VAI TRÒ CỦA THỊ DÂN TRONG QUẢN TRỊ ĐÔ THỊ HIỆN NAY

 

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

1. Đặt vấn đề

Đô thị hóa là một quá trình phức tạp, nó không chỉ mang lại những tích cực và cả những tiêu cực không mong muốn. Đô thị hóa nói chung, quản lý đô thị nói riêng là một tiến trình đa dạng, đa chiều, đa cấp[1]. Có thể nói, trong toàn bộ quá trình từ triết lý phát triển đô thị, quy hoạch đô thị (tổng thể và chi tiết), kiến tạo đô thị (hạ tầng đô thị, không gian đô thị…), phát triển đô thị thì quản lý đô thị là một hoạt động bao trùm, có tính căn cốt nhất, xuyên suốt nhất và quyết định đến yếu tố “sống còn” của một đô thị. Hoạt động quản lý đô thị (tốt hay không tốt) không chỉ tác động (tích cực hay tiêu cực) đến đời sống, chất lượng sống, hoạt động sống, lối sống của người dân trong độ thị đó mà còn ảnh hưởng (thậm chí quyết định) đến huynh hướng phát triển của đô thị, chất lượng sống của thị dân trong tương lai.

Trong một thời gian khá dài, nhiều người (kể cả chính quyền đô thị và cả người dân) “mặc định” rằng, hoạt động quản lý đô thị thuộc về chính quyền đô thị mà trực tiếp là những người làm công tác quản lý đô thị. Điều này đúng nhưng chưa “trúng”. Bởi lẽ, hoạt động quản lý đô thị là toàn bộ tiến trình về thị chính, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị; là quản lý quá trình từ quy hoạch, kiến thiết, vận hành trong suốt quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội của một thành phố[2], do đó chính quyền ở mỗi thành phố sẽ là người đại diện trực tiếp và có đủ công cụ (pháp luật, hành chính, giáo dục, truyền thông đại chúng…) để vận hành và quản lý toàn bộ tiến trình đô thị của một đô thị. Thế nhưng, xét đến cùng, con người mà trực tiếp là người dân của một đô thị là mục tiêu và động lực của tiến trình đô thị đó. Nói cách khác, một nhà nước “của dân, do dân, vì dân” thì người dân cần phải đóng vai trò chủ thể trong tiến trình đô thị hóa nói chung, trong quản lý đô thị nói riêng, có cơ chế phù hợp để người dân có thể tham gia trực tiếp vào các lĩnh vực của đời sống đô thị, nhất là trong quản lý, quy hoạch, xây dựng, giải phóng mặt bằng, tái định cư.

Hiện tại, chúng ta đã hội đủ các yếu tố cần thiết để người dân tham gia vào hoạt động quản lý đô thị: từ cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý đến cơ sở thực tiễn. Từ phương diện lý luận, như trên đã đề cập, người dân mà cụ thể là thị dân của một đô thị không thể là “khánh thể” trong một tiến trình đô thị. Nói cách khác, “Thị dân luôn là chủ thể của đô thị và tố chất thị dân luôn là linh hồn, là sức sống, là năng lượng, tạo nên “phẩm vị” và “sức quyến rũ” và “cái hồn” cho một đô thị[3]; về cơ sở chính trị-pháp lý, Chỉ thị số 30 của Bộ chính trị về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã nhấn mạnh: “Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Có thể khẳng định rằng, phát huy dân chủ ở cơ sở là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, mỗi thành phố; về cơ sở thực tiễn, trong quá trình vận hành đô thị cho thấy, nơi nào mà có sự tham gia (và tham gia tích cực, đúng nghĩa) của người dân vào quá trình quản lý đô thị thì nơi đó sẽ không chỉ “được” về công trình, được về hạ tầng mà còn được cả…lòng dân, thành phố Đà Nẵng là một minh chứng[4].

Như vậy, người dân “biết, bàn, làm, kiểm tra” và “thụ hưởng” về quá trình và thành quả phát triển của một đô thị là một yêu cầu thực tế. Vậy làm thế nào để người dân tham gia vào quá trình hoạt định các chính sách liên quan, biết được các kết quả thực thi các chính sách, tham gia trực tiếp vào toàn bộ quá trình quản lý đô thị từ khâu ban hành chính sách, thực thi chính sách, giám sát thực hiện? Đó vừa là câu hỏi vừa là câu trả lời cho hệ thống chính quyền đô thị.

2. Một số vấn đề về công tác quản lý đô thị ở nước ta hiện nay

Kinh tế càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa nhanh thì tiến trình đô thị hóa càng được thúc đẩy và người ta dễ dàng nhận biết tầm quan trọng của công tác quản lý đô thị. Kinh nghiệm trên thế giới cũng đã chỉ ra rằng nếu nơi nào làm tốt công tác quản lý đô thị thì sẽ thúc đầy tiến trình đô thị hóa nhanh, hợp lý và hiện đại. Quản lý đô thị không đơn thuần chỉ là mặt hành chính mà nó, ở một giác độ nào đó mà nói, là một khoa học, một nghệ thuật; quản lý đô thị không chỉ là việc quản lý kinh doanh, đất đai, nhà ở, cơ sở hạ tầng kĩ thuật, quản lý hành chính nhà nước, môi trường, tài chính đô thị mà còn là quản lý con người gắn với văn hóa xã hội hiện hữu; quản lý đô thị không chỉ là nhiệm vụ của nhà quản lý mà, đó là nhiệm vụ của toàn thể người dân với tư cách là một công dân đô thị.

Với tư cách là chủ thể chính trong quản lý đô thị, chính quyền đô thị sẽ là người lựa chọn huynh hướng, xác định mục tiêu và các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý. Thực tế cho thấy, cho đến thời điểm hiện nay, nhiều đô thị trong cả nước vẫn còn tồn tại những yếu kém về mặt qui hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, trong đó có cả những yếu kém về nhận thức, tổ chức thực hiện, giám sát... Đó có thể kể đến là công tác qui hoạch xây dựng đô thị chưa được quan tâm đúng mức. Việc công bố, công khai qui hoạch xây dựng theo luật định của Luật xây dựng chưa được thực hiện nghiêm túc ở một số địa phương. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng không thể không nói đến trình độ, năng lực của đội ngũ công chức quản lý qui hoạch xây dựng đô thị ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; chưa thực hiện đúng vai trò của mình trong công tác quản lý xây dựng đô thị; chưa phát huy vai trò của các chủ thể khác, trong đó có người dân vào tham gia hoạt động quản trị đô thị. Chính điều này là điều kiện “màu mở” để nảy sinh tình trạng xây dựng không phép, trái phép dẫn đến bộ mặt kiếm trúc của thành phố còn lộn xộn, thiếu mĩ quan. Kế đến, có thể nói đến công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xây dựng đô thị của chúng ta còn quá chậm và còn nhiều bất cập. Một số chính quyền địa phương vẫn chưa làm tốt việc thực hiện phân cấp trong việc lập và quản lý qui hoạch xây dựng, cấp giấy phép xây dựng và giảm bớt các thủ tục hành chính. Có thể nói, chính những yếu tố này là những thách thức lớn khi tiến hành kiến tạo và xây dựng mô thức phát triển bền vững về đô thị.

Hơn nữa, trong lĩnh vực qui hoạch xây dựng và quản lý đô thị chúng ta chỉ chú trọng đến “phần cứng” mà bỏ quên đi “phần mền” của đô thị, cái làm nên “phần hồn” cho một đô thị, đó chính là văn hóa, lối sống, phong tục tập quán và những nét sinh hoạt cũng như những thói quen trong đời sống hằng ngày của cư dân đô thị- yếu tố con người-văn hóa. Một đô thị gọi là văn minh hiện đại và bền vững không chỉ có những kiến trúc đồ sộ, nhà cao tầng, các trung tâm mua sắm… mà nó còn phải có một không gian văn hóa-xã hội, ở đó chủ thể xã hội của nó – con người đô thị, với tất cả những văn hóa nguyên hữu và hiện hữu, lối sống hiện hữu tôn tạo nên cái nét riêng cho thành phố đó. Dễ hiểu, muốn xây dựng một thành phố văn minh hiện đại và bền vững thì phải xây dựng được cả hai “mảng” nêu trên: không gian kiến trúc và không gian văn hóa xã hội.

Để làm được điều này, vai trò của chính quyền sở tại là vô cùng quan trọng, trước mắt phải “nhận thấy” được đô thị phải gồm hai “mảng” hữu cơ như trên đã đề cập và muốn xây dựng một đô thị cần phải đồng thời có động thái qui hoạch xây dựng và quản lý cả hai “mảng” này. Nếu chỉ chú trọng đến không gian kiến trúc mà bỏ quên không gian xã hội thì chúng ta sẽ có những “thành phố vô hồn”, “thành phố lạnh”; nếu chúng ta chỉ chú trọng đến không gian xã hội mà không chú trọng đến không gian đô thị thì vô tình chúng ta sẽ tiến hành quá trình ngược lại “nông thôn hóa đô thị”, “làng quê đô thị”. Chính vì vậy, trong quá trình qui hoạch xây dựng, quản lý đô thị cần phải tiến hành song song hai “mảng” này với nhau. Cần phải hiểu rằng, xây dựng không gian kiến trúc đô thị tuy khó mà dễ, nhưng xây dựng không gian xã hội đô thị tuy dễ mà khó. Khó là ở chỗ, đòi hỏi những người có trách nhiệm về qui hoạch xây dựng và quản lý đô thị phải có cái tầm để “nhìn thấy” được đâu là nét văn hóa, lối sống đặc thù của cư dân sở tại để có những chính sách phát triển phù hợp.

Việc xây dựng một đô thị (với cơ sở hạ tầng cơ bản như điện, đường, trường trạm…) không khó, nhưng xây dựng một đô thị mang ý nghĩa đầy đủ nhất của nó, nhất là “tạo hồn” cho đô thị (gắn với yếu tố thị dân) và điều căn cốt hơn, người dân cùng tham gia với chính quyền trong quá trình quản lý đô thị với những tiếng nói, yêu cầu, nguyện vọng, chính kiến được các nhà quản lý đô thị tiếp thu, trân trọng và lồng ghép vào các chính sách phát triển của chính đô thị đó. Nói cách đơn giản hơn, hiện nay, chủ thể của quản lý đô thị còn “đơn chủ thể”, “thiếu sự hợp tác”. Dễ nhàn nhận thấy, công tác quản lý đô thị trong các đô thị ở nước ta chỉ dừng lại ở chính quyền các cấp, các ban hành hữu quan theo ngành dọc mà “quên” đi vai trò chủ thể của người dân trong đô thị đó: từ công tác xác định triết lý phát triển đô thị, quy hoạch đô thị, cải tạo chỉnh trang đô thị, kiến tạo đô thị, quản lý đô thị vẫn chưa có cơ chế, quy trình hợp lý, hợp pháp để thị dân tham gia. Và cũng chính từ đây, dần hình thành tư tưởng “ngoài rìa” và không hợp tác của người dân vào tiến trình quản trị đô thị[5].

3. Phát huy vai trò của người dân trong quản lý đô thị

Thông thường mà nói, khi nói đến chủ thể quản lý đô thị người ta nghĩ ngay đến các định chế quản lý Nhà nước trong phạm vi thành phố đó là các cơ sở ban ngành các cấp. Từ đó, khi nói đến cải tiến quản lý người ta chỉ tập trung bàn về chức năng, nhiệm vụ, sự phân công phân cấp và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, bởi theo cách nghĩ thông thường, các định chế Nhà nước mới có thể (và có quyền) để quản lý đô thị. Thực tế cho thấy, có nhiều nhân tố khác tham gia trực tiếp hay gián tiếp có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình quản lý đô thị như các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và đặc biệt là chính các tầng lớp dân cư trong đô thị ấy – thị dân. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, nếu chỉ “đóng khung” cho việc cải tiến việc quản lý đô thị bằng những định chế nhà nước thì rất khó lòng có được một cơ chế quản lý tối ưu. Hơn thế nữa, các nguồn lực nhà nước ngày càng không đáp ứng được nhu cầu phát triển đô thị nên sự tham gia của các nhân tố khác ngoài định chế nhà nước trở nên cần thiết, đặc biệt là các nguồn lực trong nhân dân. Một khía cạnh nào đó mà nói, phát huy vai trò của nhân dân trong việc quản lý đô thị là cách làm đúng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và thể hiện vai trò, quyền của người dân vào công tác xây dựng quản lý đô thị nói riêng, trong việc phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội nói chung.

Rõ ràng, các tầng lớp dân cư trong đô thị vừa là đối tượng chịu sự quản lý của công tác quản lý đô thị nhưng lại vừa là chủ thể tham gia vào công tác quản lý đô thị. Nếu có định hướng đúng và khuyến khích được sự tham gia tích cực của các bộ phận dân cư thì công tác quản lý đô thị sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Muốn làm được điều trước hết, đòi hỏi những người có trách nhiệm về quản lý xây dựng đô thị phải “nhìn thấy” được nguồn lực này, thấy được sự tham gia của người dân vào công tác quản lý đô thị là cần thiết và tất yếu. Và kế đến là có những động thái tích cực và thiết thực để “kéo” người dân vào công tác quản lý đô thị mà cụ thể là tiến hành nghiên cứu nhu cầu của người dân để làm cơ sở cho các chính sách quản lý đô thị, đặc biệt là trong quá trình xây dựng lối sống đô thị. Kế đến lôi cuốn người dân tham gia và thay đổi những phương thức ứng xử của họ, xây dựng một lối sống tích cực. Song song với nó là phải đẩy mạnh các hoạt động của các đoàn thể xã hội và các hình thức tự quản.

Trong thời gian qua, thành thật mà nói, trong công tác quản lý, xây dựng và qui hoạch đô thị, chúng ta đã chưa chú trọng đúng mức về vai trò của các tầng lớp nhân dân, chưa phát huy được hết tiềm năng của họ và chưa đặc họ đúng vào vai trò, vị trí cần thiết. Nói khác đi, chưa thiết lập được mối quan hệ giữa người dân trong công tác quản trị đô thị, chính lẽ đó sự tham gia của người dân vào công tác quản lý đô thị còn mờ nhạc. Trong quá trình phát triển đô thị mà nói, nếu không có sự tham gia của cư dân đô thị - chủ thể xã hội đô thị, thì không thể nào xây dựng được một đô thị theo mong muốn chủ quan của những người có trách nhiệm về quản lý đô thị. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”[6] trong trường hợp này càng thể hiện tính đúng đắn. Như vậy, làm thế nào để người dân có thể tham gia vào quá trình quản lý đô thị, theo chúng tôi cần một số biện pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của thị dân trong quản lý đô thị. Khi mà ý thức và trình độ người dân ngày càng được nâng cao; người dân bắt đầu có sự quan tâm đến các vấn đề xã hội mà đặc biệt là các vấn đề liên quan thiết thân đến lợi ích của mình thì việc hình thành ý thức của thị dân trong quản lý đô thị là hoàn toàn có cơ sở và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Khi một thành phố mà ở đó người dân ý thức được rằng “thành phố của tôi” (thậm chí quận của tôi, phường của tôi, khu phố của tôi) thì tôi phải có trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ để xây dựng, bảo vệ, quản lý nó thì chắc chắn rằng thành phố đó đã có một “sức mạnh mền” để phát triển bởi lẽ “hành vi văn minh (hay không) của thị dân quyết định đến sự văn minh (hay không) của thành phố đó[7]. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà người dân Đà Nẵng rất hưởng ứng khi chính quyền thành phố mở trang facebook về “Quản lý đô thị Đà Nẵng: Tiện nghi – xanh – sạch – đẹp”. Đèn đường vẫn bật dù trời đã  sáng, gạch vữa đỗ sai qui định, và nhiều những bất cập, sai phạm hay những sáng kiến đóng góp liên tục được nhân dân phản ánh[8]. Trên một bình diện nào đó, người dân Đà Nẵng đã “tham gia” vào quá trình quản lý đô thị, mỗi người dân là một người “quản lý đô thị”.

Thứ hai, hoàn thiện các cơ chế, chính sách phù hợp. Người dân sẽ không (và không thể) tham gia vào quá trình quản lý đô thị khi chưa có cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn chỉnh, trình độ, tính chất, quy mô của vấn đề, lĩnh vực quản lý. Mặc dù đã có những quy định về quy chế dân chủ cơ sở, phát huy vai trò của người dân trong quản lý xã hội nói chung với khung pháp lý cao nhất của Hiến pháp là “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...” nhưng trên thực tế, những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân, vẫn coi việc quản lý nhà nước là công việc riêng vốn có của Nhà nước chứ không phải là nhiệm vụ của chính nhân dân. Ngược lại, chính người dân cũng coi đó chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, mà không phải là của mình[9]. Vì lẽ đó, đã làm hạn chế sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý đô thị. Do vậy, cần phải chế định và ban hành những chính sách cụ thể cho từng lĩnh vực mà người dân có thể tham gia phản biện, giám sát; đóng góp ý kiến và trình bày quan điểm của mình vào quá trình xây dựng và quản lý đô thị mà mình đang sống.

Thứ ba, cần đưa tiêu chí “hài lòng” của nhân dân (nhất là các cộng đồng dân cư ở từng khu phố, phường) vào đánh giá hiệu quả quản lý của chính quyền sở tại. Đô thị hóa và quản lý đô thị liên quan trực tiếp đến đời sống mọi mặt của người dân. Vì vậy, để quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị thành công, hay nói rộng hơn là để đô thị phát triển bền vững, cần tổ chức thực hiện tốt việc tham gia của người dân vào các lĩnh vực của đời sống đô thị, nhất là trong quản lý, quy hoạch, giải phóng mặt bằng, tái định cư. Thực tế ở nhiều đô thị cho thấy, khi xây dựng “chính quyền điện tử”, “thành phố thông minh” nhưng chính quyền lại “quên mất” là người dân của đô thị đó có đồng tình không, mức độ hài lòng ra sao, quan điểm của họ như thế nào. Cần phải nói thêm rằng, trong bất cứ một cộng đồng dân cư nào thì quan niệm giá trị, nhu cầu, tố chất không phải bao giờ cũng đồng nhất. Chính vì thế, việc “cân, đo, đong, đếm” ý kiến và sự hài lòng của người dân trong quá trình phát triển, quản lý đô thị ở từng khía cạnh khác nhau, đó chính là cơ sở thực tiễn để đánh giá chất lượng phát triển đô thị tránh trường hợp “vừa chạy vừa xếp hàng”[10] trong quản lý đô thị hiện nay. Cần phải nói thêm rằng, việc “đo sự hài lòng của nhân dân” không phải là mục đích cuối cùng mà mục đích của quá trình quản lý xã hội nói chung, quản lý một đô thị cụ thể là “được lòng dân”. Nhưng để “được lòng dân” không phải dễ, càng không dễ khi giải quyết những vấn đề động chạm đến lợi ích thiết thân của họ (hàng cây, ngôi nhà, mảnh vườn, khu thờ tự, những kỉ niệm thiêng liêng với nơi chôn nhau cắt rốn…). Để có được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, chính quyền mỗi thành phố phải công khai dân chủ và tổ chức lắng nghe ý kiến của nhân dân, có như vậy thì tiếng nói của người dân mới được “đi đến đích” và ngược lại, người dân mới có “cảm hứng” để tham gia vào tiến trình quản lý đô thị nơi mình sinh sống.

TS. Phạm Đi

 



[1] Xem: Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017, lời giới thiệu của PGS, TS Nguyễn Minh Hòa.

[2] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr.1

[3] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr.27.

[4] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr.160.

[5] Cần nói thêm rằng, thành phố Hội An là một trong những thành phố mà ý thức người dân tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào quá trình quản lý đô thị rất tốt. Từ thời kỳ ông Nguyễn Sự, cựu Bí thư thành ủy, cũng đã có những chỉ đạo cho phép người dân tham gia vào quá trình thị chính, quản trị đô thị (nhất là khu đô thị cổ). Một lần, tại một hội thảo về lối sống người Hội An, tác giả bài viết cũng đã phát biểu: nếu chỉ tính trong phạm vi châu Á, những đô thị cổ “giống” với Hội An không phải là ít nhưng trên thế giới này chỉ có 1 Hội An duy nhất, bởi thành phố Hội An đã gắn với con người Hội An, hình thành lối sống Hội An và tạo nên một Hội An không giống với các thành, trấn của Trung Quốc, cũng không giống với cố đô Melaka (Malacca) của Malaysia.

[6] Lời chủ tịch Hồ Chí Minh

[7] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr.27.

[9] Hà Quang Ngọc, Tăng cường sự tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước.  Tạp chí Tổ chức Nhà nước:http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010070/0/4560/Tang_cuong_su_tham_gia_cua_nhan_dan_trong_hoat_dong_quan_ly_nha_nuoc

[10] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr.12.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ