.
Thế nhưng, trên thực tế không phải ai cũng “thấm nhuần” quan điểm này, thậm chí
“Nhận thức của một số cấp uỷ, tổ
chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của chính sách xã
hội chưa đầy đủ, toàn diện; chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo
triển khai thực hiện” nhận định của Nghị quyết. Vì
sao vậy?
Thực tiễn cho
thấy, không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý đôi khi có cái nhìn thiển cận, thiếu
tính hệ thống, thiếu lăng kính bền vững, lăng kính lịch sử, khi cho rằng, phát
triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế là hai khái niệm có nội hàm chồng khít lên
nhau, từ cách tiếp cận này dẫn đến nhiều lúc, nhiều nơi chỉ “lo thúc đẩy” sự
tăng trưởng về kinh tế mà “xem nhẹ” những khía cạnh về văn hóa, môi trường, xã
hội, nhân khẩu, an toàn, an sinh, phúc lợi. Chính cách nhìn nhận này khiến cho
chúng ta, nhiều khi “bỏ rơi” chính sách an sinh xã hội khi tái cơ cấu nền kinh
tế. Lại có quan điểm lệch lạc cho rằng, chính sách kinh tế là “làm ra tiền” còn
chính sách xã hội là “tiêu tiền” mà không thấy được mối tương quan, liên hệ
biện chứng giữa chúng.
Cần khẳng định
rằng, tăng trưởng kinh tế không phải là mục đích cuối cùng, mà mục đích cuối
cùng là chất lượng sống của con người và các thành viên trong chính xã hội đó
đều phải được thụ hưởng những điều kiện tối thiểu cần thiết để vươn lên, không
ai bỏ lại phía sau. Muốn như vậy cần phải có sự phát triển hài hòa giữa phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và nhân khẩu. Nói khác đi, tái cơ
cấu nền kinh tế, phát triển kinh tế phải cần một “cột chống” của an sinh xã
hội. Bởi có kiện toàn chế độ an sinh xã hội, bảo đảm xã hội[1] mới là điều kiện trọng
yếu để bảo đảm cho quá trình tái sản xuất sức lao động, quá trình tiêu dùng; là
điều kiện để điều chỉnh kết cấu kinh tế, khống chế sự gia tăng dân số quá mức,
giảm áp lực dân số, xúc tiến sự công bằng xã hội, từ đó xúc tiến phát triển
kinh tế. Chính lẽ đó, an sinh xã hội và phát triển kinh tế là hai mặt của cùng
một vấn đề, có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết mật thiết nhau, mặt này thúc đẩy và
hỗ trợ cho mặt kia và không thể tách rời nhau. Bởi xét đến cùng con người là
mục tiêu, là động lực của sự phát triển; tăng trưởng kinh tế xét đến cùng là
phải “nâng cao chất lượng sống” của con người, cộng đồng.
Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đã khẳng định: “Nhận thức đầy đủ và đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội trong các
chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi
xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai toàn diện, đồng bộ các
mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường”[2]. Định
hướng này đã phản ánh sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm
vụ giải quyết các vấn đề xã hội, từng bước đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân thông qua sự kết hợp đúng đắn và hài hòa giữa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội để thực hiện mục tiêu về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,
đảm bảo xã hội. Để thực hiện tốt phương châm: “Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo
đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y
tế, việc làm...”[3], quan điểm của Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội”[4]. Thế nhưng, việc nhận thức “đúng và trúng” về mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội; chính sách kinh tế với
chính sách xã hội; giữa giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế với vấn đề
xã hội,… không phải bao giờ cũng dễ dàng, thậm chí có lúc bị đánh đồng, thậm
chí “cố tình đánh đồng” vì những mục đích khác nhau[5].
Thật vậy, thực tiễn cho
thấy, đến thời điểm hiện tại vẫn tồn tại quan điểm cho rằng, an sinh xã hội chỉ
có một chức năng như là mạng lưới an toàn xã hội, là công cụ để ổn định xã hội
và nó tiếp nhận một cách bị động sự khống chế của trình độ phát triển kinh tế.
Cần phải hiểu rằng, chính sách an sinh xã hội không chỉ đơn thuần là chính sách
xã hội (Social Policy) mà còn là chính sách kinh tế (Economic Policy): nó không
chỉ có chức năng như là một công cụ để ổn định xã hội hay mạng lưới an toàn xã
hội mà nó còn có vai trò như là một chất xúc tác, lực gia tốc cho phát triển
kinh tế; nó không chỉ chịu sự khống chế từ trình độ phát triển kinh tế mà nó
còn là yếu tố thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính lẽ đó, nghiên cứu vấn đề về an
sinh xã hội không chỉ dựa vào một vài ý tưởng, lý luận, luận điệu thiếu cơ sở
khoa học mà cần phải nhìn nó qua lăng kính và cách tiếp cận của kinh tế học
phát triển, xã hội học kinh tế, khoa học về an sinh xã hội, để từ đó mới có thể
“nhìn thấy” được mối quan hệ nội tại giữa phát triển kinh tế và an sinh xã hội.
Có như thế việc kiến lập và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội mới là điều
kiện để xúc tiến phát triển bền vững kinh tế, và chỉ như thế, đối tượng của an
sinh xã hội mới có thể chia sẻ lợi ích từ phát triển kinh tế mang lại, chính
sách an sinh xã hội mới có tiền đề và cơ sở để ổn định và phát triển. Nói cách
khác, đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển và phát triển xã
hội là điều kiện, tiền đề để hiện thực hóa các chính sách an sinh xã hội, bảo
đảm xã hội, an ninh con người, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh
và bền vững./.
[1] Khái niệm An sinh xã
hội (Social Security) có học giả rằng có nội hàm giống với nội hàm của khái
niệm bảo đảm xã hội. Theo chúng tôi, điều này chưa hẳn là chính xác.
[2] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, H.2021, t.I, tr.202.
[3] Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, H.2021, t.I, tr.149
[4] Tham kiến: Hội đồng
lý luận Trung ương, Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/gan-ket-chat-che-chinh-sach-kinh-te-voi-chinh-sach-xa-hoi-trong-qua-trinh-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia.html
[5] Không ít luận điệu
xuyên tạc, phản động “nhắm đến” lĩnh vực an sinh xã hội, thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia của chúng ta nhằm “bóp méo”, xóa nhòa các thành quả
trong phát triển kinh tế với thực hiện an sinh xã hội nhằm hạ thấp uy tín, phủ
nhận vai trò lãnh đạo Đảng. Không ít quan điểm cố tình “tách rời” mối quan hệ
giữa trình độ phát triển kinh tế với mức độ, quy mô, đối tượng thụ hưởng thực
hiện an sinh xã hội.
Phạm Đi
Nhận xét
Đăng nhận xét