CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ TRONG QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ TRONG
QUẢN LÝ ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI
1. Xây dựng chính quyền đô
thị từ yêu cầu thực tiễn
Xây dựng chính quyền đô thị (CQĐT) hay kiến lập một thể chế
quản lý kiểu mới về đô thị (ĐT) phải vừa phù hợp với tình hình quản lý hiện đại
trong bối cảnh toàn cầu hóa lại vừa đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước trong
điều kiện hiện hữu (điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện về trình độ quản lý, điều
kiện về dân số, văn hóa, thể chế…). Đối với nước nước ta, đây là một vấn đề
hoàn toàn mới mẻ, có tác động lớn và chưa có tiền lệ trong lịch sử quản lý đô
thị. Chính lẽ đó, cần có những bước đi thận trọng, chắc chắn; cần có những
nghiên cứu thật khoa học và tỉ mỉ, trên cơ sở kế thừa những thành tựu quản lý
ĐT từ các mô hình khác nhau trên thế giới, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội, văn hóa và cả điều kiện về thể chế chính trị của Việt Nam.
Thực tế cho thấy, đã xuất hiện sự mâu thuẫn giữa sự gia tăng
dân số và sức tải hạ tầng ĐT; giữa nhu cầu về nguồn nhân lực nói chung, nguồn
nhân lực chất lượng cao nói riêng với sự cung ứng nguồn nhân lực từ thị trường
lao động và sự di dân; giữa năng lực tổ chức và quản lý ĐT của đội ngũ quản lý
hiện hữu với nhu cầu và đòi hỏi của phương thức quản lý ĐT kiểu mới; giữa cơ cấu
kinh tế-xã hội hiện hữu với năng lực và trình độ điều hành của đội ngũ quản lý
ĐT, giữa trình độ quản lý ĐT lạc hậu với nhu cầu hiện đại hóa, quốc tế hóa về
phương thức quản lý phù hợp với tốc độ đô thị hóa cao của chính ĐT này. Tất cả
những mâu thuẫn này, vô hình chung tạo nên một sức ép không nhỏ khi phải tiến
hành xây dựng và vận hành một chính quyền đô thị, điều này buộc nhà lãnh đạo,
quản lý và các chuyên gia về đô thị cần phải tính toán, cân nhắc để khắc phục.
Đó là vấn đề tồn tại thứ nhất.
Thứ đến, hệ thống chính sách liên quan đến quản lý ĐT, quản
lý thị chính còn chồng chéo, không rõ ràng, còn tồn tại nhiều bất cập. Cần thừa
nhận một thực tế là, tình trạng lộn xộn trong xây dựng như xây dựng trái phép,
không phép, không tuân thủ theo các quy tắc xây dựng, xây dựng tự phát…là những
hiện tượng khá phổ biến tại các đô thị ở nước ta. Tình trạng sang nhượng trái
phép, lấn chiếm đất đai (kể cả sông rạch, mặt nước, mặt biển), xây dựng “chui”
và hình thành nên những “xóm liều”, “nhu nhà ổ chuột tự phát”, “nhóm nước tự
phát”… đã trở nên khá “quen thuộc” trong nhiều đô thị ở nước ta.
Những tồn tại và bất cập trong công tác quản lý đô thị và
phân cấp quản lý: quản lý vừa lỏng lẻo và chồng chéo, thiếu đồng bộ và phân cấp
giữa các địa phương và cơ quan hữu quan, hệ thống quản lý thị chính còn bất cập
về chức năng, nhiệm vụ dẫn đến tính phối hợp và hiệu quả kém. Đây chính là một
tồn tại hiện hữu nữa của thành phố này khi phải tiến hành xây dựng chính quyền
đô thị.
Thứ ba, khi tiến hành xây dựng chính CQĐT, điều tiên quyết
là phải kiện toàn hệ thống pháp luật, pháp quy và những quy định liên quan.
Trong đó là những quy định hết sức cụ thể và rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của
từng vị trí trong hệ thống quản lý từ “Thị trưởng”, “Hội đồng thị trưởng”, “Ban
cố vấn” đến các cơ quan giúp việc cho thị trưởng. Trong điều kiện hiện hữu của nước
ta cho thấy, cần phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa cơ cấu tư pháp, cơ cấu
hành chính, cơ cấu các cơ quan đại diện của thành phố; mối quan hệ giữa các
đoàn thể xã hội, tổ chức chính đảng và có cấu nhà nước; Mối quan hệ giữa có cấu
nhà nước cấp quận, thị xã và cơ quan nhà nước… Thế nhưng, thừa nhận một thức tế
hiện nay ở hầu hết đô thị ở nước ta là, các văn bản liên quan đến quản lý đô thị,
đến quản lý thị chính còn chồng chéo, mâu thuẫn giữa các ngành, giữa cấp dưới
và cấp trên, giữa cái mới và cái cũ. Đó là chưa kể đến việc ban hành những văn
bản thiếu tính khả thi, không phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương gây những
khó khăn nhất định trong công tác điều hành, quản lý đô thị và ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố.
Thứ tư, hiện nay đội ngũ cán bộ công chức về quản lý đô thị còn
thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ, năng lực, nghiệp vụ nói chung, trình độ và kỹ
năng quản lý ĐT nói riêng còn yếu. Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản
lý quyết định đến hiệu suất thậm chí đến sự thành bại của bài toán quản lý và
phát triển đô thị. Khi xây dựng và thực thi kiểu quản lý chính quyền đô thị thị
điều này càng trở thành yếu tố sống còn. Hiện tại, công tác quy hoạch, đào tạo,
sử dụng đội ngũ cán bộ còn bất cấp, chưa theo kịp với yêu cầu thực tế. Hơn nữa,
đại bộ phận cán bộ quản lý thị chính còn chưa được đào tạo chuyên nghiệp về quản
lý đô thị, chưa thích ứng kịp với phương thức quản lý kiểu mới. Bên cạnh đó,
tình trạng tham nhũng, quan liêu, thoái hoá biến chất trong đội ngũ công chức
diễn ra chậm xử lý hoặc xử lý không đến đến chốn làm người dân phẫn nộ, mất niềm
tin vào năng lực điều hành của chính quyền là những tồn tại cần được nhìn nhận
và khắc phục.
Thứ năm, bất luận thế nào, thị dân luôn là chủ thể của một
đô thị, tố chất của thị dân chính là “linh hồn và năng lượng” của một đô thị hiện
đại. Cần thừa nhận một thực tế là, tố chất thị dân của nhiều đô thị nước ta vẫn
còn bị chi phối bởi lối sống tiểu nông, ý thức tuân thủ pháp luật hạn chế, tính
tích cực xã hội chưa cao, nếp sống văn minh đô thị chưa trở thành nếp sống thường
nhật,… Chính những yếu tố này tạo nên một
áp lực không nhỏ về bài toán quản lý và công tác thực thi phương thức quản lý
CQĐT.
2. Một số nhiệm vụ và giải pháp xây dựng và vận
hành chính quyền đô thị
Thực trạng trên cho
thấy sự cần thiết tổ chức lại bộ máy chính quyền đô thị sao cho phù hợp với tầm
vóc, quy mô phát triển của các đô thị hiện nay. Bảo đảm mục tiêu phát triển cho
thành phố cả về tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, vì con người cho con
người trong sự hài hoà cân đối giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Bảo
đảm công bằng cho tất cả mọi người, cho thực tại và mai sau. Thực tế cho thấy,
không một nước nào có thể giàu có đầy đủ mà không làm cho lao động của những
người thất nghiệp được sử dụng hữu ích;không một xã hội nào được xem là thịnh
vượng mà lại có thể loại trừ những người tàn tật rủi ro; không một dân tộc nào
có thể sống sót nếu không truyền cho lớp người trẻ tuổi những hy vọng và khát vọng
về tương lai. Vậy kiến tạo mô hình CQĐT phải bảo đảm các yếu tố sau:
- Bộ máy chính quyền gọn nhẹ, hiệu quả, có phân công phân cấp
quản lý rõ ràng, có sự phối hợp giữa các bộ phận liên quan, có khả năng thích ứng
nhanh với nền kinh tế hiện đại thông qua những biện pháp cải cách hành chính.Thực
hiện qủan lý mọi mặt của xã hội theo pháp luật.
- Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, làm căn
cứ pháp lý để xây dựng và quản lý độ thị
- Quyền lực hành chính nhà nước thống nhất, cơ chế quản lý
linh hoạt, thủ tục hành chính giản tiện gọn nhẹ, thực hiện có hiệu qủa vai trò
quản lý đô thị ở mọi cấp mọi khâu, với tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện.
- Đội ngũ cán bộ công chức phải được đào tạo chính quy các
kiến thức pháp luật và quản lý nhà nước. Ở các lĩnh vực cụ thể phải được đào tạo
chuyên môn sâu cùng các kỹ năng ứng xử văn hoá với các đối tượng phục vụ. Có phẩm
chất đạo đức và năng lực chuyên môn cần thiết trong từng lãnh vực công tác.
- Các hoạt động quản lý đô thị của chính quyền được hiện đại
hoá, với những trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại. Phương thức phục
vụ nhân dân vô điều kiện của công chức tận tình chu đáo. Cơ chế hoá, công khai
hóa công tác tuyển chọn đào tạo, sử dụng đội ngũ công chức.
Tuy nhiên, việc xây dựng chính quyền đô
thị cũng phải có những điều kiện và tuân thủ những nguyên tắc và có bước đi
thích hợp. Đó là phải tuân thủ những điều kiện khách quan, những nghiên cứu
toàn diện các điều kiện kinh tế- xã hội – tâm lý, lối sống – con người của thành
phố; Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý chung của nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã
hội chủ nghĩa; dựa trên chính sách quy hoạch đô thị của quốc gia; trên những
thành tựu đổi mới của đất nước, những lý thuyết quản lý đô thị tiên tiến của thế
giới, thành tựu và cả hạn chế của từ thực tiễn cải cách nền hành chính của nước
ta và quốc tế v.v… Trên cơ sở đó chúng ta mới cân nhắc, lựa chọn mô hình chính
quyền và phương pháp thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thành
phố trên tất cả các mặt: Tổ chức bộ máy, con người trong bộ máy, và thể chế hoạt
động.
Có thể nêu lên những giải pháp bước đầu
có tính chất tham khảo để cùng bàn luận và tìm tiếng nói chung cho công tác này.
Theo tác giả, các giải pháp xoanh quanh các vấn đề sau: Hoàn thiện hệ thống luật
pháp và cơ chế quản lý đô thị; tổ chức lại bộ máy quản lý; xây dựng chính sách
đầu tư cho phát triển đô thị; giáo dục ý thức cộng đồng, nếp sống văn minh đô
thị cho dân cư.
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ
chế quản lý đô thị. Hệ thống pháp luật
là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của chính quyền đô thị. Xây dựng hệ
thống pháp luật cần xác định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và công dân, các
quy định, thủ tục, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan chính quyền đô thị. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật mới bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động và cung ứng
dịch vụ của cả bộ máy, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi huy động mọi nguồn lực của
các tổ chức, cá nhân,các thành phần kinh tế, các nguồn vốn trong và ngoài nước
cho phát triển đô thị. Có một nền tảng pháp lý vững chắc, chúng ta mới có thể
thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật, có khả năng điều tiết các quan
hệ xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển đô thị. Ngày càng mở rộng dân chủ
cho các đối tượng quần chúng, tăng cường quyền lực cho công dân, hạn chế tình
trạng lạm quyền của một bộ phận công chức kém phẩm chất. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật trên các lĩnh vực sẽ khuyến khích mọi công dân, mọi tổ chức hoạt động
sáng tạo, tự chủ trong hoạt động sáng tạo cống hiến tài năng cho xã hội theo
chuẩn mực chung mà pháp luật quy định. Mặt khác, việc luật hoá quyền của cán bộ,
công chức nhà nước ở mọi cấp, ngành và những chế tài nghiêm ngặt đối với những
công chức vi phạm, mới loại dần tính tuỳ tiện, lạm quyền của một số cán bộ công
chức khi thực thi công vụ.
Thứ hai, kiện toàn bộ máy và đội ngũ làm công tác quản
lý đô thị. Trong những năm sắp tới
cần nghiên cứu tiến tới xây dựng mô hình chính quyền đô thị hành chính hai cấp.
Trong đó, cấp quận nên cơ cấu lại thành các trung tâm hành chính, có đầy đủ các
chức năng quyền hạn thay mặt chính quyền giải quyết các yêu cầu của công dân
trong khu vực được uỷ quyền. Các trung tâm hành chính này được nghiên cứu xây dựng
hiện đại với trang thiết bị tiên tiến và đội ngũ công chức chuyên nghiệp đủ sức
đáp ứng mọi yêu cầu của các tổ chức và công dân. Như vậy cơ quan quyền lực (UBND
và HĐND), hệ thống cơ quan đảng, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chỉ tập trung
ở cấp thành phố và cấp phường. Cấp quận, sẽ không có cơ quan quyền lực và các
cơ quan đoàn thể nữa. Chỉ còn Uỷ ban hành chính, ban cán sự đảng, mặt trận,
đoàn thể là những cán bộ chuyên trách do các cơ quan trên cử về làm việc. Cấp
thành phố và cấp phường sẽ được củng cố và kiện toàn theo hướng loại bỏ cấp
trung gian, biên chế gọn nhẹ, tăng cuờng hiệu lực hiệu quả lãnh đạo. Các hoạt động
cung ứng dịch vụ công từng bước xã hội hóa cho tập thể và cá nhân có đầy đủ điều
kiện hoạt động để giảm tải cho các trung tâm hành chính. Tuy nhiên, việc thực
hiện mô hình này phải có những bước đi cụ thể trên cơ sở nghiên cứu thấu đáo những
vấn đề kinh tế – xã hội, chức năng nhiệm vụ của thành phố đối với cả nước trong
từng giai đoạn cụ thể, để có những bước đi và giải pháp thích hợp. Mô hình này
có những ưu điểm sau: (1) Bộ máy chính quyền tinh gọn, giảm bớt tầng nấc trung
gian, các đầu mối, các loại hình tổ chức, bảo đảm tính thống nhất và nhất quán
trong điều hành, chỉ đạo thực hiện; (2) Thuận lợi hơn cho việc đẩy mạnh cải
cách hành chính theo mô hình một cửa, một dấu, giảm bớt thủ tục, tiết kiệm thời
gian công sức đi lại cho người dân; (3) Tránh lãng phí trong xây dựng các cơ sở
hành chính, cho phép tập trung kinh phí đầu tư cho các trung tâm hành chính hiện
đại; (4) Có thể khắc phục tình trạng chồng chéo trong việc ban hành các văn bản
pháp quy giữa các cơ quan, đơn vi.
Thứ ba, xây dựng chính sách đầu tư cho phát triển đô
thị. Nhà nước cần
tập trung cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách vĩ mô về quản lý
đô thị, nhanh chóng lập quy hoạch phát triển không gian đô thị trong khoảng 20
năm cho tất cả các đô thị Việt Nam. Tư duy quản lý đô thị phải đi trước hiện thực
một chặng đường dài để chủ động đối phó với các vấn đề xã hội phát sinh, chứ
không thể lạc hậu theo đuôi các sự kiện như hiện nay. Trong đó có phân cấp quản
lý rõ ràng, thực hiện quan điểm mọi thành viên sống trong đô thị đều có trách
nhiệm xây dựng, tham gia vào quá trình quy hoạch đô thị mà mình đang sinh sống.
Bên
cạch các chính sách phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, thì các vấn đề xã hội phải được quan tâm
đúng mức. Bảo đảm cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội luôn phù hợp với nhau
trong từng bước phát triển. Mỗi chính sách phát triển kinh tế đều hướng tới mục
tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách phát triển xã hội đều nhằm tạo ra động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vậy trong một đô thị hiện đại, các chính sách
xã hội phải được xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh
các giải pháp giải quyết việc làm cả cho lao động có trình độ chuyên môn cao và
lao động đại trà ở trình độ thấp. Tạo điều kiện và cơ hội cho các đối tượng quần
chúng không phân biệt người tại chỗ hay người nhập cư được tiếp cận và thụ hưởng
các dịch vụ xã hội như: giáo dục, y tế, cung cấp điện, nước v.v… nhằm nâng cao
dân trí, đời sống vật chất và tinh thần cũng như các phúc lợi dân sinh khác.
Xây dựng khung cơ chế chính sách thông thoáng cho mọi công dân tự do làm ăn
phát triển kinh tế tạo thu nhập cho cá nhân, gia đình và đóng góp cho xã hội
theo quy định của pháp luật. Sử dụng tối đa tiềm năng lao động là mục tiêu hàng
đầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với
các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào hệ thống hạ tầng cơ sở kỹ thuật
và xã hội. Mọi tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có sử dụng lao động phải có trách
nhiệm đóng góp cùng chính quyền hỗ trợ việc nâng cấp phát triển cơ sở hạ tầng
xã hội nhằm phục vụ đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Thứ tư, nâng cao trình độ dân trí, xây dựng nếp sống
văn minh đô thị. Tăng cường
giáo dục nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết về pháp luật cho người dân, dần
hình thành nếp sống kỷ cương trật tự, đề cao ý thức tự quản và phát huy tinh thần
đoàn kết, tương trợ cộng đồng. Mỗi người
dân tự giác chấp hành pháp luật của nhà nước, tích cực tham gia xây dựng chính
quyền với ý thức trách nhiệm của người làm chủ thành phố.
Tiếp tục phát động phong trào xây dựng khu phố văn hóa, “đưa các yếu tố văn
hoá, tinh thần nhân văn thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ cách ứng
xử trong gia đình, trường học, xã hội đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
giao tiếp”… Xây dựng chính quyền đô thị và
vận hành mô thức chính quyền đô thị hiệu lực, hiệu quả là một nội dung lớn,
chưa có tiền lệ trong lịch sử mà tính phức tạp của nó diễn ra trên tất các các
lĩnh vực của đời sống xã hội và tác động lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân. Vì
vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu ở nhiều chiều cạnh khác nhau,
trong từng giai đoạn, trên phương diện tổng thể cũng như trong từng bộ phận cấu
thành để có những giải pháp đồng bộ, dài hơi hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Võ
Kim Cương, Quản lý đô thị, Nxb Xây dựng,
2005.
2.
Phạm
Đi, Quản lý đô thị và quản trị đô thị thông minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021.
3.
Nguyễn
Minh Hòa, Đô thị học và những vấn đề cơ bản,
Nxb ĐHQG TP.HCM, 2012
4.
Nguyễn
Trọng Mạnh, Quản lý đô thị, Nxb Xây dựng,
2002
5.
Phạm
Đi, Quản lý đô thị nhưng chưa có “chính quyền đô thị, http://nguoidothi.vn/home/thoi-su-can-diem/nhan-thuc-lai-ve-quan-li-do-thi
6.
Phạm
Đi, Qui hoạch và phát triển giao thông:
sai lầm nối tiếp sai lầm, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-05-11-quy-hoach-phat-trien-giao-thong-sai-lam-noi-tiep-sai-lam-
7. Đào Hoàng Tấn, Phát
triển bền vững đô thị - những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới. Nxb
Khoa học xã hội. H.2008.
8. Phạm
Ngọc Côn, Kinh tế học đô thị, Nxb
Khoa học và Kỹ thuật. H.1999.
9. Lê
Như Hoa, Quản lý văn hóa đô thị trong điều
kiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nxb Văn hóa - thông tin.
H.2000.
10.
Nguyễn Minh Hòa, Phạm Đi (cùng nhiều tác
giả), Những lát cắt đô thị. Nxb Đại học
quốc gia TP.HCM. 2013.
11.
Nguyễn Minh Hòa, Đô thị học – những vấn đề lý thuyết và thực tiễn. Nxb Đại học quốc
gia TP.HCM. 2012.
12.
Phạm Đi, Công tác di dời, giải toả, tái định cư của thành phố Đà Nẵng - những
thành tựu đạt được. (Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 5/2004)
13.
Phạm Đi, Tính dễ tổn thương - một biểu hiện của nghèo đô thị. (Tạp chí Sinh
hoạt lý luận số 3/2005)
14.
Phạm Đi, Tiến trình đô thị hóa trên thế giới và những thách thức của nó
(Sinh hoạt lý luận, số 2(93)/2009)
15.
Phạm Đi, Hoàn thiện chính sách nhà ở, đất ở, đất sản xuất cho người tái định cư.
(Sinh hoạt lý luận số 5(102)/2010)
16.
Phạm Đi, Nhận thức lại về quản lý đô thị (Người đô thị, số 94 ngày
10/4/2011)
17.
Phạm Đi, Mô hình thị trưởng (Người đô thị, số 116-117 ngày 25/3/2012)
18.
Phạm Đi, Thực trạng về vấn đề môi trường sinh thái đô thị trong các vùng đô thị ở
nước ta hiện nay qua góc nhìn phát triển đô thị bền vững. (Sinh hoạt lý luận
số 5/2013).
19.
Phạm Đi, Hoàn thiện chính sách lao động-việc làm đào tạo, hỗ trợ chuyển đổi nghề
cho người tái định cư (Chuyên đề thuộc Đề tài cấp Nhà nước mã số KX
03.20/06-10)
20.
Phạm Đi, Đà nẵng – cải tạo, chỉnh trang đô thị (SGGP số 9654 ngày
14/5/2004)
21.
Phạm Đi, Quản lý đô thị nhưng chưa có “chính quyền đô thị”. http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-04-08-quan-ly-do-thi-nhung-chua-co-chinh-quyen-do-thi-
22.
Phạm Đi, Tránh ùn tắc giao thông: nhìn từ câu chuyện người bán chim. http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-04-13-chong-un-tac-giao-thong-nhin-tu-chuyen-nguoi-ban-chim
23.
Phạm Đi, Qui hoạch và phát triển giao thông: sai lầm nối tiếp sai lầm? http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-05-11-quy-hoach-phat-trien-giao-thong-sai-lam-noi-tiep-sai-lam-
24.
Phạm Đi, “Cách mạng” trong giao thông,
nên bắt đầu từ đâu? http://phapluattp.vn/20111018093935423p1027c1098/cach-mang-trong-giao-thong-nen-bat-dau-tu-dau.htm
25.
Phạm Đi, Sứ mạng của xe buýt, Báo
Pháp luật TP. HCM. http://phapluattp.vn/20111204010226455p1027c1098/su-mang-cua-xe-buyt.htm
26.
Phạm Đi, Đền bù giải tỏa đất đai: Người dân phải được hưởng lợi http://tuanvietnam.net/2012-02-14-den-bu-giai-toa-dat-dai-nguoi-dan-phai-duoc-huong-loi
27.
Phạm Đi, Đảm bảo đời sống người bị thu hồi đất. Báo pháp luật TP.HCM số ra
ngày 22/6/2013 http://phapluattp.vn/20130621105759105p1027c1098/dam-bao-doi-song-nguoi-bi-thu-hoi-dat.htm
28.
Phạm Đi, Chính quyền đô thị: Chiếc áo mới phải như thế nào? http://sgtt.vn/Goc-nhin/181669/Chiec-ao-moi-phai-nhu-the-nao.html
29.
Phạm Đi, Xây dựng chính quyền đô thị ở TP.HCM:Nên bắt đầu từ đâu? http://sgtt.vn/Goc-nhin/181745/Nen-bat-dau-tu-dau.html
30.
Phạm Đi, Đã đến lúc cởi "chiếc áo đô thị" chật chội. http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/133382/da-den-luc-coi--chiec-ao-do-thi--chat-choi.html,
đăng ngày 31/7/2013
31.
Phạm Đi, Chỗ đứng của thị trưởng ở đâu? http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/135818/cho-dung-cua-thi-truong-o-dau-.html
32.
Phạm Đi, Nâng cao tố chất thị dân. Báo pháp luật TP.HCM
33.
http://phapluattp.vn/2013081809263813p0c1027/nang-cao-to-chat-thi-dan.htm
34.
Phạm
Đi, Xây dựng chính quyền đô thị: người dân cũng phải có vai trò.
http://sgtt.vn/Goc-nhin/182881/Xay-dung-chinh-quyen-do-thi-nguoi-dan-cung-phai-co-vai-tro.html
35.
Phạm Đi, Đào tạo nhân sự cho chính quyền đô thị. http://phapluattp.vn/20130909110857420p1027c1098/dao-tao-nhan-su-cho-chinh-quyen-do-thi.htm
36.
Mc Gill,Viewpoint Urban management in
developing countries. Cities 1998
37.
Peter Katz. The New Urbanism: Toward an architecture of community. McGraw-Hill,
1994
38.
Bouckaert Geert. Measurring Quality
Inpollitt, Christopher and Bouckaert Geert (Eds). Quality Improvement in
European Public Services. Sage Publications, 2002
Nhận xét
Đăng nhận xét