QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐÔ THỊ

 

QUẢN  LÝ XÃ HỘI ĐÔ THỊ

Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng sâu rộng và cùng với đó là tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đã chuyển sang một giai đoạn mới, đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý xã hội. Theo đó, bài toán quản lý đô thị cũng đặt ra đối với mỗi nhà lãnh đạo, nhà khoa học nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Như đã đề cập ở trên, quản lý đô thị là bài toán đa biến, phức tạp và hướng đến nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, văn hóa, xã hội, trị an,…Cùng với tiến trình đô thị hóa ngày càng gia tốc thì bài toán quản lý cũng phức tạp hơn, vấn đề đô thị ngày càng đa dạng hơn, khó lường hơn; quản lý phát triển đô thị bộc lộ nhiều bất cập [1]. Trong đó, quản lý nhân khẩu đô thị và giải quyết những vấn đề phát sinh chưa bao giờ là bài toán dễ dàng.

1. Quản lý nhân khẩu đô thị

Đô thị là một thực tế mà nhân khẩu[2] chính là yếu tố căn bản tạo nên “hồn cốt”, “cốt cách”, làm cho một đô thị cụ thể “sống” và “động”. Nói cách khác, bất luận thế nào (đô thị có quy mô lớn hay nhỏ; tính chất đơn giản hay phức tạp; đô thị kiểu truyền thống hay thông minh) thì con người là tiền để một đô thị tồn tại, phát triển. Đến lượt mình, sự tồn tại và phát triển của dân số đô thị tác động trở lại đến hàng loạt các thành tố khác của hệ thống đô thị. Do đó, quản lý nhân khẩu đô thị là nhân tố hàng đầu đảm bảo trật tự, trị an và sự vận hành bình thường của đô thị. Nhận thức được tầm quan trọng của nhân khẩu và quản lý nhân khẩu có ý nghĩa đối với kinh tế-xã hội, đối với toàn bộ quá trình tồn tại, phát triển của một đô thị.

1.1. Khái niệm nhân khẩu đô thị

1.1.1. Hàm nghĩa của nhân khẩu đô thị

Nhân khẩu đô thị là “Dân số thuộc ranh giới hành chính của đô thị, bao gồm: nội thành, ngoại thành, nội thị, ngoại thị và thị trấn[3]; “Dân số toàn đô thị là dân số của khu vực nội thị và khu vực ngoại thị[4]. Như vậy, nhân khẩu đô thị là tất cả những người sinh sống, lao động, học tập, thực hiện nhiệm vụ trong khu vực đô thị theo địa giới hành chính quy định. Trong điều kiện quy định của nước ta, bao gồm những người có hộ khẩu thường trú và tạm trú[5]. Điều lưu ý là, công dân có “hộ khẩu thành phố” và “không có hộ khẩu thành phố” trước đây được phân định một cách rõ ràng khiến cho những người “không có hộ khẩu”, trên một số bình diện nào đó mà nói, trở thành những “công dân hạng hai”[6], và đương nhiên cách thức ứng xử, phương pháp quản lý với nhóm người nhập cư mà chưa có hộ khẩu cũng khác so với “công dân có hộ khẩu”. Điều này không những cản trở sự phát triển của một đô thị mà còn gây nên những vấn đề xã hội tiêu cực.

1.1.2. Đặc trưng nhân khẩu đô thị

Từ hàm nghĩa của nó có thể khẳng định, nhân khẩu đô thị là một chủ thể của đô thị, và đương nhiên có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đô thị. Một mặt, nhân khẩu đô thị là nhân tố biểu trưng cho lực lượng sản xuất căn bản của một thành phố, là nguồn tài nguyên quý giá được kết tinh trong mỗi con người bằng sức lao động, là tiền đề cơ bản thực hiện nhiệm vụ sản xuất, thúc đẩy đô thị phát triển; mặt khác, nhân khẩu đô thị là chủ thể tiêu dùng, kích thích sản xuất lưu thông hàng hóa, mở rộng sản xuất. Nếu so sánh với nhân khẩu nông thôn thì nhân khẩu đô thị có những đặc trưng cơ bản sau: (1) cùng với tiến trình đô thị hóa ngày càng gia tốc, tỷ trọng nhân khẩu đô thị trong toàn bộ nhân khẩu của một quốc gia, khu vực không ngừng gia tăng, mật độ dân cư ngày càng cao. Ngược lại, nhân khẩu nông thôn giảm sút, mật độ dân số nông thôn ngày càng giảm; (2) xu thế già hóa dân số đô thị ngày một trầm trọng. Cùng với tốc độ phát triển kinh tế ngày càng nhanh, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, mạng lưới y tế ngày càng hoàn thiện là các nhân tố làm cho tuổi thọ bình quân dần nâng cao; (3) trình độ văn hóa, tố chất thị dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, điều kiện học tập ngày càng được cải thiện, ý thức học tập của cư dân ngày được nâng cao, từ đó góp phần nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết pháp luật của cư dân đô thị; (4) cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, phân tầng xã hội về nghề nghiệp ở đô thị ngày càng phức tạp; (5) cùng với tiến trình hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa diễn ra khá mạnh mẽ khiến cho các giá trị văn hóa, tâm lý, niềm tin của thị dân cũng chịu nhiều “va đập”, tác động cả chiều hướng tích cực và tiêu cực.

1.1.3. Dân số đô thị và phát triển đô thị

Từ khía cạnh số lượng mà nói, một đô thị có số dân đông cũng cho thấy “sức sống” của nó qua nguồn tài nguyên con người. Những đô thị có số lượng dân số khác nhau thì mức độ, tính chất, phân bố, cơ cấu xã hội cũng không giống nhau; tính chất, cơ cấu, quy mô của các cơ sở hạ tầng đô thị từ giao thông, trường học, bệnh viện, dịch vụ công thậm chí văn hóa xã hội, biến đổi xã hội cũng có những khác biệt tương ứng.

Ba nhân tố cơ bản liên quan trực tiếp đến quy mô, tính chất, tốc độ gia tăng nhân khẩu đô thị là tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết và tỷ lệ di cư. Nếu dân số quá đông (hoặc tăng quá nhanh) hay quá ít (hoặc tăng trưởng dân số âm) sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển của thành phố. Chính vì thế, quản lý nhân khẩu đô thị cần phải chú ý đến một số lượng nhân khẩu phù hợp với trình độ phát triển đô thị mới đảm bảo phát triển bền vững.

Gọi là “số lượng nhân khẩu phù hợp” không hàm chỉ số lượng tuyệt đối của con số mà phù hợp với tính chất, quy mô, kiểu loại, định hướng phát triển của từng đô thị cụ thể[7]. Nói cách khác, chỉ báo cho thấy “sự phù hợp” về số lượng nhân khẩu bao gồm nhiều nhân tố như mức độ thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm, nhà ở, đi lại; mức độ phúc lợi xã hội đối với cá nhân; khả năng tìm kiếm và đảm bảo có việc làm; cộng đồng cư dân hài hòa, ấm áp; gia đình và các thành viên trong gia đình có sự gắn kết; thực lực kinh tế đô thị hùng hậu; văn hóa-lối sống đô thị được giữ gìn, phát huy; các vấn đề xã hội được giải quyết triệt để; niềm tin của người dân đối với chính quyền được cũng cố và phát triển,…Một thành phố có số lượng dân số lý tưởng cần phải đảm bảo mức độ tăng dân số tự nhiên phù hợp, quản lý được mức độ gia tăng dân số cơ học (di cư đến và đi) và luôn gắn kết với chất lượng dân số, nâng cao tố chất thị dân[8].

Từ khía cạnh cơ cấu dân số mà nói, nhân khẩu đô thị không bao giờ là một “cộng đồng thuần nhất” mà gồm các nhóm xã hội có các đặc điểm khác nhau từ lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, trình độ học vấn đến sở thích, quan niệm sống, tình trạng hôn nhân,…

Trong mỗi giai đoạn phát triển, dù muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận một sự thật hiển nhiên là, lịch sử luôn đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi đô thị những bài toán kinh tế - xã hội khác nhau. Đối với các quốc gia đang phát triển, cùng với tiến trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp - đô thị là những biến đổi xã hội dồn dập diễn ra trong cơ cấu dân số, cơ cấu kinh tế, lối sống, mức sống,… Trong giai đoạn “quá độ đô thị” như chúng ta thì quản lý nhân khẩu đô thị về vấn đề cơ cấu cần phải chú ý (và thừa nhận) tính phức tạp, đa dạng trong thành phần, bộ phận cấu thành của dân cư để điều chỉnh cho phù hợp. Chẳng hạn, một đô thị có số lượng nhân khẩu đông nhưng cơ cấu dân số chủ yếu là người cao tuổi (cơ cấu dân số già) thì chiến lược phát triển của thành phố đó sẽ bị đe dọa bởi thiếu nguồn lao động trẻ. Đương nhiên, với cơ cấu dân số già thì các thiết chế phục vụ cho con người như trường học, bệnh viện cũng cần phải phù hợp; vấn đề người già cũng cần phải đặt ra.

 Từ khía cạnh phân bố dân cư mà nói, phân bố dân cư có mối liên hệ mật thiết đến phát triển kinh tế đô thị, sự tập trung dân số quá mức (mật độ quá lớn) hoặc giãn cách quá lớn (mật độ quá thưa) đều tác động tiêu cực đến sự phát triển bình thường của một đô thị. Quy mô dân số lớn, cơ cấu phức tạp, phân bố không hợp lý sẽ nảy sinh một số vấn đề xã hội như thất nghiệp, đói nghèo, tệ nạn xã hội, thậm chí có thể đe dọa đến an ninh, trật tự đô thị. Khi mà mật độ dân số tập trung ở khu vực “lõi” quá lớn, trong khi đó một số vùng ngoại ô thì lại thưa thớt, lúc đó thông thường, nhà chính quyền sẽ tính đến bài toán “kéo dãn” dân số đô thị bằng cách hình thành các khu đô thị mới, đô thị vệ tinh; chuyển một số cơ quan chức năng ra vùng ven đô,… Những động thái đó của chính quyền chủ yếu là nhằm phân bố lại dân cư một cách hợp lý, vừa giảm tải ở các khu vực trung tâm đô thị, vừa tạo động lực cho các vùng ven đô phát triển. Đó cũng là một cách làm phù hợp, khoa học.

1.2. Nội dung quản lý nhân khẩu đô thị

Quản lý nhân khẩu đô thị là nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền đô thị. Bằng những biện pháp và công cụ phù hợp theo luật định, chính quyền đô thị tiến hành quản lý toàn bộ quá trình nhân khẩu đô thị gồm số lượng, chất lượng, cơ cấu và di cư. Một đô thị có sức chứa bao nhiêu nhân khẩu phụ thuộc vào trình độ phát triển và điều kiện kinh tế xã hội của chính đô thị đó. Để phát triển tốt công năng của một thành phố, nâng cao hiệu suất kinh tế thì yếu tố dân số phải có tính tương thích.

Khống chế được số lượng, nâng cao tố chất, điều chỉnh cơ cấu phù hợp, quản lý tốt công tác di cư (nhập cư và xuất cư) chính là những nội dung cơ bản của quá trình quản lý nhân khẩu đô thị. Hợp lý hóa số lượng nhân khẩu, tối ưu hóa tố chất thị dân, đa dạng hóa các ngành nghề để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm việc làm cho cư dân chính là những mục tiêu căn bản của quản lý đô thị. Làm tốt công tác quản lý nhân khẩu, duy trì và cũng cố nề nếp xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phát huy hiệu suất phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với vấn đề phát triển bền vững đô thị.

Từ những góc độ khác nhau xem xét thì nội dung quản lý đô thị cũng khác nhau. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét một số nội dung chủ yếu về quản lý nhân khẩu đô thị trong điều kiện ở Việt Nam.

1.2.1. Quản lý nhân khẩu đô thị diện thường trú

Đối với một thành phố cụ thể mà nói, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu thường trú hướng đến đối tượng “có hộ khẩu thành phố”. Theo quy định của nước ta[9], Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cư trú trong phạm vi cả nước, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cư trú, uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về cư trú tại địa phương theo quy định.

Như vậy, đối với một thành phố mà nói, việc quản lý hộ khẩu thường trú do chính quyền thành phố mà cụ thể là công an các cấp của thành phố đó trực tiếp quản lý. Quản lý hộ khẩu thường trú bao gồm quản lý về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Thông thường, trong quản lý hộ khẩu thường trú chúng ta chỉ chú trọng đến số lượng chứ ít (thậm chí không) chú trọng đến khía cạnh cơ cấu và chất lượng dân số. Cần lưu ý, một thành phố muốn phát triển và mang tầm vóc khu vực, quốc tế không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà điều tiên quyết là cơ cấu (dân số trẻ hay dân số già) và chất lượng dân số. Hơn thế nữa, muốn xây dựng một thành phố văn minh, hiện đại thì vấn đề tố chất thị dân (liên quan đến chất lượng dân số) là nhân tố quyết định.

1.2.2. Quản lý nhân khẩu đô thị diện tạm trú và di cư

Nhân khẩu tạm trú và nhân khẩu thuộc diện di cư (tạm thời, ngắn hạn) là những nhân khẩu không có hộ khẩu thường trú. Từ nhiều lý do khác nhau mà mỗi thành phố đều có một lượng người nhất định đến sinh sống, lao động, học tập, công tác, du lịch, tìm sinh kế (kể cả đối tượng lang thang, xin ăn,…), trốn tránh (các phần tử vi phạm pháp luật, phần tử trốn truy nã, người trốn tránh trách nhiệm vi phạm sinh đẻ kế hoạch hóa gia đình ở nơi khác,…).

Tại các đô thị ở Việt Nam, trên những bình diện khác nhau, luôn tồn tại những vấn đề về quản lý nhân khẩu tạm trú, di trú[10]. Từ đó nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp như trộm cắp, mại dâm, buôn bán người; vấn đề việc làm, an sinh xã hội và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, không ít đô thị có lượng khách vãng lai (khách du lịch, người làm công tác nghiên cứu, người di cư đến tìm kiếm việc làm,…) nhiều hơn cả dân số của thành phố như Macau[11], Monaco[12]; Đà Nẵng, Hội An[13] của Việt Nam cũng là những thành phố có lượng khách vãng lai rất lớn. Do đó, bài toán quản lý nhân khẩu đô thị cần phải đặt ra một cách nghiêm túc, khoa học để vừa đảm bảo sức hút của một thành phố (hướng đến một thành phố mở, năng động); bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân nhưng cũng vừa điều chỉnh tính “chịu tải” của một thành phố (nhất là cơ sở hạ tầng và không gian xã hội), tránh những xung đột giá trị, xung đột văn hóa và xung đột lợi ích giữa các bộ phận, nhóm cư dân trong đô thị.

1.2.3. Quản lý mức sinh thông qua chính sách, kế hoạch

Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là quyết sách có tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta[14] nhằm điều chỉnh mức sinh và tỷ lệ tăng trưởng dân số phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, các đô thị không là ngoại lệ. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, khi mà mức sinh ở các đô thị có phần “chững lại” thì chính sách dân số hướng đến vấn đề chất lượng dân số.

Nói mức sinh ở các đô thị có xu hướng chững lại tức là mức sinh thấp. Nhìn chung, một số vấn đề dân số cần lưu ý đối với bài toán quản lý là vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh, già hoá dân số, mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể; chất lượng dân số tăng lên nhưng chưa cao, di dân diễn ra mạnh mẽ và phân bố dân số còn nhiều bất cập.

Do đó, đã đến lúc phải giải quyết toàn diện các vấn đề dân số, chứ không chỉ đơn thuần là kế hoạch hóa gia đình. Chính vì vậy, Nghị quyết số 21/NQ-TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã định hướng cho chính sách dân số Việt Nam trong thời gian tới là: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.

1.2.4. Dự báo tốc độ gia tăng dân số đô thị

Quản lý nhân khẩu đô thị không chỉ ở phần “tĩnh” mà cần phải nhìn thấy được tính “động” của quá trình dân số. Nói cách khác, điều tra và dự báo xu hướng, quy mô của nhân khẩu đô thị là nhiệm vụ rất quan trọng trong quản lý nhân khẩu; là cơ sở để hoạch định các chính sách liên quan trong chiến lược phát triển đô thị. Căn cứ vào thực trạng, đặc điểm, xu hướng tăng trưởng của yếu tố dân số, thông qua các phương pháp phân tích khoa học, những nhà quản lý có thể dự đoán, dự báo được bức tranh dân số đô thị trong tương lai. Công tác dự báo bao gồm phương diện số lượng, cơ cấu và chất lượng. Quy mô nhân khẩu là căn cứ quan trọng để xây dựng các đề án, dự án, chính sách, kế hoạch cho tiến trình phát triển của thành phố. Chẳng hạn, căn cứ vào quy mô và mật độ dân số, chính quyền đô thị sẽ quyết định đến việc xây dựng các công trình công cộng phù hợp, mạng lưới giao thông tương thích; căn cứ vào cơ cấu dân số (dân số già chẳng hạn), nhà quản lý có thể đề xuất xây dựng các thiết chế dành cho người cao tuổi và giải quyết vấn đề an sinh, khám chữa bệnh, việc làm cho đối tượng này; tính chất dân số (trình độ học vấn, hàm lượng khoa học kỹ thuật,...) có vai trò quyết định đến kiến tạo phương hướng phát triển của đô thị,... Có thể thấy, dự báo dân số có ý nghĩa trọng yếu đối với công tác quy hoạch, là cơ sở khoa học cho định hướng phát triển kinh tế-xã hội cũng như chiến lược phát triển của thành phố.

1.3. Quản lý nhân khẩu đô thị ở nước ta

Do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử đặc thù nên chính sách quản lý hộ khẩu ở nước ta nói chung, quản lý hộ khẩu ở các đô thị nói riêng cũng có những đặc trưng riêng, nhất là cơ chế quản lý bằng hộ khẩu và, trong một thời gian khá dài, sự phân biệt người “có hộ khẩu thành phố” và người “không có hộ khẩu thành phố” trở thành mô thức “nhị nguyên” trong cách phân chia quản lý hộ khẩu, đó là nông thôn và đô thị. Điều này gây nên nhiều hệ lụy xã hội mà cụ thể là không ít học sinh không được hưởng thụ nền giáo dục của thành phố nếu không có “hộ khẩu thành phố”[15]; không có gì ngạc nhiên khi không ít ứng viên bị loại ngay từ đầu khi xin việc làm ở một số thành phố, con đường càng hẹp hơn, khó khăn hơn khi mong muốn làm việc tại các cơ quan hành chính nhà nước mà ứng viên “không hộ khẩu thành phố”.

Dưới điều kiện của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, chế độ hộ khẩu vừa là cơ chế để quản lý nhân khẩu đô thị, vừa là “rào cản” đối với cư dân nông thôn di cư đến các đô thị, hình thành nên kiểu “nhị nguyên” trong quản lý nhân khẩu: hoặc hộ khẩu nông thôn hoặc hộ khẩu thành phố. Có thể nói, kiểu quản lý hộ khẩu này phù hợp trong điều kiện của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp (người nào di cư đến nơi khác là coi như không được hưởng các quyền lợi cơ bản về mua bán các nhu yếu phẩm hay lương thực). Bằng cách phân phối các nguồn lực theo nhân khẩu, hộ khẩu gắn với nơi cư trú nhất định thì đây là phương thức hạn chế tối đa sự rối loạn xã hội bằng hình thức di cư (nhất là nông thôn đến đô thị).

Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là chủ trương vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì bài toán quản lý hộ khẩu của chúng ta cũng có nhiều bước tiến đáng kể, vừa khắc phục những hạn chế của mô thức “nhị nguyên” vừa phát huy tính tích cực, năng động và đảm bảo quyền tự do cư trú của công dân. Đặc biệt, Luật cư trú (2013) của Việt Nam đã nhấn mạnh đến quyền tự do cư trú của công dân cũng như nghiêm cấm các hành vi cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú hay lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là những điểm nhấn “đánh vào” thành trì “nhị nguyên” trong mô thức quản lý nhân khẩu đô thị trước đây.

Trong thời gian gần đây, cơ quan chức năng của Việt Nam đang hoàn thiện Luật cư trú (sửa đổi) mà cụ thể là Quốc hội đã tiến hành thảo luận và dự kiến bỏ sổ hộ khẩu và tiến hành quản lý đăng ký dân cư bằng mã số định danh cá nhân. Dự kiến nếu được Quốc hội thông qua sẽ triển khai thực hiện từ tháng 7-2021[16].

Tuy vậy, cần phải nói thêm rằng, trên thực tế không ít người đánh đồng việc “bỏ hộ khẩu” với công tác quản lý nhân khẩu và cho rằng, không cần thiết phải quản lý hộ khẩu như hiện nay. Lưu ý, mục tiêu sửa đổi Luật cư trú là nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo quyền tự do đi lại, tự do cư trú của công dân chứ tuyệt nhiên không phải là “thả lỏng”, “buông lỏng” công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu. Nói cách khác, một đô thị yếu kém về công tác quản lý nhân khẩu sẽ không có cơ sở để vạch ra tầm nhìn chiến lược trong phát triển, ngược lại làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, thậm chí là mất an toàn xã hội, bất ổn xã hội.

Kinh nghiệm quản lý nhân khẩu ở nhiều đô thị lớn trên thế giới là, người ta không quản lý bằng hộ khẩu (giấy) nhưng không phải ai muốn vào đó sống thế nào cũng được, bởi vì có những quy định như về an ninh trật tự, an toàn xã hội, an sinh xã hội, bảo đảm xã hội (nhà ở, việc làm,…) mà ai đến đó cũng phải tuân theo. Trong những điều kiện nhất định (thiên tai, dịch bệnh,…) thì người ta sẽ chiếu theo “hộ khẩu” để ứng phó và trợ giúp. Như vậy, vấn đề là ở chỗ, thay đổi mô thức, phương thức, hình thức quản lý nhân khẩu đô thị trong tình hình mới nhằm áp dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào quản lý xã hội nhằm nâng cao hiệu suất, hiệu quả chứ không phải phủ nhận hay buông lỏng quản lý nhân khẩu đô thị.

Thực tiễn quản lý nhân khẩu đô thị ở nước ta thời gian qua cho thấy, nhiều địa phương và chính quyền đô thị có biểu hiện buông lỏng quản lý nhân khẩu, hộ khẩu. Tại các vùng nông thôn, do không đảm bảo đời sống nên phải di cư đến các đô thị lớn để tìm sinh kế; tại các đô thị, nếu như trước đây thì “siết chặt” quản lý nhân khẩu đến mức cực đoan thì hiện nay lại “thả lỏng” đến mức “thoải mái”. Cụ thể là, chưa theo dõi sát các loại nhân khẩu, hộ khẩu tạm trú trên địa bàn, nhất là những trường hợp xóa đăng ký tạm trú, thông tin về nhân hộ khẩu tạm trú là “đối tượng”… Công tác kiểm tra, xử lý còn thiếu kiên quyết, số lượt kiểm tra hàng năm còn chưa đáp ứng đủ so với số nhân khẩu đang sống trên địa bàn. Việc kiểm tra còn nặng tính hình thức và chưa gắn với công tác tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân. Việc bổ sung thông tin thay đổi nhân khẩu tạm trú, báo cáo thống kê nhân khẩu, hộ khẩu tạm trú (định kỳ và đột xuất) thiếu tính kịp thời[17]. Như vậy, vấn đề là thay hộ khẩu bằng phương thức quản lý hợp lý hơn, tiện lợi hơn cho người dân đi lại, sinh sống, học tập nhưng đồng thời phải có biện pháp không để gia tăng di dân và cư trú tự phát, kéo theo nhiều hệ lụy, khiến người sở tại không yên mà người nhập cư cũng không ổn.

2. Quản lý trật tự xã hội đô thị

2.1. Hàm nghĩa quản lý trật tự đô thị

Quản lý an ninh, trật tự an toàn xã hội đô thị  là nhiệm vụ của chính quyền đô thị cùng các chủ thể liên quan, thông qua các biện pháp nhất định (hành chính, kinh tế, pháp luật) nhằm duy trì trật tự công cộng, đảm bảo trị an đô thị (nên còn gọi là quản lý trị an). Đặc thù của đô thị là mật độ dân số cao, số lượng tập trung dân cư lớn, cơ cấu dân cư phức tạp, mật độ hạ tầng dày đặc,… do đó, để đảm bảo an toàn sinh mạng và tài sản cho cư dân, doanh nghiệp, nhà nước cần phải tiến hành các hoạt động hành pháp, tư pháp nghiêm minh, chặt chẽ.

2.2. Nội dung quản lý trật tự đô thị

Quản lý trị an đô thị là biện pháp mang tính tổng hợp bao gồm quản lý nhân khẩu, hộ khẩu; tuần tra, giám sát kịp thời phát hiện các hoạt động tội phạm; xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp; quản lý công tác phòng cháy chữa cháy; quản lý an toàn và trật tự giao thông,… trong đó nhiệm vụ trọng tâm là phòng, chống các hoạt động tội phạm trên địa bàn đô thị. Có thể nói, quản lý trị an đô thị là duy trì trật tự xã hội đô thị, nội dung cụ thể chủ yếu ở một số lĩnh vực sau:

Thứ nhất, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và các hoạt động tội phạm. Nhiệm vụ hàng đầu của quản lý trị an đô thị là ngăn chặn, dự phòng, xử lý các hành vi phạm pháp theo quy định của pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự trong từng khu dân cư, mang lại cảm giác an toàn cho người dân; bảo vệ của cải, tài sản của nhân dân, doanh nghiệp; bảo vệ các công trình công cộng của nhà nước.

Thứ hai, phát hiện, phòng ngừa, định hướng các hành vi lệch lạc xã hội[18], chẳng hạn, các hành vi có khả năng đe dọa đến an toàn công cộng, mất trật tự nơi công cộng (kể cả gây tiếng ồn quá mức cho phép); không tuân thủ các quy định về cư trú, lưu trú; vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy; vi phạm các quy định về tập trung đông người hay gây rối trật tự công cộng,…

Thứ ba, dự báo và có biện pháp để xử lý các tình huống đột xuất, bất thường. Tình huống bất thường, đột xuất hàm chỉ trong quá trình vận hành đô thị, từ những nguyên nhân nào đó (có thể là khách quan hay chủ quan) làm nảy sinh những sự kiện, hiện tượng, vấn đề ngoài dự đoán của chính quyền và nhà quản lý[19] buộc người lãnh đạo phải đưa ra những quyết định khẩn cấp, “bất thường”. Các tình huống này thường rất phức tạp (kể cả thiên tai, địch họa, dịch bệnh, “nhân tai”[20]), tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và đến đại đa số cư dân, thậm chí đe dọa đến sự phát triển, tồn vong của một đô thị.

Ngoài ra, một số vấn đề cũng cần phải lưu tâm trong quản lý trật tự đô thị là phòng cháy chữa cháy, tai nạn giao thông, ngộ độc thực phẩm, nhiễm độc từ các kho, nhà máy hóa chất, cơ sở sản xuất có sử dụng những hóa chất độc hại[21],…Đối với những khía cạnh này thì chính quyền thành phố cũng cần có số liệu, tiến hành phân tích và đưa ra các dự báo cũng như phương án hành động để xử lý nếu xảy ra. Đó là những nhiệm vụ và nội dung quan trọng trong quản lý trật tự đô thị.

2.3. Cơ chế, trách nhiệm và chủ thể quản lý trật tự đô thị

Quản lý trật tự đô thị là nhiệm vụ quan trọng của chính quyền đô thị. Thông qua các phương tiện khác nhau như hành chính, luật pháp, kinh tế, truyền thông,… các cơ quan hữu quan có trách nhiệm kiểm tra, giám sát và tiến hành các hoạt động liên quan thuộc thẩm quyền của mình để tiến hành hoạt động quản lý và đảm bảo an toàn đô thị. Trong đó, cơ quan công an là chủ thể nòng cốt đối với vấn đề trị an đô thị.

Với đặc thù của mỗi thành phố cũng như tính chất, quy mô của vấn đề an ninh trật tự mà chính quyền thành phố có thể thành lập thêm những cơ quan, tổ chức mang tính đặc thù để lập lại trị an đô thị. Thời gian qua, một số đô  thị lớn ở Việt Nam đã “cho ra lò” những cơ quan chức năng này và hoạt động rất hiệu quả, được ví như “nắm đấm thép” nhắm vào các đối tượng, băng nhóm tội phạm. Ví dụ: Thành phố Hà Nội có “Tổ công tác 141” (bao gồm lực lượng tổng hợp từ cảnh sát giao thông, cảnh sát cơ động và cảnh sát hình sự) nhằm đấu tranh, trấn áp tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn thành phố; Thành phố Đà Nẵng có “Lực lượng 911” có nhiệm vụ tuần tra, tổ chức chốt chặn, kiểm soát an ninh trật tự, tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố nhằm bảo đảm an ninh đô thị, đấu tranh với các loại tội phạm.

Trước tình hình  trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có dấu hiệu diễn biến phức tạp, các nhóm tội phạm xâm hại sở hữu tài sản (nhất là trên đường phố và nơi công cộng) có dấu hiệu gia tăng, một số băng nhóm cướp, cướp giật, trộm cắp chuyên nghiệp gây án trong thời gian dài nhưng chậm phát hiện bắt giữ, tình trạng thanh niên tụ tập chạy xe thành đoàn, gây mất an ninh trật tự, bức xúc trong dư luận,… Nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật phù hợp với diễn biến của tình hình mới, Công an thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng mô hình tuần tra kiểm soát hỗn hợp, gọi tắt là “Tổ công tác 363”.

Tất cả những động thái trên của một số đô thị trong công tác quản lý trị an đô thị cho thấy tính chủ động của chính quyền đô thị sở tại, bên cạnh đó cũng là chỉ báo tính phức tạp về an ninh trật tự ở các đô thị lớn. Đối với quản lý trị an đô thị mà nói, trách nhiệm của chính quyền đô thị chủ yếu thể hiện ở một số bình diện sau:

Một là, chấp hành thực thi các quy định, định chế luật pháp của cơ quan nhà nước cấp trên nhằm phòng, chống những hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức; bảo vệ tài sản công dân, doanh nghiệp, nhà nước; bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân, duy trì trật tự xã hội;

Hai là, tiến hành nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để chế định các chính sách, chương trình hành động, đề án, phương án phù hợp với tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của thành phố; cụ thể hóa, thực tiễn hóa các chính sách, pháp luật của chính quyền cấp trên trong điều kiện và bối cảnh cụ thể của mỗi thành phố; có phương án huy động được các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực) ở địa phương theo hướng nhằm tối ưu hóa, xã hội hóa để hiện đại hóa, khoa học hóa công tác trị an đô thị.

Ba là, có cái nhìn đa chiều và thực tiễn về công tác trị an đô thị. Chẳng hạn, ngoài những hành vi vi phạm pháp luật thì các hành vi có thể đe dọa đến vấn đề an ninh đô thị khác như nhập cư (và cư trú) trái phép, các hành vi gây ô nhiễm và phản cảm nơi công cộng; chế tạo, tàng trữ các loại vũ khí,.. đều phải được nằm trong nội dung quản lý trị an đô thị.

2.4. Một số chính sách cụ thể quản lý trật tự đô thị

2.4.1. Chính sách quản lý nhân khẩu, hộ khẩu

Chính sách hộ khẩu là một công cụ cơ bản trong quản lý nhân khẩu đô thị và là một trong những nội dung quan trọng đối với vấn đề trị an đô thị, bởi xét đến cùng trị an đô thị không thể tách rời với con người. Chính sách quản lý hộ khẩu bao gồm nhiều khâu, nhiều nội dung. Trong đó, chủ yếu là vấn đề đăng ký nhân hộ khẩu, nắm bắt tình hình di cư (đến và đi); điều tra dân số, thống kê nhân khẩu; cấp phát thẻ chứng minh nhân dân (hay thẻ căn cước); điều kiện để trở thành công dân của một đô thị (điều kiện nhập cư vào một đô thị)[22],…

2.4.2. Chính sách quản lý trị an đô thị

Quản lý trật tự trị an đô thị bao gồm công tác tuần tra, kiểm soát; công tác quản lý các ngành nghề có điều kiện; quản lý các sản phẩm độc hại, nguy hiểm và công tác quản lý nơi công cộng.

Đối với công tác quản lý nơi công cộng, cần chú ý đến vấn đề an ninh trật tự ở các khu vui chơi, giải trí như nhà hát, công viên, lễ đường, chùa chiền, nhà thờ. Thông qua công tác kiểm tra, tuần tra, giám sát của lực lượng chức năng nhằm đảm bảo các hoạt động được diễn ra đúng pháp luật, không gây ô nhiễm môi trường cũng như nguy hại, xâm hại đến cộng đồng.

Đối với công tác quản lý các sản phẩm độc hại, cần chú ý đến các kho chứa sản phẩm, hóa chất có khả năng gây nguy hại; các chất phóng xạ; thuốc trừ sâu, thậm chí ngay cả các nguyên liệu, nhiên liệu, khí đốt có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng[23]. Do đó, thông qua công tác rà soát, kiểm tra, các cơ quan chức năng cần phải kiên quyết xử lý những cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định về đảm bảo an toàn trong khu dân cư; không để những “quả bom nổ chậm” ngay trong lòng thành phố[24].

Đối với công tác quản lý các ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tùy theo mỗi quốc gia, địa phương hay đô thị mà danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện cũng khác nhau[25] nhưng mục tiêu của nó là hướng đến an ninh, an toàn và trật tự xã hội. Từ các ngành nghề đặc thù như sản xuất con dấu, sản xuất và mua bán quân trang, quân dụng đến dịch vụ cầm đồ, dịch vụ xoa bóp, đòi nợ thuế và quy mô lớn hơn như kinh doanh các sòng bạc-casino, tiền chất nổ, dầu khí, năng lượng,… đều có nguy cơ bị các phần tử xấu lợi dụng, núp bóng để tổ chức hoạt động. Do đó, chính quyền đô thị cần phải siết chặt công tác quản lý, tiến hành kiểm tra, giám sát một cách thường xuyên, phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về các quy định kinh doanh ngành nghề có điều kiện. Bởi lẽ sức khỏe của nhân dân và “sức khỏe đô thị” sẽ bị đe dọa khi các hoạt động kinh doanh có điều kiện bị buông lỏng quản lý, các phần tử xấu lợi dụng sơ hở của pháp luật và lỏng lẻo trong kiểm tra, giám sát để hoạt động, gây nên những tổn hại rất lớn đến đời sống bình thường của thị dân và đe dọa đến sự phát triển bền vững đô thị.

2.4.3. Chính sách quản lý giao thông đô thị

Quản lý đô thị nói chung, quản lý giao thông đô thị nói riêng là một bài toán hóc búa mà nhiều quốc gia trên thế giới đã, đang gặp phải và cần một lời giải thỏa đáng. Cùng với sự phát triển của tiến trình đô thị hóa, sự gia tăng dân số đô thị một cách nhanh chóng, các phương tiện giao thông cá nhân cũng theo đó mà gia tăng thì vấn đề ùn tắc giao thông khiến cho bài toán quản lý đô thị ngày càng thêm phức tạp.

Trên thực tế, nhiều lúc nhiều nơi chúng ta đã tỏ ra hết sức lúng túng khi lựa chọn những biện pháp để hóa giải vấn đề giao thông nói chung, ùn tắc giao thông nói riêng. Cũng phải thừa nhận rằng, những người lãnh đạo và quản lý đô thị nước ta đã có những động thái hết sức tích cực để giải quyết nhưng thực tế cho thấy, vấn đề giao thông (quy hoạch giao thông, các phương tiện giao thông, tai nạn giao thông, ùn tắc đường,…) vẫn chưa được giải quyết một cách bài bản.

Do đó tăng cường các chính sách quản lý giao thông (xây dựng chính sách, các đề án; vấn đề chấp pháp về giao thông (chấp hành pháp luật trong lĩnh vực giao thông kể cả cán bộ và người dân); công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức giao thông; vận dụng dư luận xã hội để lên án các hành vi vi phạm giao thông,…) cần phải được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quản lý đô thị. Trong đó, quản lý an toàn giao thông là nhiệm vụ thường xuyên, vừa đảm bảo tính mạng của người tham gia giao thông, vừa hình thành hình ảnh văn hóa-văn minh của một đô thị[26].

Công bằng mà nói, trong những năm gần đây mạng lưới giao thông trong các đô thị ở nước ta đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Những con đường mới được xây dựng, hệ thống cầu cống được sửa chữa nâng cấp kiên cố hơn, diện tích mặt đường đáp ứng cho nhu cầu giao thông ngày một nhiều hơn. Một số tuyến Metro đang được kiến tạo và sắp đưa vào vận hành; hệ thống xe buýt công cộng được đầu tư bài bản,… Thế nhưng, một điều mà chúng ta cũng không thể phủ nhận là, trong các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng ùn tắc giao thông thường xuyên xảy ra, và ngày càng nghiêm trọng hơn. Điều đó gây ra không ít sự phiền toái cho người tham gia giao thông, làm tổn hại đến sức khỏe, tinh thần, vật chất cho mỗi người dân, cho cộng đồng và cho toàn xã hội.

Điều này cũng khiến cho các nhà hoạch định và quản lý đô thị buộc phải nhìn lại về công tác quy hoạch giao thông và cách thức quản lý của mình. Nói cách khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là có những nhận thức chưa đúng tầm quan trọng của quản lý giao thông đô thị mà cụ thể là chưa giải quyết triệt để các căn bệnh giao thông đô thị. Từ đó, bốc ra những thang thuốc không hữu hiệu nếu không muốn nói là không phù hợp. Nói thẳng ra, chúng ta đã mắc những sai lầm về triết lý trong chiến lược phát triển giao thông đô thị[27], và do vậy, các chính sách quản lý phát triển giao thông cũng bị một số hạn chế:

Thứ nhất, khi giải quyết bài toán giao thông nói chung, chống ùn tắc giao thông nói riêng, chính quyền đô thị mà cụ thể là ngành giao thông đã quá xem trọng tính cơ động của xe mà quên mất tính đạt được mục đích của người. Nói một cách dễ hiểu, chúng ta cải tạo đường sá là để cho xe lưu thông chứ không nghĩ là để người lưu thông. Hơn thế nữa, nhiều khi các nhà hoạch định giao thông đô thị hoảng hốt khi thấy phương tiện giao thông cá nhân tăng chóng mặt và lo lắng khi thấy tỷ lệ giữa phương tiện này với diện tích mặt đường không tương thích. Từ đó vội vàng tìm mọi cách mở rộng lòng đường, kiến tạo nhiều con đường mới, rốt cuộc chạy đua giữa phương tiện giao thông cá nhân với diện tích mặt đường nhiều khi chạy vào... ngõ cụt. Từ đó các nhà quản lý lại nghĩ ra cách hạn chế sự gia tăng xe cá nhân bằng nhiều biện pháp. Thiết nghĩ, đây là cách làm ấu trĩ và không mấy hiệu quả.

Thứ hai,  xem nặng về xây dựng, sửa chữa cầu đường, trong khi lại coi nhẹ chiến lược phát triển giao thông một cách bài bản, khoa học có tính kế thừa và có hệ thống.

Biểu hiện của hiện tượng này là nhiệt tình xây dựng, kiến tạo, sửa chữa, mở rộng cầu đường đô thị, mà thiếu đi chiến lược phát triển giao thông đô thị một cách lâu dài, khoa học. Từ đó đã và đang hình thành nên cục diện về xây dựng giao thông đô thị ở nước ta theo kiểu ngứa đâu gãi đấy. Hậu quả là đầu tư lớn nhưng hiệu quả nhỏ, đầu tư nhiều mà hiệu quả ít, thậm chí nhiều lúc đầu tư nhưng không có hiệu quả. Nếu quan sát sự phát triển hệ thống giao thông của thành phố Hồ Chí Minh chúng ta sẽ thấy rõ. Nhiều tuyến đường sinh ra để mang sứ mệnh giải cứu tắc đường nhưng bản thân nó lại là nạn nhân - lại ùn tắc nhiều hơn. Nhiều tuyến đường (hay khu vực) chỉ thông suốt cục bộ nhưng xét toàn cảnh thì nạn tắc đường vẫn không giải quyết được một cách triệt để. Vì sao? Câu trả lời trong tình huống này là thiếu sự phát triển giao thông đô thị một cách chiến lược.

Thứ ba, sự không ăn khớp (nếu không muốn nói là tách rời) giữa quy tắc giao thông và vấn đề quy hoạch đất dành cho giao thông.

Chúng ta cần phải hiểu rằng, quy hoạch đất cho giao thông và giao thông đô thị là một quan hệ hữu cơ. Đến một lúc nào đó cần phải đa dạng hóa trong giao thông đô thị: Xe cá nhân (bao gồm xe đạp xe mô tô, xe ô tô...), xe bus công cộng, tàu điện ngầm, tàu điện trên cao... Nhưng nếu không có tầm nhìn chiến lược thì khi cần phải tiến hành các hạng mục công trình cho giao thông (nhất là giao thông công cộng và các bến bãi) thì bài toán hóc búa nhất là... không có quỹ đất.

Lúc đó thì phát sinh thêm vấn đề mới là công tác giải phóng mặt bằng để lấy đất. Nhiều bài học thực tiễn đã cho chúng ta thấy rõ điều này mà việc mở rộng con đường Nguyễn Văn Trỗi (TP.HCM) là một minh chứng hết sức thiết thực[28]. Không võ đoán để nói rằng, việc tiến hành kiến tạo hệ thống tàu điện ngầm trong các thành phố lớn ở nước ta, cái khó nhất vẫn là công tác giải tỏa đền bù”, “di dời, tái định cư”.

Bởi trước đây ta thiếu tư duy quy hoạch đất dành cho giao thông (không gian nổi và không gian ngầm). Nghiên cứu về vấn đề giao thông của nhiều đô thị lớn trên thế giới, chúng tôi thấy rằng, quỹ đất giao thông hiện tại mà họ sử dụng là đã được hoạch định từ 40-50 năm về trước. Nhiệm vụ của ngành quy hoạch đô thị là cần phải có cái nhìn về phát triển đô thị bền vững, có tính kế thừa, tính liên tục.

Thứ tư, khi giải quyết bài toán giao thông đô thị, chúng ta chỉ coi trọng phần cứng mà xem nhẹ phần mềm về giao thông. Ở một khía cạnh nào đó có thể chia giao thông đô thị làm hai phần. Đó là phần cứng (bao gồm toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đô thị; hệ thống vận tải hành khách và hàng hóa đô thị mà có thể gọi chung là “cung giao thông”) và phần mềm (hệ thống quản lý giao thông đô thị).

Nhiều nhà đô thị học và xã hội học đô thị đã nghiên cứu và chỉ ra rằng, “phần cứng giao thông” là hữu hạn nhưng “phần mền giao thông” là vô hạn. Nói khác đi, một khi “phần cứng” đã đáp ứng về cơ bản về giao thông thì “phần mềm” là điều kiện tiên quyết và lâu dài cho sự vận hành thông suốt giao thông đô thị. Đại khái là, trong điều kiện sự “cung giao thông” không thể cung cấp đủ nhu cầu về giao thông, thì giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông cần phải áp dụng những biện pháp kỹ thuật tiên tiến và những biện pháp quản lý khoa học. Tức là phải chú trọng đến phần mềm giao thông, đặc biệt là vấn đề chấp pháp giao thông.

Thực ra chúng ta đã và đang áp dụng nhiều biện pháp về phần mềm giao thông nhưng quả thật nhiều lúc đánh trống bỏ dùi, “đầu voi đuôi chuột”, thiếu kiên quyết. Nếu như ở Nhật, một người có nồng độ cồn vượt mức cho phép mà điều kiển xe có động cơ thì hoặc là bị phạt 500.000 yên Nhật hoặc là bị cải tạo giam giữ đến 3 năm thậm chí người ngồi trên xe ấy cũng bị xử phạt không nhẹ.

Còn ở một số thành phố lớn Trung Quốc cũng vừa áp dụng biện pháp này, có thể cải tạo giam giữ đến 6 tháng, thì trong các đô thị nước ta việc chấp pháp cũng như quản lý giao thông còn bỏ ngỏ. Hiện tượng vi phạm luật giao thông còn phổ biến: Điều khiển xe cơ giới trong tình trạng nồng độ cồn trong máu cao, sử dụng bằng cấp giả để điều kiển xe, phóng nhanh vượt ẩu, không thắt dây an toàn theo quy định,... vẫn chưa được xử lý nghiêm.

Từ giác độ vĩ mô mà nói, có sự mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng nhanh chóng về nhu cầu giao thông và mức độ cung ứng giao thông là nguyên nhân nội tại dẫn đến sự tắc nghẽn giao thông. Từ giác độ vi mô, sự yếu kém về trình độ quản lý giao thông, không định hướng được một cách hợp lý, hữu hiệu, kịp thời là nguyên nhân nội tại, không chú trọng đến phần mềm giao thông...

Tăng cường cung cấp giao thông là biện pháp trọng yếu để giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông đô thị. Nhưng trên thực tế, sự cung cấp giao thông gần như không bao giờ đuổi kịp sự tăng trưởng về nhu cầu giao thông. Trong đó có thể kể đến một nguyên nhân quan trọng là chưa (hoặc không) khống chế có hiệu quả về nhu cầu giao thông tăng lên nhanh chóng.

Do vậy, muốn giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông, cần phải phối kết hợp nhịp nhàng giữa việc tăng cường cung cấp giao thông và bài toán quản lý nhu cầu giao thông, công tác chấp pháp giao thông, giáo dục an toàn giao thông, định hướng nhu cầu giao thông. Bởi bốc 1 thang thuốc để chữa một căn bệnh, trước mắt và tiên quyết là phải xác định đúng bệnh, sau đó mới bốc thuốc và xin lưu ý, bất cứ một thang thuốc nào cũng phải gồm nhiều “vị” khác nhau, có thế nó mới có tác dụng tương hỗ.

2.4.4. Chính sách quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy

Đối với công tác phòng cháy chữa cháy nói chung, phòng cháy chữa cháy trong khu vực đô thị nói riêng, chúng ta đã có một lực lượng chuyên nghiệp, chính quy, với các trang thiết bị tương đối đầy đủ và hiện đại; ngoài ra, các quy định và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác phòng cháy chữa cháy cũng khá hoàn thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được trong công tác phòng cháy chữa cháy khu vực đô thị (kể cả vấn đề nhận thức của người dân, doanh nghiệp về vấn đề phòng cháy, chữa cháy cũng có những chuyển biến tích cực), còn nhiều điểm bất cập cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc.

Theo thống kê, chỉ trong tháng 4 năm 2021, toàn quốc xảy ra 502 vụ cháy và vụ sự cố (trong đó 161 vụ cháy theo quy định thống kê và 341 vụ sự cố chạm chập thiết bị điện trên cột điện, trong nhà dân, cháy cỏ, rác và 05 vụ cháy rừng) làm chết 13 người, bị thương 09 người; thiệt hại tài sản ước tính 76,64 tỷ đồng và 16,02 ha rừng). Đáng chú ý, số vụ cháy chủ yếu xảy ra ở khu vực thành thị, chiếm tới chiếm 58,96% tổng số vụ. Trong đó, nổi lên tình hình cháy trong khu dân cư, nhà ở kết hợp kinh doanh gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tập trung tại các đô thị lớn (trong đó xảy ra 03 vụ cháy nhà dân tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh làm chết 13 người). Tình hình cháy tại các cơ sở sản xuất, kho tàng vẫn diễn biến phức tạp, thiệt hại về tài sản do cháy gây ra tập trung chủ yếu tại các loại hình cơ sở này. Về nguyên nhân các vụ cháy, sự cố: Do sự cố hệ thống, thiết bị điện 162 vụ (chiếm 32,27%, gồm 41 vụ cháy và 121 vụ sự cố); do sơ xuất bất cẩn sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt 45 vụ (chiếm 20,52%, gồm 08 vụ cháy và 37 vụ sự cố); do sự cố kỹ thuật 03 vụ (chiếm 0,6%); do tai nạn giao thông 01 vụ (chiếm 0,2%); do tác động của hiện tượng thiên nhiên 01 vụ (chiếm 0,2%); do vi phạm quy định an toàn phòng cháy chữa cháy 01 vụ (chiếm 0,2%) và do đốt cỏ, rác 58 vụ (chiếm 11,55%)[29].

Tuy nhiên, bên cạnh những nguyên nhân nêu trên, không thể không đề cập đến vấn đề ở tầm vĩ mô, đó là công tác quy hoạch (đường sá đủ tiêu chuẩn, đúng quy chuẩn phục vụ công tác phòng cháy chữa cháy); vấn đề xây dựng và tận dụng các sông hồ, ao để dự trữ nước chữa cháy, phải đảm bảo có đủ lượng nước dự trữ tại mọi thời điểm và có đường cho xe chữa cháy tới lấy nước; vấn đề thiết kế các công trình công cộng và dân sinh đảm bảo các quy chuẩn phòng cháy, chữa cháy; vấn đề truyền thông về công tác phòng cháy, chữa cháy; công tác kiểm tra, giám sát hoạt động phòng cháy, chữa cháy,...

Do đó, từ góc độ quản lý đô thị mà nói, cần phải bổ sung chương trình, rà soát lại hệ thống giao thông trong đô thị đảm bảo các xe cứu hỏa đến được từng gia đình, từng tầng cao nhất của công trình; rà soát toàn bộ hệ thống cấp nước phục vụ phòng cháy, chữa cháy. Song song với đó là công tác giáo dục ý thức của cộng đồng dân cư trong việc phòng cháy, chữa cháy, từng bước xây dựng các đô thị thông minh, hiện đại, an toàn.

2.5. Một số biện pháp tăng cường quản lý trật tự đô thị

Quản lý trật tự đô thị là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, liên tục; vừa có tính cấp bách, trước mắt, vừa có tính lâu dài, chiến lược đối với bất cứ đô thị nào mà mục tiêu của nó là đảm bảo trật tự trị an đô thị, tạo môi trường lành mạnh, hài hòa, an toàn cho tất cả cư dân sinh sống trong đô thị. Đó là phương châm cơ bản để ổn định chính trị đô thị. Muốn vậy, toàn hệ thống chính trị phải vào cuộc, trong đó lực lượng công an (cả lực lượng cảnh sát, an ninh) đóng vai trò then chốt; nhân dân trong đô thị đóng vai trò trung tâm (tham gia, thụ hưởng). Bằng các công cụ, biện pháp cụ thể như chính trị, kinh tế, hành chính, phát luật, văn hóa, giáo dục với sức mạnh tổng hợp để phòng, chống, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự đô thị, ổn định đời sống cho nhân dân, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, xây dựng hình tượng một đô thị, an toàn[30]. Muốn vậy, cần thực hiện một số giải pháp sau: (1) tăng cường công tác nắm bắt tình hình, nhất là tình hình cơ sở. Làm tốt công tác hòa giải, giải quyết tốt các tranh chấp khi còn ở trạng thái manh nha, xử lý thỏa đáng những mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư; (2) thực hiện các phương án dự phòng, hướng đến các địa bàn phức tạp, tập trung dân số cao (khu vực có yếu tố nước ngoài), quản lý tốt những phần tử, nhóm tội phạm có tiền án, tiền sự; (3) tăng cường công tác quản lý nhân hộ khẩu (nhất là đối tượng di trú, lưu trú; khu vực có đông người thuê trọ; khu vực có đông người nước ngoài lưu trú); (4) tăng cường công tác giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm; thực hiện các biện pháp giáo dục đối với nhóm thanh thiếu niên tội phạm; (5) phát huy vai trò của cảnh sát khu vực, lực lượng dân phòng và tổ trưởng tổ khu phố, hình thành một “liên minh”, “chỉnh thể” và mạng lưới để đấu tranh với các loại tội phạm.

3. Quản lý cộng đồng đô thị

Đối với một thành phố có quy mô dân số lớn thì cộng đồng là một “đơn vị” quản lý của chính quyền đô thị. Ở nước ta, tổ dân phố (khối phố) là một cộng đồng tự quản mà “đứng đầu” là bí thư chi bộ khối phố, cùng với đó là ban mặt trận, các hội đoàn thể và ban điều hành khu phố. Tuy nhiên, để hiểu khái niệm “cộng đồng” một cách chính xác, khoa học thì cần phải tiến hành lý giải một cách cụ thể hơn.

3.1. Khái quát về cộng đồng đô thị

3.1.1. Khái niệm và yếu tố cấu thành cộng đồng

Cộng đồng (community) là một trong những khái niệm cơ bản trong nghiên cứu xã hội học[31] và có nhiều hàm nghĩa khác nhau[32], chỉ một nhóm xã hội gồm các cá nhân sống chung trong cùng một môi trường xã hội nhất định và có cùng các mối quan tâm chung. Trong cộng đồng, con người có niềm tin, các mối ưu tiên, nhu cầu, nguy cơ và một số điều kiện khác có thể có và cùng ảnh hưởng đến đặc trưng và sự thống nhất của các thành viên trong cộng đồng. Theo Fichter cộng đồng bao gồm 4 yếu tố sau:  (1) tương quan cá nhân mật thiết với nhau, mặt đối mặt, thẳng thắn chân tình, trên cơ sở các nhóm nhỏ kiểm soát các mối quan hệ cá nhân; (2) có sự liên hệ chặt chẽ với nhau về tình cảm, cảm xúc khi cá nhân thực hiện được các công việc hoặc nhiệm vụ cụ thể; (3) có sự hiến dâng về mặt tinh thần hoặc dấn thân thực hiện các giá trị xã hội được cả xã hội ngưỡng mộ; (4) có ý thức đoàn kết với những người trong tập thể[33].

Như vậy, cộng đồng được hình thành trên cơ sở các mối liên hệ giữa cá nhân và tập thể dựa trên “sợi dây tình cảm” là chủ yếu (đương nhiên còn có các mối liên hệ khác). Sự liên kết giữa các cá nhân trong cộng đồng không phải bao giờ cũng chi phối bởi các quy tắc thành văn, mà do những mối liên hệ được “chạm khảm” vào trong các nét văn hóa-lịch sử.

Xét về yếu tố cấu thành thì cộng đồng gồm một số thành tố chủ yếu: (1) cộng đồng được tổ thành bởi các cá nhân có cùng chung nét văn hóa. Trong quá trình lao động và những yêu cầu tự thân, những người có cùng chung đặc điểm văn hóa thường hình thành một “thực thể văn hóa” và cư ngụ trong một không gian nhất định; (2) sự tồn tại của cộng đồng được xác định bởi một nhóm người nhất định trong đó có số lượng, tố chất, kết cấu và phân bố một cách xác định; (3) cộng đồng hình thành và tồn tại có tính tương đối ổn định, sinh sống ở một khu vực/địa vực nhất định, cùng chung những lợi ích nhất định; (4) có sự đồng cảm và cảm giác quy thuộc; (5) nội dung hạt nhân của cộng đồng là quan hệ tương tác trong các hoạt động xã hội và do đó hình thành nên tính đa dạng trong sự thống nhất.

 3.1.2. Nội hàm, đặc trưng, phân loại cộng đồng

Có lúc chúng ta gọi “cộng đồng nông thôn” hay “cộng đồng đô thị” để phân biệt những người sống ở nông thôn (hộ khẩu nông thôn) và những người sống ở đô thị (hộ khẩu đô thị); cũng có lúc chúng ta gọi một nhóm người của một khu phố (được giới hạn bởi một hoặc vài cụm dân cư sống xung quanh một số tuyến đường) là một cộng đồng. Tuy nhiên, với cách gọi nào thì phải đảm bảo tính chất của một cộng đồng đã được đề cập ở trên và có một số đặc điểm sau: (1) cộng đồng đô thị gồm những người cùng sinh sống trong một phạm vi hẹp được xác định bởi một địa giới hành chính nhất định; (2) mặc dù hoạt động sống khác nhau nhưng những người trong cộng đồng phải có “tình cảm cộng đồng”; (3) văn hóa, lối sống có thể không giống nhau nhưng khi nảy sinh một số vấn đề gì thì cùng nhau chia sẻ, gánh vác; cùng sinh hoạt văn hóa và thỏa mãn một số nhu cầu về vật chất, tinh thần.

Như vậy, cộng đồng đô thị là đa dạng về hình thức, phong phú về cách thức hoạt động, số lượng trong một đô thị khá lớn nhưng tựu trung gồm các dạng như sau: (1) cộng đồng pháp định, chủ yếu tồn tại theo khu vực hành chính và là “cánh tay nối dài” của chính quyền cơ sở, được hình thành qua quyết định và căn cứ pháp luật. Do đó, có tổ chức chặt chẽ, mục đích rõ ràng, chức năng được xác định. Ví dụ: khu phố, khối phố,...; (2) cộng đồng tự phát, chủ yếu hình thành và tồn tại do nhu cầu tự nhiên, tự thân; (3) cộng đồng chức năng, xuất phát từ hoạt động chuyên môn như nghiên cứu, khám chữa bệnh, an ninh,...mà hình thành nên những cộng đồng có tính liên kết cao. Ví dụ: một trường đại học, bệnh viện, doanh trại, nhà hát kịch,...

Cách phân loại cộng đồng trên không phải là nhất thành bất biến và độc lập với nhau mà trên thực tế giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay thì việc giới định cộng đồng cũng mang tính tương đối. Do đó, quản lý cộng đồng đô thị cũng cần có cái nhìn mới mẽ, không cứng nhắc.

3.2. Hàm nghĩa, chủ thể, nội dung quản lý cộng đồng đô thị

3.2.1. Hàm nghĩa quản lý cộng đồng đô thị

Cộng đồng đô thị là một thực thể xã hội mang tính chỉnh thể, phức hợp, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và với các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, con người, sinh thái, do đó quản lý cộng đồng đô thị là hoạt động quản lý có tính hệ thống, tính tổng hợp mà mục tiêu là hướng đến hiệu quả, hiệu suất; tăng cường khối đoàn kết cộng đồng; phát huy sức mạnh tổng hợp, phát triển đô thị bền vững.

3.2.2. Chủ thể quản lý cộng đồng đô thị

Quản lý cộng đồng đô thị cần phát huy các nhân tố, các bộ phận tổ thành, các nhóm xã hội; kêu gọi sự tham gia của công chúng và các chủ thể xã hội vào hoạt động quản lý như các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức chính trị-hành chính, các cơ quan, xí nghiệp và mỗi người dân trong đô thị.

Ở cấp độ cơ sở mà nói, quản lý cộng đồng đô thị bắt đầu từ các tổ chức ở khu phố, khối phố và từng người dân; Ở cấp độ cao hơn, là sự tham gia và vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị cơ sở từ phường/xã đến quận/huyện và chính quyền thành phố. Nói cách khác, quản lý đô thị nói chung, quản lý cộng đồng đô thị nói riêng cần phải đa dạng hóa chủ thể, cộng đồng hóa trách nhiệm và thể chế hóa các vai trò cho từng nhóm chủ thể để họ phát huy khả năng, năng lực của mình.

3.2.3. Nội dung quản lý cộng đồng đô thị

Nội dung quản lý cộng đồng đô thị rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: (1) quản lý nhân hộ khẩu, trong đó có trách nhiệm của các ban điều hành khu phố, cảnh sát khu vực và UBND phường; (2) quản lý vấn đề vệ sinh môi trường đô thị, đặc biệt cần phải chú trọng vệ sinh trong các khu dân cư, các cung đường, khu phố. Kinh nghiệm thực tiễn ở nước ta cho thấy, với sự tích cực của các tổ dân phố cùng với sự tham gia của người dân thì các vấn đề rác thải, ô nhiễm môi trường ngay tại các khu dân cư được giải quyết triệt để; (3) công tác hòa giải, giải quyết các mâu thuẫn ngay tại cơ sở; (4) xây dựng tinh thần văn hóa, văn minh đô thị. Nếu như trước kia tinh thần sinh hoạt động cộng sôi nổi, phong phú bao nhiêu thì hiện nay không khí sinh hoạt (kể cả họp khu phố) đã có biểu hiện rời rạc, thiếu bầu không khí tham gia. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong phát triển cộng đồng, phát huy tính cố kết cộng đồng trong xu thế hội nhập như hiện nay.

3.3. Một số vấn đề tồn tại trong quản lý cộng đồng đô thị

Quản lý cộng đồng đô thị là một trong những nhiệm vụ, nội dung quan trọng của quản lý đô thị. Với tính chất phức tạp và nội dung hết sức phong phú, đa dạng, liên quan đến toàn bộ đời sống cộng đồng cư dân. Với cách tổ chức hệ thống chính trị của Việt Nam như hiện nay, thoạt nhìn chúng ta thấy rất chặt chẽ (nếu tính đến “bộ máy” là “cánh tay nối dài” của cơ sở là khu phố) nhưng trên thực tế, nhiều lúc, nhiều nơi còn chồng chéo, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa xã/phường với tổ dân phố/khối phố. Ở đây, chúng ta chỉ nhìn nhận một số tồn tại ở cấp cơ sở và khu phố. Đó là: (1) tính phối hợp giữa cơ quan chức năng cơ sở với cơ cấu tổ chức khối phố còn lỏng lẻo. Biểu hiện là, đôi khi “giao phó” cho ban điều hành khu phố theo kiểu “trăm dâu đổ đầu tằm”. Ngược lại, với trình độ, năng lực và sự nhiệt huyết khác nhau nên chất lượng, hiệu quả hoạt động của ban điều hành khu phố cũng không giống nhau. Nhiều khu phố người dân không thấy tổ dân phố hoạt động; (2) vấn đề ô nhiễm môi trường ở các khu phố còn rất nghiêm trọng. Trong đó, ô nhiễm nước (nước thải, nước sinh hoạt người dân đổ ra đường,…) đang là vấn đề lớn. Nhiều thành phố hiện nay chưa có hệ thống xử lý nước thải (từ nhà máy sản xuất và từ sinh hoạt) trước khi đổ ra môi trường. Ô nhiễm không khí cũng đáng lo ngại, trong đó ô nhiễm từ khí thải của các phương tiện giao thông đang là vấn đề nhức nhối. Ô nhiễm tiếng ồn trong các khu dân cư hiện vẫn chưa được kiểm soát. Trong đó, tiếng ồn từ động cơ, tiếng ồn từ hoạt động sản xuất và tiếng ồn do “loa kẹo kéo” từ hoạt động “giải trí” của người dân[34]; (3) sự không tương thích giữa phần “cứng” và phần “mềm” trong quy hoạch đô thị dẫn đến quá tải đô thị cục bộ ở một số đô thị từ giao thông đến nhà ở và các thiết chế công cộng, vui chơi giải trí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến chất lượng sống của cư dân không cao, đời sống văn hóa tinh thần không được thỏa mãn.

4. Quản lý văn hóa đô thị

Đối với một quốc gia, một dân tộc cũng như một đô thị thì văn hóa không chỉ là một hiện tượng mang tính xã hội mà là một lực lượng sản xuất. Một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa thể hiện cốt cách của một cộng đồng người, vừa là nhân tố vô cùng quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội[35].

4.1. Khái quát về văn hóa đô thị

Đô thị, với tư cách là một kiểu tổ chức không gian vật chất và không gian xã hội, những cá nhân hay cộng đồng trong đó có mối liên hệ, lối sống, văn hóa theo một hình thức nhất định. Theo đó hình thành nên một kết cấu xã hội mang tính đặc thù trong một không gian đặc thù. Nói cách khác, đô thị là sản phẩm văn minh nhân loại và cũng là một trung tâm văn hóa của vùng, quốc gia, thậm chí toàn cầu.

Nói đến văn minh thường đề cập đến văn minh vật chất và văn minh tinh thần; văn minh tinh thần gồm có các sản phẩm phục vụ cho đời sống tinh thần và các hoạt động tương ứng. Cùng với sự phát triển xã hội, sau khi con người thỏa mãn các nhu cầu của đời sống vật chất thì nhu cầu tinh thần cũng theo đó mà yêu cầu cao hơn. Ví dụ các sản phẩm tri thức, sản phẩm văn học nghệ thuật, giải trí,…Đồng thời cũng đòi hỏi các nhu cầu cao hơn về phục vụ văn hóa như thể thao, điện ảnh, truyền thông. Nói tóm tại, văn hóa là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của cư dân đô thị. Vậy, văn hóa là gì, nội hàm của nó như thế nào, vai trò và chức năng đối với một đô thị ra sao? Đó là những vấn đề cần được làm rõ.

4.1.1. Hàm nghĩa văn hóa

Hiện có nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, để dễ tiếp cận người ta phân chia thành hai tầng nghĩa. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Trung Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn…),… Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[36]. Tổng giám đốc UNESCO, Federico Mayor, cho rằng: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động…”[37].

Từ những cách tiếp cận trên có thể hiểu, văn hóa là sự sáng tạo của con người thông qua hoạt động thực tiễn gồm hệ thống các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động, vật thể và phi vật thể…) thể hiện cụ thể bởi các nội dung sau:

Thứ nhất, văn hóa chứa đựng một hệ thống giá trị, chuẩn mực, ý nghĩa, biểu tượng. Con người tương tác với nhau thông qua hệ thống các biểu tượng, các biểu tượng này thể hiện ở phương thức hành vi và các thực thể vật chất. Các hành vi của con người được cho là đúng, là tốt, là nên, là phải, bởi nó quy chiếu đến hệ thống giá trị, chuẩn mực đã được mọi người trong xã hội chấp nhận. Ngược lại sẽ cho là “thiếu văn hóa”, “vô văn hóa” hay lệch lạc xã hội.

Thứ hai, văn hóa là sự sáng tạo của con người và biểu hiện qua các hoạt động sống, phương thức sống của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn và cùng với đó là sự tương tác giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với cộng đồng mà hình thành nên văn hóa. Nói cách khác, đối với một con người cụ thể, trong một không gian cụ thể, một thời điểm cụ thể thì văn hóa được thể hiện chủ yếu trong khuôn khổ hoạt động của anh ta, thể hiện qua phương thức sống gắn với hoạt động sống cụ thể.

Thứ ba, trong những không gian khác nhau, thời điểm khác nhau, cộng đồng xã hội khác nhau xuất hiện những nét khác biệt về văn hóa, thậm chí hình thành nên các nền văn hóa khác nhau[38].

4.1.2. Nội hàm văn hóa đô thị

Từ hàm nghĩa văn hóa đã phân tích ở trên chúng ta xác định nội hàm của văn hóa đô thị thể hiện trên một số bình diện sau:

Thứ nhất, văn hóa đô thị là sự kết hợp, hòa nguyện giữa truyền thống văn hóa dân tộc với lịch sử của đô thị và tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đô thị. Đô thị gắn với sự phát sinh, tồn tại, phát triển trong một chiều dài lịch sử nhất định và những trầm tích được lắng đọng lại cùng với dòng chảy của quốc gia, dân tộc. Toàn bộ những hoạt động từ công tác quy hoạch, phân bố dân cư, môi trường sinh thái, kết cấu hạ tầng, kiến trúc nghệ thuật, lối sống dân cư,…hợp thành phân hệ cấu trúc của văn hóa đô thị. Hơn nữa, những thành tố trên của văn hóa không phải nhất thành bất biến mà luôn giao thoa, biến chuyển cùng với quá trình lịch sử của đô thị.

Thứ hai, văn hóa đô thị phản ánh kết quả của các sản phẩm văn hóa và quá trình xây dựng văn hóa gắn với cơ sở vật chất văn hóa. Các sản phẩm văn hóa của đô thị như thư viện, bảo tàng, công viên, khu thể thao, nhà hát, các cơ sở giáo dục-khoa học gắn với các hoạt động của nó như hoạt động văn học nghệ thuật, hoạt động thông tin truyền thông, hoạt động vui chơi giải trí, hoạt động sinh hoạt đoàn thể, cộng đồng. Thước đo của nó thể hiện ở số lượng, chất lượng, giá trị, phong cách và sự tham gia của các chủ thể và người dân (cư dân đô thị, khách tham quan, du lịch,…).

Thứ ba, văn hóa đô thị phản ánh trình độ tổ chức, quản lý và kết cấu xã hội đô thị. Cơ cấu quyền lực trong đời sống chính trị đô thị, mức độ tự giác, tự chủ của các chủ thể, sự phân công xã hội và vai trò của các tổ chức tại đô thị,… đều là hình thức thể hiện của văn hóa đô thị.

Thứ tư, văn hóa đô thị thể hiện kết cấu nhân khẩu và tố chất-trình độ văn hóa của cư dân đô thị. Cơ cấu ngành nghề, tôn giáo, tín ngưỡng, lứa tuổi, trình độ học vấn, ý thức thị dân,…là tiêu chí quan trọng và bộ phận tổ thành trọng yếu của văn hóa đô thị.

Thứ năm, cốt cách sâu xa của văn hóa đô thị thể hiện lối sống, chất lượng sống của cư dân đô thị. Mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng, xã hội; các đặc điểm hành vi, quan niệm giá trị; hình thức và mô thức giải trí cũng như sử dụng thời gian rỗi; cách ứng xử với môi trường cũng như các vấn đề xã hội,… thể hiện chiều sâu của văn hóa đô thị. Đó cũng là một phần lối sống đặc trưng của cư dân trong một đô thị nhất định.

4.1.3. Vai trò, chức năng của văn hóa đô thị

Văn hóa đô thị là một thành tố hết sức cơ bản của một đô thị, là cái “tinh”, cái “linh” và cái “hồn” của đô thị gắn với chủ thể của nó. Do đó, trong chiến lược phát triển thành phố, văn hóa đóng một vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng. Đối với một thành phố cụ thể, văn hóa đô thị nâng cao vị thế, sức cạnh tranh về kinh tế-xã hội; tăng cường sự cố kết cộng đồng; hình thành tính nhân văn, “dĩ nhân vi bản”. Chính vì thế, hầu như tất cả các đô thị trên thế giới đều coi trọng vấn đề củng cố, bảo tồn và phát triển văn hóa đô thị.

Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa chiều[39], ở đây chỉ bàn đến một số chức năng cơ bản gắn với chiến lược phát triển và bài toán quản lý đô thị. Đó là: (1) chức năng giáo dục-giáo hóa con người. Thông qua công tác bồi dưỡng nghề nghiệp, bồi dưỡng nâng cao tố chất thị dân, giáo dục tư tưởng,... từng bước làm thay đổi quan niệm giá trị và phương thức hành vi của con người. Cư dân đô thị, qua dòng chảy lịch sử, hình thành và hun đúc các giá trị văn hóa của đô thị. Ngược lại, văn hóa đô thị giáo hóa con người bằng những khuôn mẫu, chuẩn mực, giá trị, từ đó thúc đẩy đô thị phát triển; (2) chức năng cố kết cộng đồng. Thông qua các hoạt động của con người, quan niệm giá trị được nội tâm hóa và hình thành nên giá trị cộng đồng, tình cảm cộng đồng, tính quy thuộc (còn gọi là cảm giác thuộc về - sense of belonging). Con người có xu hướng xích lại gần nhau hơn khi cùng chung hệ giá trị, quan niệm sống, quan niệm giá trị; (3) chức năng khích lệ, động viên. Văn hóa là chất xúc tác giúp con người phát huy tính tích cực, hành vi tập thể. Ví dụ: khi một thành phố đưa ra chương trình, đề án phát triển một “thành phố văn hóa, văn minh”, lúc đó “nhãn văn hóa” sẽ chi phối hành động tích cực của cư dân, các hành vi tập thể sẽ được phát huy tối đa; (4) chức năng chế ước các hành vi lệch lạc và điều hòa các mối quan hệ xã hội. Văn hóa đô thị gắn với một hệ giá trị, quy chuẩn, chuẩn tắc; con người biết và hiểu cái nào có thể hành động, là tốt, là nên và ngược lại. Từ đó, điều chỉnh hành vi con người theo hướng tích cực, hướng đến “chân, thiện, mỹ”, hình thành các tiêu chuẩn đạo đức[40], điều chỉnh các hành vi lệch lạc; (5) chức năng tạo hình tượng, biểu tượng. Thành phố gồm không gian vật chất và không gian xã hội. Không gian xã hội gồm con người, các hoạt động, lối sống và văn hóa. Có thể nói, văn hóa là “diện mạo tinh thần” của một thành phố. Hình tượng của một thành phố không chỉ các kiến trúc mà song song với đó là biểu tượng văn hóa gắn với chủ thể của nó[41].

Tóm lại, văn hóa đô thị là tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ phát triển của một thành phố; là nhân tố tăng cường sức ảnh hưởng, sức hấp dẫn, lực hút đối với du khách, nhà đầu tư; là nhân tố thúc đẩy sức sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội; là chất keo kết dính các cá nhân, cộng đồng, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, thách thức lớn nhất đối với văn hóa đô thị là mai một giá trị cốt lõi, truyền thống; thành phố có “cốt” mà không có “hồn” bởi những khối bê tông khổng lồ,...

4.2. Bảo tồn, xây dựng, phát triển và quản lý văn hóa đô thị

Định hướng phát triển và bài toán quản lý văn hóa đô thị là trách nhiệm của chính quyền đô thị và cư dân toàn thành phố. Do đó, các nhà quản lý đô thị cần phải có chiến lược phát triển văn hóa đô thị một cách bài bản, khoa học. Văn hóa là hiện trưng của một đô thị, khẳng định giá trị và đẳng cấp của thành phố. Thế nhưng, trên thực tế, không ít nhà quản lý đô thị chỉ chú trọng đến chiến lược phát triển kinh tế-xã hội mà “bỏ quên” yếu tố văn hóa-xã hội. Việc nắm bắt cơ cấu văn hóa để xác định mô thức, mục tiêu, phương hướng bảo tồn, phát triển văn hóa là điều rất quan trọng. Một thành phố có bản sắc cần phải biết kết hợp giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa không gian vật chất và không gian xã hội, giữa kiến trúc và con người. Muốn vậy, cần phải có chiến lược phát triển văn hóa đô thị.

Trong điều kiện hiện nay mà đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng thì công tác quản lý văn hóa cần phải có tính “thích ứng”. Nếu như trước kia, các khái niệm “thị trường văn hóa” , “công nghiệp văn hóa” còn khá xa lạ thì hiện nay trở thành “khái niệm thời thượng”. Điều đó cũng có nghĩa, nhà quản lý đô thị nói chung, quản lý văn hóa đô thị nói riêng cần phải có tư duy mới, tư duy khoa học, thức thời khi tiếp cận văn hóa để quản lý văn hóa tốt hơn.

Đối với các đô thị Việt Nam, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài để củng cố, xây dựng, phát triển văn hóa là rất đa dạng, tuy nhiên chủ yếu tập trung ở các nội dung: (1) nâng cao tố chất thị dân; (2) xây dựng cơ sở vật chất văn hóa như công viên, công trình kiến trúc, thư viện; (3) xây dựng và phát huy các yếu tố văn hóa cộng đồng; (4) hình thành hệ giá trị, chuẩn mực hành vi và làm tốt công tác truyền thông để các giá trị này thẩm thấu vào từng cá nhân, cộng đồng.

5. Quản lý bảo đảm xã hội đô thị

Bảo đảm xã hội là một “tấm lưới an toàn” của xã hội, là kênh phân phối và “kênh điều tiết” nguồn lực kinh tế đảm bảo tính công bằng, là “van an toàn” để giảm thiểu các mâu thuẫn xã hội, là “bộ giảm sốc” khổng lồ của bộ máy xã hội để tránh sự đứt gãy xã hội. Yêu cầu của phát triển bền vững là phải đảm bảo mục tiêu kinh tế nhưng bắt buộc phải tính đến mục tiêu về môi trường, mục tiêu xã hội. Theo đó, giảm thiểu xung đột xã hội, phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội là yêu cầu đặt ra trong quản lý xã hội.

Do tính chất đặc thù nên thành phố là nơi “hội tụ” nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, theo đó mức độ tăng trưởng kinh tế nhanh; mức độ tập trung dân số cao; các vấn đề xã hội đa dạng và phức tạp,...do đó, bài toán an sinh xã hội, bảo đảm xã hội cần phải được tính đến.

5.1. Khái quát về bảo đảm xã hội

Hiện tại, đa số các quốc gia, đô thị trên thế giới đều coi trọng chính sách bảo đảm xã hội[42], thậm chí xem đây là nền tảng quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của mình, là bộ phận tổ thành trọng yếu của hệ thống chính sách công nói chung, chính sách xã hội nói riêng.

Bản thân chính sách bảo đảm xã hội cũng gồm nhiều chính sách cụ thể nhằm cung cấp và đảm bảo đời sống tối thiểu, cơ bản nhất cho các thành viên trong xã hội. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia mà phạm vi và đối tượng thụ hưởng chính sách bảo đảm xã hội cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với một số quốc gia, chủ yếu nhắm đến đối tượng nghèo đói bằng trợ giúp sinh kế và tài chính; bảo hiểm cho người cao tuổi không có nguồn thu nhập; bảo hiểm y tế hay cứu trợ xã hội.

Từ ý nghĩa đó mà nói, bảo đảm xã hội chính là kế hoạch “duy trì thu nhập” cho các nhóm đối tượng. Cụ thể, thông qua chính sách công, chính phủ có kế hoạch nhằm đảm bảo đời sống cơ bản cho đối tượng không có nguồn thu nhập mà bản thân họ và gia đình họ không thể đảm bảo được, giúp họ vươn lên và hòa nhập vào xã hội. Đối với các quốc gia phát triển, bảo đảm xã hội còn hướng đến cung cấp điều kiện chăm sóc sức khỏe, nhà ở hoặc các nhu cầu cơ bản khác[43].

Để hiểu rõ được nội hàm của bảo đảm xã hội, cần nắm một số đặc điểm sau: (1) chủ thể chủ yếu của bảo đảm xã hội chính là nhà nước và xã hôi; (2) đối tượng hưởng lợi của chính sách bảo đảm xã hội là những công dân gặp khó khăn trong đời sống; (3) căn cứ để thực hiện chính sách xã hội là các quy phạm pháp luật và tình hình thực tế địa phương, đô thị; (4) phương thức thực hiện bảo đảm xã hội là thông qua thu nhập để tái phân phối và tái thu nhập hướng đến trợ giúp các điều kiện vật chất; (5) mục tiêu của chính sách bảo đảm xã hội là nâng cao chất lượng đời sống cho nhóm yếu thế, tạo sự công bằng xã hội, đảm bảo các điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội.

5.2. Hệ thống bảo đảm xã hội đô thị

Tùy từng cách tiếp cận, điều kiện và hoàn cảnh của mỗi quốc gia, đô thị mà chính sách bảo đảm xã hội có mức độ, tính chất, quy mô “phủ sóng” khác nhau. Tuy nhiên, trên bình diện chung, hệ thống bảo đảm xã hội đô thị chủ yếu gồm các bộ phận tổ thành trọng yếu là cứu trợ xã hội, bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội và ưu đãi xã hội.

Về cứu trợ xã hội đô thị, đối tượng thụ hưởng cứu trợ xã hội chủ yếu thuộc tầng lớp yếu thế, người mất khả năng lao động, do thiên tai dịch bệnh, do đó khó đảm bảo cuộc sống ở mức tối thiểu. Chính quyền đô thị sẽ chiếu theo các quy định của nhà nước, các tiêu chuẩn của địa phương và điều kiện thực tế của mỗi cá nhân, nhóm xã hội để cung cấp, hỗ trợ, viện trợ điều kiện vật chất để họ có thể sống, vươn lên. Cứu trợ xã hội là cơ chế mang tính cứu tế, thể hiện tính trách nhiệm, nghĩa vụ của chính quyền đối với nhân dân, đối với nhóm yếu thế[44] hay rơi vào tình huống bất khả kháng. Do đó, vừa mang tính nhân văn, vừa đảm bảo tinh thần “không để ai bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển của đô thị. Cần phải nói thêm rằng, do tính chất đặc thù của đô thị nên có thể cùng một hoàn cảnh, một vấn đề xã hội nảy sinh nhưng mức độ, tính chất tác động đối với nhóm cư dân nghèo đô thị sẽ khác với nhóm nông thôn. Nói cách khác, “tính dễ tổn thương”[45] ở khu vực đô thị cần được nhà quản lý nhận thức và đủ độ “nhạy cảm” để giải quyết vấn đề.

Về bảo hiểm xã hội đô thị, bảo hiểm xã hội là nội dung quan trọng trong chính sách an sinh xã hội đô thị. Do tuổi tác, bệnh tật, sinh đẻ, tai nạn lao động, tử vong; mất khả năng lao động vĩnh viễn, thất nghiệp và những tình huống khác, chính quyền đô thị sẽ căn cứ vào luật định mà có những động thái thích hợp nhằm hỗ trợ điều kiện vật chất (thậm chí tinh thần) cho các đối tượng đó. Nguồn lực tài chính có thể do chính người lao động, người sử dụng lao động hay kinh phí nhà nước. Trong đó, người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ đóng các khoản bảo hiểm xã hội cho người lao động. Bảo hiểm xã hội đô thị là cơ quan phòng ngừa rủi ro, giải quyết rủi ro và khắc phục rủi ro, bao gồm các loại bảo hiểm cụ thể như bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm thai sản-sinh con,...

Về phúc lợi xã hội đô thị, phúc lợi xã hội được hiểu ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, đó là quá trình mà chủ thể quản lý (nhà nước, chính quyền đô thị) không ngừng cải thiện các điều kiện, hoàn thiện thể chế, phương thức phục vụ để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn dân. Theo nghĩa hẹp, chỉ quá trình mà chủ thể quản lý hướng đến các nhóm đặc biệt, nhóm yếu thế những điều kiện mang tính phúc lợi để đảm bảo đời sống của họ. Mục tiêu của phúc lợi xã hội chẳng những đảm bảo đời sống tối thiểu cho công dân mà còn từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng sống, trình độ văn hóa cho toàn thể thị dân. Phúc lợi xã hội đô thị gồm nhiều hình thức và hướng đến nhiều nhóm đối tượng. Nếu phân theo nhóm đối tượng thụ hưởng có phúc lợi người cao tuổi, phúc lợi trẻ em, phúc lợi phụ nữ, phúc lợi người tàn tật, phúc lợi người lao động; nếu phân theo từng nội dung cụ thể có phúc lợi nhà ở (hình thức nhà ở xã hội, nhà cho người nghèo, người thu nhập thấp,...), phúc lợi giáo dục, phúc lợi y tế, trợ cấp xã hội, phục vụ cộng đồng,...

Về ưu đãi xã hội đô thị, là sự đãi ngộ của nhà nước, cộng đồng xã hội đối với người có công với cách mạng và thân nhân của họ nhằm ghi nhớ công ơn của họ đối với đất nước. Tùy hoàn cảnh của mỗi quốc gia, đô thị mà chính sách ưu đãi cũng khác nhau về mức độ hỗ trợ, đối tượng thụ hưởng. Quan điểm của Việt Nam là ưu đãi xã hội gắn liền tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công bằng xã hội; đảm bảo đời sống (vật chất, tinh thần) cho đối tượng thụ hưởng bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở địa phương hay khu vực[46]. Chính sách ưu đãi xã hội đô thị có tính tổng hợp và là “điểm hội tụ” của chính sách cứu trợ xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách phúc lợi xã hội.

5.3. Quản lý bảo đảm xã hội đô thị   

5.3.1. Hàm nghĩa quản lý bảo đảm xã hội đô thị

Quản lý bảo đảm xã hội đô thị hàm chỉ cơ quan chức năng của đô thị, chiếu theo các quy định pháp luật, thực hiện hoặc chế định chính sách liên quan hướng đến các nhóm đối tượng khác nhau của thành phố, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân, đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển đô thị bền vững.

5.3.2. Cơ cấu quản lý bảo đảm xã hội đô thị

Cơ quan quản lý bảo đảm xã hội được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là một pháp nhân. Do đó, tùy mỗi quốc gia mà chủ thể quản lý có thể khác nhau. Tại Việt Nam, cơ quan quản lý về bảo đảm xã hội có thể là cơ quan hành chính nhà nước, cũng có thể là cá nhân, tổ chức được nhà nước cho phép theo tinh thần xã hội hóa[47]. Như vậy, tại các đô thị có sở lao động thương binh và xã hội, cơ quan bảo hiểm xã hội, các tổ chức công đoàn, các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể xã hội, tổ chức hoặc nhóm xã hội được cấp phép hoạt động. Tất cả những chủ thể đó tạo nên một sức mạnh tổng hợp, góp phần nâng cao tính hiệu quả, tính trách nhiệm, tính nhân văn của chính sách bảo đảm xã hội.

 


 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Phạm Ngọc Côn, Kinh tế học đô thị, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội,1999.

2.     Võ Kim Cương, Quản lý đô thị - Thời kỳ chuyển đổi, Nxb. Xây dựng. Hà nội, 2004.

3.     Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản, Hà Nội, 2020.

4.     Phạm Đi, Biến đổi trong đời sống xã hội Trung Quốc (sách dịch), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2019

5.     Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, 2016.

6.     Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2018.

7.     Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin truyền thông, Hà Nội, 2020.

8.     Phạm Kim Giao, Quy hoạch vùng, Nxb. Xây dựng. Hà Nội 2000.

9.     Đỗ Hậu, Xã hội học đô thị, Nxb. Xây dựng. Hà Nội, 2001.

10.            Vũ Văn Hiển, Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2020.

11.            Lê Như Hoa, Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb. Văn hóa-Thông tin. Hà Nội, 2000.

12.            Nguyễn Minh Hòa, Đô thị học – Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, 2012.

13.            Nguyễn Minh Hòa, Đô thị học – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn. Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2012.

14.            Nguyễn Minh Hòa, Tiềm năng cho kỳ tích sông Sài Gòn. Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.

15.            Nguyễn Minh Hòa, Vùng đô thị châu Á và thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005.

16.            Trần Hùng, Dân số học đô thị, Nxb. Xây dựng. Hà Nội 2001.

17.            Nguyễn Đình Hương, Đô thị hóa và quản lý kinh tế đô thị ở Hà Nội. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

18.            Jane Jacobs, The Death and Life of Great American Cities (bản dịch tiếng Trung của dịch giả Kim Giới Sơn, Nxb. Phượng Hoàng, Trung Quốc)

19.            Nguyễn Tố  Lăng, Quản lý đô thị ở các nước phát triển. Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 2017.

20.            Trịnh Duy Luân, Giáo trình xã hội học đô thị, Nxb, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009

21.            Trịnh Duy Luân, Tác động kinh tế-xã hội của đổi mới trong lĩnh vực nhà ở đô thị. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,1998.

22.            Vũ Hào Quang, Xã hội học quản lý, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.

23.            Nguyễn Văn Thành, Xây dựng và quản trị thành phố thông minh, bảo đảm các chỉ số an ninh, an sinh, an toàn trong cách mạng công nghiệp 4.0. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020

24.            Quỳnh Trân, Phát triển đô thị bền vững. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.

 

 

 

 



[1] Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 nhận định;: “Quản lý phát triển đô thị còn nhiều bất cập, chất lượng quy hoạch đô thị thấp, thiếu bản sắc, kiến trúc riêng, thực hiện quy hoạch chưa nghiêm; chưa chú trọng tổ chức dịch vụ công, dịch vụ xã hội cơ bản tại một số khu vực đô thị mới phát triển”.  Tham kiến: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/bao-cao-tong-ket-thuc-hien-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-10-nam-2011-2020-xay-dung-chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-10-nam-2021-2030-621156/

[2] Trong những trường hợp cụ thể chúng tôi gọi là “dân số”, “số dân”, “con người”.

[3] Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 7 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ Về việc phân loại đô thị.

[4] Thông tư số 34/2009/TT-BXD ngày 30 tháng 9 năm 2009 của Bộ Xây dựng về Quy định chi tiết một số nội dung của Nghị định 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ về việc Phân loại đô thị

[5] Xem Luật cư trú (2006, 2013, 2020 dự thảo sửa đổi)

[6] Không có hộ khẩu bị xem là công dân hạng hai, Báo Tuổi trẻ. Tham kiến: https://tuoitre.vn/khong-co-ho-khau-bi-xem-la-cong-dan-hang-hai-961077.htm

[7] Một đô thị có quy mô dân số vài triệu có thể rơi vào tình trạng “quá tải đô thị” nhưng có những đô thị dân số lên đến vài chục triệu vẫn phù hợp với kết cấu hạ tầng, không gian xã hội; các nhu cầu cơ bản của người dân vẫn được đáp ứng đầy đủ.

[8] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, 2016, tr.27

[9] Điều 6, Luật Cư trú 2013

[10] Đà Nẵng siết chặt kiểm tra người nước ngoài nhập cảnh, Báo Nhân dân số ra ngày 26 tháng 7 năm 2020. Tham kiến: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-xa-hoi/da-nang-siet-chat-kiem-tra-nguoi-nuoc-ngoai-nhap-canh-610063/

[11] Macau là đặc khu hành chính của Trung Quốc, có diện tích 30,5 km2 và dân số khoảng 650.900 người. Macau nổi tiếng với những sòng bạc và được biết đến với cái tên "Las Vegas của phương Đông". Ngoài ra, nơi đây còn có những địa điểm vui chơi giải trí nổi tiếng, cùng nhiều di tích lịch sử thu hút khách du lịch. Hơn 16 triệu du khách đã đến Macau trong năm 2014, có nghĩa là khoảng 25 khách du lịch được chào đón bởi một người dân ở đây.

[12] Monaco nằm ở Tây Âu, với diện tích hơn 2 km2 và có quy mô dân số khoảng 38.400 người. Monaco là một điểm du lịch nổi tiếng đắt đỏ. Nơi đây thu hút du khách nhờ những sòng bạc lớn như Monte Carlo Bay, Le Grand và Sun. Mỗi năm, một người dân Monaco đón khoảng 8,7 khách du lịch.

[13] Lượng khách du lịch đến Hội An năm 2019 ước đạt 5,35 triệu lượt, tăng 5,24% so với cùng kỳ (khách quốc tế đạt 4 triệu lượt, tăng 5,16%). Tham kiến: http://baoquangnam.vn/du-lich/nam-2019-hoi-an-don-535-trieu-luot-khach-du-lich-82873.html

[14] Quyết định số 162-HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của Hội đồng bộ trưởng Về một số chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.

[15] Hàng ngàn học sinh TP.HCM có nguy cơ không được học lớp 1, Báo Thanh niên số ra ngày 21 tháng 8 năm 2020. Tham kiến: https://thanhnien.vn/giao-duc/hang-ngan-hoc-sinh-tphcm-co-nguy-co-khong-duoc-hoc-lop-1-1268518.html

[16] Bỏ sổ hộ khẩu và quản lý đăng ký dân cư bằng mã số định danh, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tham kiến: http://dangcongsan.vn/thoi-su/de-xuat-bo-so-ho-khau-quan-ly-cong-dan-bang-ma-so-dinh-danh-555492.html

[17] Cổng thông tin điện tử công an tỉnh Quảng Bình, Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhân khẩu tạm trú của Công an phường trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Tham kiến: https://conganquangbinh.gov.vn/thuc-trang-va-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-cong-tac-quan-ly-nhan-khau-tam-tru-cua-cong-an-phuong-tren-dia-ban-tinh-quang-binh/

[18] Xem: Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin truyền thông, 2020, tr. 347-358

[19] Chẳng hạn, cuối năm 2019 đại dịch COVID-19 đã nảy sinh và tác động đến toàn bộ đời sống xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nhiều đô thị phải áp dụng “biện pháp thời chiến” để chống dịch; không ít chính quyền đô thị phải dùng biện pháp mạnh, “khác thường” (như phát phiếu đi chợ cho cư dân đô thị ở thành phố Đà Nẵng vào tháng 8 năm 2020 sau khi bùng phát đợt dịch thứ 2).

[20] Vụ nổ xảy ra tại một bến cảng ở thủ đô Beirut của Li Băng ngày 4 tháng 8 năm 2020 đã làm ít nhất 100 người thiệt mạng và hơn 4.000 người bị thương. Được biết, nguyên nhân vụ nổ là do quản lý không cẩn thận nhà kho chứa 2.750 tấn hóa chất ammonium nitrate (thường dùng làm phân bón hoặc chế tạo bom). Điều đáng nói là, chính quyền đã biết được mức độ nguy hiểm của kho hàng này nhưng không “lường trước” khả năng xảy ra sự cố nên kho hàng tồn tại nhiều năm nhưng không có biện pháp xử lý. Tham kiến: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-the-gioi/no-lon-tai-lebanon-78-nguoi-chet-va-4-000-nguoi-bi-thuong-611562/

[21] Xem: Toàn cảnh vụ cháy và những bất nhất trong thông tin rò rỉ thuỷ ngân của Công ty Rạng Đông. Tham kiến: https://baotintuc.vn/thoi-su/toan-canh-vu-chay-va-nhung-bat-nhat-trong-thong-tin-ro-ri-thuy-ngan-cua-cong-ty-rang-dong-20190908231955093.htm

[22] Cần lưu ý rằng, với một trình độ phát triển và áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ của mỗi quốc gia, mỗi đô thị khác nhau thì phương thức quản lý nhân khẩu cũng khác nhau. Công tác quản lý nhân hộ khẩu là nhiệm vụ hết sức quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đối với công tác quy hoạch, phát triển của một thành phố, do vậy việc quản lý “hộ khẩu giấy” hay “điện tử” không phải là bản chất của vấn đề mà cốt lõi là, làm sao để quản lý hộ khẩu một cách khoa học nhất, chính xác nhất, thuận lợi cho việc giao dịch (cả cơ quan nhà nước và nhân dân). Do đó, tránh cách hiểu nhầm “bỏ hộ khẩu giấy” với việc “bỏ quản lý hộ khẩu” là giống nhau. Việc đánh đồng này rất nguy hiểm thậm chí là cái cớ để một số người xuyên tạc về vấn đề “hộ khẩu giấy”, thậm chí lợi dụng để gây mất an ninh trật tự.

[23] Hiện nay, dễ dàng quan sát thấy không ít cư dân thành phố ở nước ta vẫn còn dùng than tổ ong để nấu nướng (thậm chí đặt ngay cả ra vỉa hè, lòng đường); nhiều kho chứa hóa chất nguy hiểm nằm ngay trong lòng thành phố nhưng thiếu điều kiện an toàn có thể gây ra những thảm họa; không ít cây xăng nằm liền kề với hộ dân cư không đảm bảo khoảng cách an toàn cho cư dân,…

[25] Xem: Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về Quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện

[26] Không phải ngẫu nhiên mà nhiều chính khách nước ngoài sau khi thăm Việt Nam cũng đều có những “ấn tượng” về giao thông đô thị nước ta. Còn nhớ, trong chuyến thăm Việt Nam (năm 2016) của Tổng thống Mỹ Barack Obama, trong bài phát biểu tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình trước hơn 2.000 trí thức, sinh viên, doanh nhân  Việt Nam, ông chia sẻ về tình trạng giao thông tại Hà Nội một cách hài hước rằng, tối qua tôi đã ăn thử bún chả và uống bia Hà Nội. Nhưng phố phường Hà Nội đông như thế, tôi chưa từng thấy. Tôi chưa dám qua đường. Có lẽ lần sau trở lại, các bạn sẽ dạy tôi cách qua đường.

[27] Phạm Đi, Quy hoạch và phát triển giao thông: Sai lầm nối tiếp sai lầm? Tham kiến: https://ashui.com/mag/tuongtac/phanbien/4701-quy-hoach-phat-trien-giao-thong-sai-lam-noi-tiep-sai-lam.html

[28] Dự án mở rộng đường Nguyễn Văn Trỗi - Nam Kỳ Khởi Nghĩa đã được UBND TP.HCM phê duyệt từ tháng 10 năm 2003, với tổng mức đầu tư là 852 tỉ đồng, trong đó chi phí đền bù giải tỏa chiếm hơn 778 tỉ đồng.

[29] Cục Cảnh sát PCCC và CNCN, Thông cáo báo chí về tình hình cháy, nổ tháng 4 năm 2021, Tham kiến: http://canhsatpccc.gov.vn/ArticlesDetail/tabid/193/cateid/1172/id/9843/language/vi-VN/Default.aspx

 

[30] Chương trình “5 không, 3 có” và “4 an” của thành phố Đà Nẵng đã tạo dựng được một thành phố Đà Nẵng an toàn, văn minh với tỷ lệ tội phạm giảm đáng kể, số lượng người lang thang xin ăn trên đường phố hạn chế, số lượng người nghiện ma túy trong cộng đồng được khống chế, từng bước hình thành một “thành phố đáng sống”.

[31] Khái niệm “cộng đồng” được nhà xã hội học người Đức Ferdinand Tönnies (1855-1936) sử dụng đầu tiên trong tác phẩm “Cộng đồng và xã hội”, ấn bản năm 1887.

[32] J. H. Ficher, Xã hội học, (Trần Văn Dĩnh dịch), Nxb. Hiện đại Thư xã, 1974, tr.79.

[33] J. H. Ficher, Xã hội học, (Trần Văn Dĩnh dịch), Nxb. Hiện đại Thư xã, 1974, tr.80.

[34] Trên thực tế, không ít vụ tranh cải, thậm chí án mạng xuất phát từ việc giải trí bằng “loa kẹo kéo” khi hát karaoke trong giờ nghỉ, có âm lượng quá lớn. Không ít lần và không ít nhà khoa học đã đề xuất xử lý nghiêm vấn nạn này. Không phải ngẫu nhiên mà báo Tuổi trẻ có nhận định: “Chuyện hát hò gây ồn ào có thể quá nhỏ so với nhiều vấn đề dân sinh khác nhưng dưới mắt người dân, đó là thước đo hiệu quả công tác quản lý nhà nước. Phải sớm xóa những bức xúc do hát hò sai chỗ, sai giờ cứ anh ách trong từng người dân đô thị”. Tham kiến: https://tuoitre.vn/mot-nghi-quyet-ve-karaoke-loa-thung-va-loa-keo-keo-20200713082851474.htm

[35] Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08 tháng 09 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, xác định: “Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo Điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa”. Như vậy, phát triển công nghiệp văn hóa không chỉ là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế mà trên thực tế, công nghiệp văn hóa đã được thừa nhận như một ngành sản xuất, như lực lượng sản xuất văn hóa, có khả năng tạo ra các sản phẩm tinh thần tốt đẹp cho xã hội, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.

[36] Hồ Chí Minh , Toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tập 3, tr.431.

[37] UNESCO , Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989, tr.5.

[38] Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý. Nxb. Thông tin truyền thông, 2020, tr.131-135.

[39] Xem thêm: Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý. Nxb. Thông tin truyền thông, 2020, tr.140-141.

[40] Khi đã “thẩm thấu” các giá trị văn hóa đô thị, con người tự hỏi “mình là người của thành phố,... sao lại làm như vậy”; sống trong thành phố “đáng sống” nên phải làm như thế;  thành phố “nghĩa tình” nên phải sống thật sự tình nghĩa,..

[41] Nhiều lần bàn về giá trị của đô thị cổ Hội An (Quảng Nam) trên các diễn đàn và hội thảo, tác giả đã khẳng định: cái “na ná” như Hội An trên thế giới không thiếu, nếu không muốn nói là khá nhiều. Ví dụ:  Chẳng hạn thành phố Malacca của Malaysia; cổ trấn Đồng Lý (Tongli), Nguyệt Hà (Yuehe) tỉnh Giang Tô; phố cổ Tân Xương (Xinchang), Phong Kinh (Fengjing) thuộc thành phố Thượng Hải, Trung Quốc,... Thế nhưng, thế giới chỉ có một Hội An bởi nó gắn với con người Hội An, văn hóa Hội An, lối sống Hội An. Do đó, xây dựng và phát triển một thành phố, ngoài giữ gìn, trùng tu, kiến tạo, phát triển các giá trị vật chất, cơ sở hạ tầng thì điều cốt yếu và quan trọng là giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của đô thị.

[42] Theo tiếng Anh, từ “Social Security” có nghĩa là “an ninh xã hội” do đó, tùy theo cách tiếp cận, nhiều học giả Việt Nam đã sử dụng những thuật ngữ tương tự như: bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội, an sinh xã hội,… Nghiêm túc mà nói, nội hàm và ngoại diên của các thuật ngữ trên không hoàn toàn giống nhau. Trong cuốn sách này, tác giả sử dụng “bảo đảm xã hội” gần với nghĩa “an sinh xã hội” nhất.

[43] Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý. Nxb. Thông tin truyền thông, 2020, tr.506.

[44] Xem: Phạm Đi, Xã hội học với lãnh đạo, quản lý. Nxb. Thông tin truyền thông, 2020, tr.510.

[45] Phạm Đi, Tính dễ tổn thương - một biểu hiện của nghèo đô thị, Tạp chí Sinh hoạt lý luận,  số 3/2005.

[46] Do đối tượng thụ hưởng của ưu đãi xã hội có tính chất đặc thù nên một số thành phố có điều kiện kinh tế phát triển có thể áp dụng mức hỗ trợ, trợ cấp cho nhóm người có công cao hơn địa phương khác và ngược lại. Tuy nhiên, phải đảm bảo tính pháp lý, tính thống nhất, tính thực tiễn và tính khả thi.

[47] Xem: Nghị định số 103/2017/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ về Quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở trợ giúp xã hội.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ