THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG HỖ TRỢ VIỆC LÀM CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BẢN THÀNH PHỐ ĐÀ NĂNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG HỖ TRỢ VIỆC LÀM CỦA NGÂN
HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BẢN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG – KẾT QUẢ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1. Đặt vấn đề
Thành phố Đà Nẵng được biết đến với nhiều
“thương hiệu” và cách “danh xưng” như “thành phố xanh”, “thành phố môi trường”,
“thành phố của 5 không, 3 có”, “thành phố của những câu cầu”, “thành phố đáng sống”,... bởi lẽ không chỉ
hiện hữu ở môi
trường sạch đẹp, con người thân thiện mà còn được thể hiện bằng các quyết sách cụ
thể của chính quyền sở tại như chính sách “văn hóa, văn minh đô thị”, chính
sách “5 không 3 có”, chính sách “4 an”,... Trong đó, các chính sách an sinh xã
hội nói chung, chính sách giải quyết việc làm cho cư dân nói riêng đã được lãnh
đạo thành phố qua các thời kỳ hết sức chú trọng. Ngay trong Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XXII của Đảng bộ
Thành phố Đà Nẵng nhiệm kỳ 2020-2025 cũng đã chỉ rõ: “Nâng cao
hiệu quả các chính sách xã hội trên địa bàn, đặc biệt
là thực hiện có hiệu quả hơn các chương
trình thành phố “5 không”, “3 có”, “4 an”. Tiếp tục
thực hiện tốt các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chế độ, chính sách đối với người
có công cách mạng. Hoàn thiện hệ thống các chính sách giúp người nghèo, người
yếu thế tiếp cận với các dịch vụ xã hội, phát triển hệ thống dịch vụ trợ giúp
xã hội; huy động nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở xã hội,...”[1].
Trong bối cảnh
và tình hình hiện tại, với sự tác động của đại dịch Covid-19 đối với đời sống
xã hội mà cụ thể là vấn đề việc làm và thu nhập của cư dân đã và đang là vấn đề
mà chính quyền thành phố Đà Nẵng chú trọng giải quyết. Trên thực tế, tình hình
lao động, việc làm và thu nhập của người lao động năm 2021 và 8 tháng đầu năm
2022 đang đối mặt với nhiều khó khăn. Đặc biệt, ảnh hưởng nặng nề của cả các đợt
dịch Covid-19, tác động tiêu cực đến việc khôi phục việc làm và cải thiện thu
nhập của người lao động do phải thực hiện giãn cách xã hội trên diện rộng. Lao
động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2020 cũng giảm
đáng kể, khoảng 534,4 nghìn người, giảm 51,8 nghìn người so với năm 2019. Cơ cấu
lao động phân theo khu vực ngành kinh tế đã có sự thay đổi nhẹ, lao động thuộc
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 5,3%; khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 30,4%; khu vực dịch vụ chiếm 64,3%. (Năm 2019 tỷ trọng lần lượt là: 4,9%;
28,8% và 66,3%). Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi năm
2020 là 9,41%, cao nhất trong cả giai đoạn 2010-2020. Trong đó, khu vực thành
thị là 10,09%; khu vực nông thôn là 5,42%; tỷ lệ thất nghiệp cao nhất thuộc về
lao động nhóm 15-24 tuổi, tập trung vào nhóm lao động phổ thông, do thời gian
giãn cách không tìm được việc làm phù hợp, nhu cầu tìm việc tăng cao. Tỷ lệ thiếu
việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2020 là 3,32%, trong đó khu vực
thành thị là 3,28%; khu vực nông thôn là 3,52%[2].
Đứng trước bối cảnh
và tình hình đó, nhiệm vụ đảm bảo an
sinh xã hội nói chung, giải quyết việc
làm, ổn định thu nhập cho cư dân Thanh phố vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa là
nhiệm vụ lâu dài của lãnh đạo và cơ quan hữu quan thành phố Đà Nẵng. Để đạt được
mục tiêu “Giải quyết việc làm cho 170.000-175.000 lao động, bình quân mỗi năm
giải quyết cho 34.000-35.000 lao động. Phấn đấu đến cuối năm 2025 hạ tỷ lệ thất
nghiệp xuống dưới 3%, tỷ lệ tạo việc làm tăng thêm bình quân 4,5-5%/năm”[3], thành phố Đà Nẵng cần phát huy và tăng
cường thực hiện tốt các chính sách, chương trình việc làm hiện có; vừa phải phối
hợp và định hướng chỉ đạo cho các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng cùng
chung tay giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện đời sống nhân dân trên địa bàn
thành phố, trong đó có vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh Đà Nẵng[4].
2. Thực trạng triển khai các
chính sách hỗ trợ sinh kế của Ngân hàng Chính sách trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
2.1. Về nguồn vốn, cơ cấu vốn và hoạt động sử dụng vốn vay
Là một định chế tài chính đặc thù, không giống như các
Ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng chính sách xã hội hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận, có chức năng tập hợp mọi nguồn lực tài chính của toàn xã hội để
cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, hoạt động của
Ngân hàng chính sách xã hội luôn gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
của địa phương. Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng không là ngoại lệ.
Thực hiện nhiệm vụ chung, nhất là trong bối cảnh tác động
của đại dịch Covid-19, Chương trình vay vốn Hỗ
trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm tại Ngân hàng chính sách xã hội
Đà Nẵng ngày càng phát huy hiệu quả tích cực, qua đó góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp, hỗ trợ vốn vay cho người lao động, từ đó tạo đòn bẩy cho người lao động
mở rộng sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội
trên địa bàn Thành phố.
Với sự chỉ đạo quyết liệt và hỗ trợ mạnh
mẽ từ các cấp chính quyền cũng như các ban ngành, đoàn thể trên địa bàn Thành
phố, trong những năm qua, nhiều lao động đã có việc làm, hàng ngàn hộ gia đình
đã phát triển kinh tế hiệu quả, góp phần không nhỏ vào phát triển đời sống kinh
tế - xã hội ở Thành phố. Theo kết quả khảo sát có đến 85,9% số người được
hỏi cho rằng “nhờ vay vốn của Ngân hàng chính sách xã hội mà tôi có được việc
làm mới”; 95,6% khẳng định “nhờ vay vốn của Ngân hàng chính sách xã hội mà tôi
đã duy trì được việc làm”; só người “Nhờ vay vốn của Ngân hàng chính sách xã hội mà đã chuyển đổi được
việc làm” do tác động của đại dịch Covid-19 chiếm tỷ lệ 66,7% trong tổng số người
được hỏi[5]. Đây là chỉ báo
tích cực cho thấy tính hiệu quả của Chương trình tín dụng hỗ trợ việc làm[6],
duy trì và mở rộng việc làm của Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng.
Theo thống kê, nguồn vốn tín dụng việc làm liên tục tăng
theo các năm để giải quyết nhu cầu vay vốn cho cư dân Thành phố. Tính đến cuối
năm 2020, tổng nguồn vốn vay của Ngân hàng đạt 2.866,929 triệu đồng, tăng
1.365,322 triệu so với năm 2016. Trong đó, nguồn vốn cân đối từ Trung ương là
1.617,241 chiếm 56,41% tổng nguồn vốn;
nguồn vốn nhận ủy thác địa phương đạt 1.249,688 triệu, chiếm 43,59% tổng
nguồn vốn. Ngoài nguồn vốn Trung ương điều
chuyển, UBND Thành phố và UBND quận, huyện đã có sự quan tâm hỗ trợ chuyển vốn
sang Ngân hàng để cho vay chương trình tín dụng của địa phương (gọi là Vốn nhận
ủy thác địa phương), mặc dù năm 2016 nguồn vốn nhận ủy thác địa phương chỉ chiếm
một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn 12,02% song được thực hiện 100% so với kế
hoạch. Qua các năm (2016-2020) nguồn vốn nhận ủy thác địa phương tăng cao vượt
bậc từ chiếm tỷ lệ 12,02%/tổng nguồn vốn
năm 2016 tăng lên 43,59%/tổng nguồn vốn năm 2020, chủ yếu là nguồn vốn UBND thành phố ủy thác hàng năm bình quân
tăng lên 253.000 triệu.
Bảng 1: Số liệu nguồn vốn vay giai đoạn 2016-2020
ĐVT: triệu đồng, %
STT |
Chỉ tiêu |
Năm 2016 |
Năm 2017 |
Năm 2018 |
Năm 2019 |
Năm 2020 |
|||||
Số tiền |
Tỷ trọng (%) |
Số tiền |
Tỷ trọng (%) |
Số tiền |
Tỷ trọng (%) |
Số tiền |
Tỷ trọng (%) |
Số tiền |
Tỷ trọng (%) |
||
|
NGUỒN VỐN |
1.501.607 |
100,00 |
1.676.262 |
100,00 |
2.032.260 |
100,00 |
2.402.427 |
100,00 |
2.866.929 |
100,00 |
A |
NGUỒN VỐN TW |
1.321.160 |
87,98 |
1.348.578 |
80,45 |
1.415.320 |
69,64 |
1.519.948 |
63,27 |
1.617.241 |
56,41 |
I |
TW chuyển |
1.190.771 |
79,30 |
1.169.713 |
69,78 |
1.194.448 |
58,77 |
1.244.108 |
51,79 |
1.254.267 |
43,75 |
II |
Huy động cấp bù |
130.389 |
8,68 |
178.865 |
10,67 |
220.872 |
10,87 |
275.840 |
11,48 |
362.974 |
12,66 |
1 |
Tổ chức-cá nhân |
12.450 |
0,83 |
37.750 |
2,25 |
53.404 |
2,63 |
82.702 |
3,44 |
131.542 |
4,59 |
2 |
Tổ TK&VV |
117.938 |
7,85 |
141.114 |
8,42 |
167.468 |
8,24 |
193.138 |
8,04 |
231.432 |
8,07 |
B |
NHẬN ỦY THÁC ĐỊA PHƯƠNG |
180.447 |
12,02 |
327.685 |
19,55 |
616.940 |
30,36 |
882.479 |
36,73 |
1.249.688 |
43,59 |
1 |
Ngân sách thành phố |
170.097 |
11,33 |
310.097 |
18,50 |
586.856 |
28,88 |
834.257 |
34,73 |
1.182.145 |
41,23 |
2 |
Ngân sách quận, huyện |
10.350 |
0,69 |
17.588 |
1,05 |
30.084 |
1,48 |
48.222 |
2,01 |
67.543 |
2,36 |
Nguồn: Thống kê của Ngân hàng
chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng
Qua
số liệu thống kê trên cho thấy, tổng nguồn vốn cho vay đều tăng qua các năm (năm 2017 tăng 174,656 triệu
so với năm 2016, năm 2018 tăng 355,998 triệu so với năm 2017, năm 2019 tăng
370,167 triệu so với năm 2018, năm 2020 tăng 464,502 triệu so với năm
2019); Nguồn vốn Trung ương chuyển về
qua các năm tăng trưởng thấp hơn so với nguồn vốn nhận ủy thác địa phương. Điều
này cũng cho thấy sự chú trọng của chính quyền Thành phố trong thực hiện công
tác an sinh xã hội nói chung, tăng cường vốn tín dụng nhằm đảm bảo sinh kế cho
người dân trên địa bàn thành phố nói riêng.
Bên cạnh đó,
kết quả thống kê còn cho thấy, hoạt động tín dụng trong giai đoạn 2016- 2020 của
Ngân hàng đã có sự tăng trưởng vượt bậc, từ 3 chương trình nhận bàn giao ban đầu
khi mới thành lập, đến cuối năm 2020 Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng
đã thực hiện 14 chương trình tín dụng từ nguồn vốn Trung ương và 6 chương trình
tín dụng từ nguồn vốn nhận ủy thác địa phương. Đối tượng thu hưởng chính sách
đa dạng hơn; khối lượng tín dụng hàng năm tăng trưởng cao. Qua 5 năm
(2016-2020) đã cho vay 4.390 tỷ, doanh số cho vay năm sau cao hơn năm trước, với
mức bình quân/khách hàng 39 triệu; doanh số thu nợ qua 5 năm 2.830 tỷ, năm 2020
doanh số thu nợ tăng 108% so với năm 2016; cho thấy ngân hàng thực hiện tốt công tác đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, giải
ngân cho vay các chương trình tín dụng chính sách đạt hiệu quả. Tổng dư
nợ đến 31/12/2020 đạt 2.861 tỷ, tăng 1.363 tỷ so với năm 2016, trên 70.812 lượt
hộ nghèo và đối tượng chính sách có quan hệ vay vốn ở tất cả các xã, phường trong
thành phố; quy mô dư nợ tăng hàng năm do tang mức vay bình quân trên một khách
hàng, cụ thể mức vay trên một khách hàng năm 2016 chỉ là 29 triệu đồng, năm
2017 là 32 triệu đồng, năm 2018 là 39 triệu đồng, năm 2019 là 43 triệu đồng,
năm 2020 là 46 triệu đồng tang 17 triệu/khách hang so với năm 2016 (tăng 59%).
Mức vay trên một khách hàng tăng tạo điều kiện cho các khách hàng đủ vốn mở rộng
quy mô sản xuất-kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh phù hợp với sự phát triển kinh tế của địa phương.
Bảng
2: Tình hình hoạt động tín dụng của Ngân hàng giai đoạn 2016-2020
Đvt: triệu đồng
Chỉ tiêu |
Năm 2016 |
Năm 2017 |
Năm 2018 |
Năm 2019 |
Năm 2020 |
Năm 2020 so với năm 2016 |
|
(+/-) |
% |
||||||
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
(6) |
(7)=(6)-(2) |
(8)=(7)/(2) x 100 |
Doanh số cho vay |
585.530 |
607.401 |
903.422 |
1.076.988 |
1.217.638 |
632.108 |
108 |
Số lượt khách hàng
vay |
20.308 |
19.096 |
23.275 |
24.781 |
26.498 |
6.190 |
30 |
Mức vay bình quân/khách
hàng |
29 |
32 |
39 |
43 |
46 |
17 |
59 |
Doanh số thu nợ |
395.854 |
430.694 |
545.264 |
704.605 |
753.162 |
357.308 |
90 |
Dư nợ cho vay |
1.498.331 |
1.672.912 |
2.028.293 |
2.397.743 |
2.861.424 |
1.363.093 |
91 |
Nợ quá hạn |
4.604 |
4.629 |
4.093 |
3.037 |
2.574 |
-1.829 |
-40 |
Nợ khoanh |
2.104 |
1.808 |
1.514 |
156 |
45 |
-2.059 |
-98 |
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) |
0,31 |
0,28 |
0,20 |
0,13 |
0,10 |
-0,13 |
-44 |
Tỷ lệ nợ xấu (%) |
0,45 |
0,38 |
0,28 |
0,13 |
0,10 |
-0,29 |
-64 |
Nguồn: Thống kê của Ngân hàng
chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng
Nhìn vào bảng
số liệu trên cho thấy nợ quá hạn, nợ khoanh giảm dần qua các năm cả về số tuyệt
đối và tương đối. Năm 2016 tỷ lệ nợ quá hạn quá cao 0,31%, nợ khoanh 0,45% đến
cuối năm 2020 tỷ lệ nợ quá và nợ khoanh chỉ còn 0.1%. Đây là tín hiệu đáng mừng
trong công tác quản trị rủi ro cho vay các chương trình tín dụng ưu đãi tại Chi
nhánh.
Chỉ tính
riêng kết quả hoạt động tín dụng năm 2020 thì dư nợ cho vay các
chương trình là 2.861,424 tỷ, tăng 463,681 tỷ; trong đó tỷ lệ dư nợ từ nguồn vốn
Trung ương/tổng dư
nợ giảm từ 63,61% năm 2019 xuống còn 59,55% năm 2020; cơ cấu dư nợ các chương
trình chủ yếu dư nợ cho vay giải quyết việc làm tăng lên chiếm 36,04; cho vay
nhà ở xã hội 5,23%; cho vay Nước sạch vệ sinh và môi trường nông thôn 5,42%;
Cho vay hộ nghèo, cho vay Hộ cận nghèo, cho vay hộ mới thoát nghèo, cho vay học
sinh sinh viên dư nợ giảm so với năm 2019. Ngoài ra, dư nợ từ nguồn vốn địa phương tăng từ
36,39% năm 2019 lên 40,45% năm 2020, cơ cấu dư nợ các chương trình chủ yếu cho
vay giải quyết việc làm tăng lên chiếm 23,86%; cho vay nhà ở xã hội tăng chiếm
4,05%; cho vay các chương trình chỉ định của địa phương chiếm 4,83%, cho vay hộ cận nghèo giảm chiếm 2,46%;
cho vay hộ nghèo 2,52%;cho vay hộ mới thoát nghèo chiếm 2,64%.
Nhìn chung, qua 5 năm (2016-2020), doanh số cho vay,
doanh số thu nợ, dư nợ đều có sự biến động tăng tương đối đồng đều, doanh số
thu nợ năm 2020 tăng 90%, doanh số cho vay tăng 108%, dư nợ tăng 91% so năm
2016, cho thấy Ngân hàng thực hiện tốt công tác đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, giải
ngân cho vay các chương trình tín dụng chính sách đạt hiệu quả.
2.2. Một số kết quả nổi bật
Với cơ chế quản trị, điều hành cũng như cơ cấu vốn, vơ cấu
tổ chức phù hợp cộng với sự phối hợp, chỉ đạo quyết liệt của chính quyền thành
phố Đà Nẵng đã phát huy được vai trò lãnh đạo, quản lý tập trung các cấp ủy Đảng
và chính quyền trong công cuộc giảm
nghèo, thực hiện chính sách an sinh trên địa bàn; đảm bảo đồng vốn phục vụ đúng
đối tượng thụ hưởng và đúng mục đích, hướng đến đảm bảo sinh kế, phục hồi kinh
tế sau đại dịch.
Thông qua phương thức ủy thác một số các tổ chức chính trị
- xã hội, việc thành lập các tổ Tiết kiệm và Vay vốn[7] đến từng khu phố/thôn,
khu vực, có sự tham gia giám sát của chính quyền địa phương, thực hiện giao dịch
tại phường/xã đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị chăm lo
cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách, đã tạo điều kiện giải quyết vốn vay kịp
thời cho người dân, việc quản lý vốn chặt chẽ, sâu sát hơn cùng với cơ cấu bộ
máy điều hành tác nghiệp ngân hàng gọn nhẹ nên đã tiết kiệm chi phí quản lý của
Nhà nước.
Đặc biệt khi triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW
ngày 22/11/2014 Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với tín dụng chính sách xã hội và Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 về Kế
hoạch triển khai Chỉ thị 40-CT/TW, nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng,
chính quyền và hội đoàn thể nhận ủy thác đã thay đổi một cách sâu sắc, quan tâm
đẩy mạnh thực hiện tín dụng chính sách xã hội. Nhờ vậy, hoạt động của Ngân hàng
đã không ngừng phát triển và ngày càng ổn định, nguồn vốn phục vụ cho hộ nghèo
và các đối tượng chính sách ngày càng tăng, chất lượng tín dụng ngày một tốt
hơn, các thủ tục vay vốn thuộc Chương trình tín dụng việc mà đơn giản hơn. Kết
quả khảo sát 1092 người vay vốn cho thấy: số người nhận định thủ tục là “đơn giản,
dễ tiếp cận” chiếm 99/4%, chỉ có một tỷ lệ nhỏ cho rằng “phức tạp” (0.6%) là
minh chứng cho vấn đề này.
Giai đoạn 2016-2020 Ngân hàng tập trung nguồn vốn cho vay
các chương trình hộ nghèo, hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo chiếm tỷ trọng trên
53%/tổng dư nợ, chương trình học sinh sinh sinh viên chiếm 18%, chương trình hỗ
trợ tạo việc làm chiếm 8% và các chương trình khác chiếm 21% và qua các năm có
sự chuyển biến thay đổi cơ cấu dư nợ các chương trình, đến năm 2020 cơ cấu
chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm chiếm tỷ trọng lớn 60%, chương trình
nhà ở xã hội bắt đầu triển khai từ năm 2018 cũng chiếm tỷ trọng 9%, chương
trình hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo giảm chỉ còn chiếm 15%, cho
vay học sinh sinh viên 5% và các chương trình khác chiếm 11%. Thông qua nguồn vốn
vay của Ngân hàng đã tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống, góp phần ổn
định tình hình kinh tế, xã hội tại địa phương, đặc biệt góp phần ngăn chặn tệ
cho vay nặng lãi ở nông thôn, tình trạng tín dụng đen[8],
giảm tỷ lệ hộ nghèo, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đảm bảo an sinh xã hội
và phát triển kinh tế xã hội cho Thành phố.
Nhìn chung, hoạt động tín dụng nói chung, tín dụng việc
làm và sinh kế cho người dân của Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội thành phố
Đà nẵng đã có những chuyển biến tích cực. Trong đó, có sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng
và việc tham gia trực tiếp của chính quyền cấp xã, phường; trưởng thôn (tổ dân
phố) vào việc bình xét cho vay, từ đó đồng vốn đến đúng đối tượng thụ hưởng, hầu
hết các hộ vay vốn phát huy được hiệu quả đồng vốn vay, sử dụng vốn đúng mục
đích, việc đôn đốc xử lý thu hồi nợ của các hội đoàn thể nhận ủy thác, tổ Tiết
kiện và Vay vốn thực hiện kịp thời; công tác tổ chức sắp xếp, nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ Tiết kiện và Vay vốn được chú trọng, tổ chức đối chiếu
công khai đến từng hộ vay; công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm đúng mức,
tăng cường công tác đi cơ sở, củng cố hoạt động tại các điểm giao dịch, phối hợp
với Hội đoàn thể tổ chức họp giao ban định kỳ, tổ chức đào tạo, tập huấn cho
cán bộ hội và tổ Tiết kiện và Vay vốn; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động
người dân nhằm nâng cao ý thức trả nợ và chấp hành nghiêm túc quy định của Ngân
hàng nên những hạn chế trong công tác tín dụng đã được phát hiện và chấn chỉnh
kịp thời.
2.3. Một số vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được đáng ghi nhận như đã phân
tích, hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, vướng mắc cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc và có giải
pháp tương ứng để khắc phục trong thời gian đến, góp phần thực hiện tốt công
tác an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
Một là, hoạt động
kiểm tra, giám sát của lãnh đạo Ngân hàng đối với cơ sở có lúc, có nơi còn hạn
chế; công tác phối kết với với chính quyền có lúc chưa nhịp nhàng. Một số lãnh
đạo địa phương (là thành viên Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng chính
sách xã hội theo quy định) chưa quan tâm quan tâm đúng mức và chỉ đạo quyết liệt
đến hoạt động tín dụng chính sách trên địa bàn phụ trách; còn tình trạng “giao
khoán” hoặc đùn đẩy công việc cho cấp phó hoặc cán bộ giảm nghèo, đồng thời
chưa sắp xếp thời gian một cách hợp lý để thực hiện kiểm tra, giám sát tại cơ sở.
Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình tín dụng việc làm cho cư
dân, chí ít trên một bình diện nào đó mà nói, tạo nên sự chậm trễ đối với hoạt
động vay vốn, hoạt động kiểm tra, giám sát.
Hai là, công
tác phối hợp giữa Hội, đoàn thể và Ngâm hàng chính sách xã hội tại một số xã/phường
chưa chặt chẽ, chưa thực hiện đầy đủ các nội dung được ủy thác, chất lượng hoạt
động Tổ Tiết kiệm và Vay vốn ở một vài nơi còn chưa tốt, chưa có hiệu quả tích
cực[9].
Một số cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là cấp cơ sở chưa xác định
rõ trách nhiệm thực hiện tín dụng chính sách xã hội là một nhiệm vụ chính trị
nên công tác phối hợp giữa đoàn thể và Ngân hàng chính sách xã hội tại một số
xã, phường chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên kiểm tra hoạt động của tổ Tiết kiệm
và Vay vốn cũng như kiểm tra việc sử dụng vốn của hộ vay; công tác củng cố kiện
toàn hoạt động của tổ Tiết kiệm và Vay vốn chưa kịp thời; chưa chủ động đôn đốc
hộ vay trả nợ khi đến hạn, nhất là nợ đến hạn theo phân kỳ. Hạn chế tối đa hiện
tượng “ôm vốn tín dụng chính sách rồi bỏ đi” như một số trường hợp vừa qua[10].
Ba là, một vài
nơi, cán bộ Ngân hàng chính sách chưa thực hiện tốt công tác báo cáo, tham mưu
kịp thời cho cấp ủy, chính quyền, Ban điều
hành-Hội đồng quản trị (đặc biệt là vai trò tham mưu, giúp việc của cán
bộ tín dụng đối với Chủ tịch UBND cấp xã). Chất lượng tín dụng tuy được cải thiện,
tỷ lệ nợ xấu ở mức tương đối thấp <0,1%, song vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn:vẫn
còn đơn vị xã, phường và hội, đoàn thể nhận ủy thác xã, phường có nợ quá hạn
trên 1%, chất lượng hoạt động của một số Tổ Tiết kiệm và Vay vốn chưa ổn định
nguyên nhân do tình hình kinh tế còn khó khăn, một số hộ dân không có nghề nghiệp
ổn định hoặc sử dụng vốn không có hiệu quả dẫn đến làm ăn thua lỗ… nên có một bộ
phận hộ dân đi nơi khác làm ăn, sinh sống không chịu trả nợ, trốn tránh gây khó
khăn lớn trong quản lý đôn đốc thu hồi nợ; một số hộ vay có khả năng nhưng chây
ỳ không trả nợ, hoạt động Tổ xử lý nợ khó đòi ở một số xã, phường chưa phát huy
hiệu quả…
Bốn là, việc phối
hợp, lồng ghép các chương trình, dự án, các hoạt động chuyển giao công nghệ,
đào tạo nghề với hoạt động tín dụng chính sách chưa được gắn kết, chưa phát huy
được hiệu quả. Hoạt động tín dụng chưa gắn và đi liền với hoạt động tuyên truyền,
phổ biến các kiến thức liên quan như lập kế hoạch về tài chính, kế hoạch tổ chức
sản xuất, kinh doanh, kiến thức về tiêu tụ sản phẩm; kiến thức về ngành nghề và
chuyển đổi việc làm; kiến thức về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi đối với cá
nhân/hộ vay vốn cho lĩnh vực nông nghiệp. Với thang đo từ 1 -5 tương ứng với mức
độ tăng dần cho từng lĩnh vực thì kết quả cho thấy: nhận định “Tôi đã được phổ
biến kiến thức về lập kế hoạch tài chính” có trị số trung bình cao nhất (M =
3.46); “Tôi đã được hỗ trợ các lớp kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi” có giá trị
thấp nhất (M = 2.59), đây là tín hiệu cho thấy hoạt động tuyên tuyền, hỗ trợ có
điểm sáng, điểm mờ. Điểm sáng chính là người dân đã đánh giá nhận được các hoạt
động, chương trình hỗ trợ trên nhiều lĩnh vực ở mức tương đối khá (giá trị M đều
lớn hơn mức trung bình). Trong đó, hoạt động “phổ biến kiến thức về lập kế hoạch
tài chính” là tốt nhất, điểm sáng nhất; hoạt động “hỗ trợ các lớp kỹ thuật trồng
trọt, chăn nuôi” là điểm mờ nhất; hoạt động “tham gia các lớp đào tạo, chuyển đổi
nghề” cũng còn tương đối hạn chế (M=2,84). Đó là những chỉ báo, là cón số minh
chứng để cơ quan chức năng và Ngân hàng chín sách xã hội nhìn nhận được hiện trạng
vấn đề để có phương án giải quyết, tăng cường trong thời gian đến.
3. Kết luận
Chính sách an sinh xã hội nói chung, Chương trình cho vay
hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm là “đòn bẩy” tiếp sức người
lao động, nhất là đối tượng bị tác động bởi đại dịch Covid-19 về việc làm, sinh
kế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Những thành quả đạt được trong thời gian qua
là đáng ghi nhận và phát huy nhưng các tồn tại, hạn chế cũng là “đơn đặt hàng”
cho lãnh đạo các cấp mà đặc biệt là Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng
cần nghiêm túc nhìn nhận để khắc phục, từng bước nâng cao tính hiệu quả của
dòng vốn tín dụng việc làm, cải thiện sinh kế và tăng thu nhập cho cư dân, góp
phần đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người, xứng đáng là thành phố “đáng sống”
Thời gian đến, cần nhiều giải pháp đồng bộ như tăng cường
hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách; rà soát nhu cầu vốn của chương
trình hỗ trợ việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, trong đó, quan tâm đến người
lao động địa phương, người lao động quay về từ các địa phương khác do tác động
của đại dịch Covid-19; mở rộng đối tượng là người lao động nhập cư có nhu cầu
vay vốn sản xuất kinh doanh. Cơ quan chức năng cần rà soát, tổng hợp, phối hợp
với Ngân hàng chính sách xã hội tiến hành triển khai Chương trình tín dụng việc
làm, giúp người dân ổn định cuộc sống, góp phần thực hiện tốt Chương trình “có
việc làm” thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2021-2025[11],
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thành phố theo hướng bền vững.
Tài liệu tham khảo chính
1. Báo cáo Kết quả điều tra dư luận xã hội
về “Tác động của dịch bệnh COVID-19 đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội
và đời sống nhân dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Ban Tuyên giáo, Số
08-BC/BTGTU.
2. Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng
năm 2020, Nxb Thống kê 2021.
3. UBND thành phố Đà Nẵng, Kế hoạch số
131/KH-UBND ngày 15 tháng 7 năm 2021 về Thực hiện Chương trình “có việc làm”
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 202-2025
4. UBND thành phố Đà Nẵng, Đề án thực hiện
chương trình “Thành phố 4 an” trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
5. Ngân hàng chính sách xã hội thành phố
Đà Nẵng, Báo cáo Tình hình hoạt động tín
dụng giai đoạn 2016-2020.
6. Kết quả xử lý số liệu thuộc đề tài “Đánh
giá hiệu quả Chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc
làm tại Chi nhánh NHCSXH thành phố Đà Nẵng” do Sở Khoa học và Công nghệ giao, cơ quan tổ chức thực hiện
là Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Đà Nẵng.
TS. Phạm Đi
[1]Thành ủy Đà Nẵng, Báo cáo số 530-BC/TU
“Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI
trình Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2020-2025”.
[2] Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng năm
2020, Nxb Thống kê 2021.
[3] UBND thành phố Đà Nẵng, Kế
hoạch số 131/KH-UBND ngày 15 tháng 7 năm 2021 về Thực hiện Chương trình “có việc làm” trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 202-2025
[4]
Sau đây, trong một số trường hợp cụ thể, gọi tắt là “Ngân hàng”
[5] Số
liệu khảo sát từ 1092 mẫu đối với các cá nhân và hộ vay vốn trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ Chương trình tín dụng hỗ trợ việc làm, duy trì và mở rộng việc
làm của nhóm nghiên cứu thuộc Đề tài “Đánh
giá hiệu quả Chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc
làm tại Chi nhánh NHCSXH thành phố Đà Nẵng”.
[6]
Sau đây gọi tắt là “Chương trình”
[7] Mô
hình các Tiết kiệm và Vay vốn là mô hình mang tính đặc thù (thậm chí là duy nhất)
của Ngân hàng chính sách xã hội. Cho đến thời điểm hiện tại, Tổ tiết kiệm và
vay vốn hoạt động rất hiệu quả, nhất là trong công tác bình xét đối tượng được
tiếp cận vốn ở cơ cở. Theo kết quả sảo sát, đa số người được hỏi cho rằng việc bình xét của Tổ tiết kiệm và vay vốn là
“đơn giản” và “rất đơn giản” (94.3%), chỉ có một tỷ lệ nhỏ cho rằng “phức tạp” (5.7%), không có ai trong mẫu điều tra nhận định
“rất phức tạp”. Điều này cho thấy các thủ tục hành chính, cách thức bình xét đối
tượng vay được các Tổ vay vốn và tiết kiện thực hiện rất tốt.
[8] Có đến 36% số người được hỏi cho rằng, nếu
không vay được vốn của Ngân hàng chính sách xã hội thì tôi và gia đình có thể
vay nóng hoặc “tín dụng đen” để giải quyết vấn đề trong cuộc sống và duy trì việc
làm.
[9] Theo kết quả khảo sát, với mức đánh giá từ
thấp đến cao (tương ứng với 1 đến 5) về “thái độ của Tổ tiết kiệm và Vay vốn” ở
từng địa bàn Quận của thành phố thì kết quả trung bình thứ tự các quận Hải
Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Hòa Vang, Cẩm Lệ là 4,70;
4,41; 4,14; 4,48; 4,74; 4,33; 3,78. Khoảng cách điểm trung bình của Hải Châu và
Cẩm lệ gần 1 điểm trung bình; kết quả kiểm định so sánh giữa hai địa phương này
cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p=0.000).
[10]
Tham kiến: https://baodanang.vn/channel/5404/201803/von-tin-dung-chinh-sach-nhieu-truong-hop-vay-nhung-khong-tra-2592314/
[11]
Tham kiến: UBND thành phố Đà Nẵng, Kế hoạch
131/KH-UBND ngày 15 tháng 7 năm 2021 Về
thực hiện chương trình "có việc làm" trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2021-2025.
Nhận xét
Đăng nhận xét