SỬA ĐỔI LUẬT ĐẤT ĐAI: CẦN LÀM RÕ MỘT SỐ NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐỂ ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI KHI THU HỒI ĐẤT
GÓP
Ý SỬA ĐỔI LUẬT ĐẤT ĐAI:
CẦN
LÀM RÕ MỘT SỐ NỘI DUNG, KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số
671/NQ-UBTVQH15 ngày 23/12/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tổ chức lấy
ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 170/NQ-CP về ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với
dự thảo Luật Đất đai (sau đây gọi tắt là Dự thảo). Có thể nói, đây là động thái
tích cực, dân chủ của nhà quản lý nhằm phát huy sức mạnh, trí tuệ của toàn xã hội
đối với một dự án luật có liên quan đến lợi ích thiết thân của đại đa số nhân
dân.
Một trong những nội dung được
rất nhiều người quan tâm là vấn đề thu hồi đất, trưng dụng đất. Bởi lẽ, nếu
quan sát thực tiễn thời gian qua sẽ thấy, không ít trường hợp nảy sinh mâu thuẫn
xã hội, thậm chí là xung đột, điểm nóng, khiếu kiện, khiếu nại đông người, vượt
cấp chính là vấn đề thu hồi, trưng dụng; đền bù, giải tỏa, tái định cư. Do đó,
sửa đổi Luật đất đai lần này là “cơ hội vàng” cho việc “lấp đi” những “điểm mù”
về khái niệm mà chính nó lại dễ hình thành các luồng ý kiến khác nhau, thậm chí
dễ hiểu sai, thực thi sai và đương nhiên, nếu tiếp tục tồn tại những “điểm mù” ấy
có thể nảy sinh các vấn đề xã hội về đất đai, nguồn cơn hình thành một số điểm
nóng xã hội không đáng có. Do đó, theo chúng tôi cần làm rõ một số nội dung
sau:
Thứ nhất, trong giải thích từ ngữ cần phải làm rõ thêm một số
khái niệm như “lợi ích quốc gia, công cộng”. Khoản 3, điều 16 có ghi: “Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì
người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của
pháp luật.” Như vậy, ở đây có 02
khái niệm lớn là “lợi ích quốc gia” và “lợi ích công cộng”. Trong toàn bộ Dự thảo,
khái niệm “quốc gia”, “lợi ích quốc gia, công cộng”, “công cộng” có tần số xuất
hiện thứ tự là 113 lần;11 lần và 52 lần. Thế nhưng trong mục “Giải thích từ ngữ”
(có 52 mục từ được giải thích) thì lại không đưa 02 khái niệm quan trọng này
vào danh mục từ để giải thích. Trên thực tế, khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích “quốc phòng, an ninh” thì tuyệt đại bộ phận người dân (chủ sở hữu đất được
Nhà nước giao quyền) đều nghiêm chỉnh chấp hành. Trong khi đó, không ít các “dự
án phát triển” lấy danh nghĩa là “lợi ích cộng cộng” nhưng thực chất lại không
phải như vậy khiến người dân bức xúc. Thậm chí, không ít trường hợp nhờ “điểm
mù” khái niệm này mà tiến hành thu hồi đất một cách khá tùy tiện, hình thành những
dự án “ma”, dự án treo hàng chục năm gây lãng phí nguồn tài nguyên và “thất
thoát” niềm tin nhân dân. Do đó, khiến nghị đưa thêm 02 khái niệm này vào danh
mục “Giải thích từ ngữ” của Điều 3 của Dự thảo.
Thứ hai, tại “Điều 3. Giải thích từ ngữ” đã lý giải: “50. Tranh chấp đất đai là tranh chấp
về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai”. Điều này hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ, nói cách khác là “bỏ sót chủ
thể quản lý” với tư cách là một bên trong quá trình tranh chấp. Trên thực tế đã
có trường hợp tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức về quyền sử dụng đất nhưng cũng
có trường hợp tranh chấp về “quyền quản lý”, “quyền sử dụng”
giữa các chủ thể quản lý nhà nước về đất đai. Do đó, chúng tôi kiến nghị cần
làm rõ thêm khái niệm này và đưa thêm hàm chí tranh chấp “quyền quản lý” vào nội
hàm để có cơ sở pháp lý khi điều tiết hành vi trên thực tế. Có thể giải thích
theo hướng: “50. Tranh chấp đất
đai là xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể được giao quyền quản
lý, quyền sử dụng đất đai”. Trong trường hợp này, khi có tranh chấp quyền
quản lý, sử dụng giữa các chủ thể đều ở khu vực công thì có thể điều tiết bởi
Luật tố tụng hành chính tương ứng với các hành vi hành chính hay quyết định
hành chính có liên quan.
Thứ ba, tại điểm a, khoản 2 Điều
104 về “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” có xác định: “Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất” khó
thao tác hóa khái niệm “đời sống”. Bởi lẽ, thông thường khái niệm “đời sống” được
hiểu là cả “đời sống vật chất”, “đời sống tinh thần”, “đời sống văn hóa”; với “đời
sống vật chất” có thể được mô tả ở điểm b của khoản 2 này nhưng “đời sống tinh
thần” thì chưa được thể hiện rõ. Do đó, để tránh “hiểu nhầm” hoặc trong nhiều
trường hợp cố tình “hiểu sai” để dây dưa không chịu di dời do thiếu “hỗ trợ
tinh thần” (văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng, thói quen, kỷ niệm,…) nên thay khái
niệm “Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất” thành “Hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất” hoặc nói rõ “Hỗ trợ điều kiện vật chất và sản xuất”
hoặc đưa khái niệm “ổn định đời sống và sản xuất” này vào mục giải thích từ ngữ
để khuôn lại nội hàm.
Đà Nẵng,
ngày 23 tháng 1 năm 2023
TS. Phạm Đi
Nhận xét
Đăng nhận xét