KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG THỂ CHẾ, CƠ CHẾ ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG

1. Nội dung thể chế, cơ chế đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận ở một số quốc gia trên thế giới

1.1. Trung Quốc với việc ứng phó với các quan điểm sai trái trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng

1.1.1. Vai trò quan trọng của mặt trận tư tưởng, lý luận

Đảng cộng sản Trung Quốc đã xác định linh hồn và chủ thể của hình thái ý thức chính là giá trị hạt nhân tư tưởng của Chủ nghĩa xã hội, có vai trò chi phối, định hướng, dẫn dắt toàn bộ hệ thống giá trị xã hội khác. Trong đó, hệ thống lý luận, tư tưởng, văn học, nghệ thuật là bộ phận tổ thành quan trọng của hình thái ý thức xã hội[1]. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, trong quá trình vận hành xã hội mà đặc biệt là quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực thì hình thái ý thức sẽ (và đã) không ngừng bị giao thoa, đan xen thậm chí là va đập. Đó chính là những thách thức, trở lực nhưng cũng là môi trường, điều kiện để hoàn thiện, củng cố và phát triển các luồng tư tưởng xã hội, lý luận xã hội, quan điểm xã hội ngày càng tốt hơn, có sức “chống chịu” mãnh liệt hơn và bổ sung những giá trị mới, phù hợp nhiều hơn.

Xây dựng, bảo vệ hình thái ý thức trở thành nhiệm vụ trọng yếu để bảo vệ sự “an toàn quốc gia”, do đó việc bảo vệ các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch được cho là việc làm “không cho phép ngừng nghỉ dù chỉ một giây”. Ngay từ khi bước vào ngưỡng cửa của thế kỷ XXI mà đặc biệt là sau công cuộc Cải cách mở cửa, xã hội Trung Quốc đã hình thành những mâu thuẫn và các luồng tư tưởng, ý kiến không thuận chiều, thậm chí trái chiều[2]; sự đấu tranh giữa các hình thái ý thức ngày càng phức tạp, căng thẳng.

Chính vì thế, Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XVII) Đảng cộng sản Trung Quốc đã xác định vấn đề an toàn văn hóa, tư tưởng, lý luận là một nhiệm vụ trọng yếu. Trong đó, an toàn về hình thái ý thức là một bộ phận tổ thành quan trọng. Từ góc độ nào đó mà nói, sự giải thể một hình thái ý thức có thể làm hủy diệt toàn bộ một thời đại. Chỉ thị của Hội nghị này chỉ rõ: nếu vận hành nền kinh tế không tốt có thể nảy sinh một số vấn đề nhưng nến vận hành hình thái ý thức không khôn ngoan sẽ phát sinh nhiều vấn đề hệ trọng. Trong phần Báo cáo Văn kiện Đại hội lần thức XVII của Trung Quốc với tiêu đề “Đẩy mạnh xây dựng một cường quốc về văn hóa Xã hội chủ nghĩa” đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng các hệ thống giá trị hạt nhân của chủ nghĩa xã hội trong đó các nhiệm vụ cụ thể là “định hướng, tuyên truyền về xây dựng một nhà nước phú cường, dân chủ, văn minh, hài hòa; tự do, bình đẳng, công chính, pháp trị; yêu nước, yêu nghề, niềm tin và hữu hảo”[3]. Để làm được điều đó, cần phải nâng cao vai trò của mặt trận tư tưởng, lý luận; không ngừng đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, vu khống nhằm hình thành các “giá đỡ”, “lưới an toàn” cho tư tưởng, lý luận và hình thái ý thức. Nói cách khác, đấu tranh với các luận điểm sai trái đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật, tư tưởng, lý luận nhằm định hướng và bảo vệ bản chất của hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa; đảm bảo một kết cấu vững chắc về kinh tế, văn hóa, chính trị, tưởng tưởng; bảo đảm tính định hướng và vai trò quan trọng của kiến trúc thượng tầng nhằm “chế độ hóa hệ thống tư tưởng”.

Muốn có những giá trị xác thực thì phải tiến hành đấu tranh với cái sai trái, nói cách khác, các giá trị xã hội có được chính là quá trình đấu tranh với những lệch lạc xã hội bởi cái giả, cái ác, cái xấu luôn tồn tại, đấu tranh và phát triển cùng với với cái chân, cái thiện, cái mỹ. Do đó, một mặt cần phải phát triển cái chân, thiện, mỹ thì mặt khác, cần phải đấu tranh với cái giả, cái ác, cái xấu. Tư tưởng, lý luận chính là nền tảng để ổn định chính trị và duy trì thể chế chính trị, là chất keo kết dính, cố kết xã hội.

1.1.2. Một số thách thức trên mặt trận lý luận, tư tưởng mà Trung Quốc đối diện

Từ sau công cuộc Cải cách mở cửa trở đi, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Trung Quốc ngày một nâng cao. Song song với đó, nhiều vấn đề xã hội cũng nảy sinh. Thực tế ở Trung Quốc cho thấy, cải cách sâu rộng về thể chế, các chính sách trong lĩnh vực thị trường càng làm giải phóng thêm tiềm lực phát triển cho thị trường. Thế nhưng, cũng chính vì thế, kinh tế thị trường với đặc điểm là theo đuổi tối đa hóa lợi ích cá nhân cũng đã hình thành nên những vấn đề thâm nhập vào và làm méo mó các giá trị trong đời sống xã hội mà biểu hiện của nó là mất cân đối trong cơ cấu lợi ích, phân hóa giàu nghèo, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn và phân hóa giữa các khu vực: trong những năm gần đây, chênh lệch trong phân phối thu nhập ở nước ta không ngừng gia tăng và đã tiếp cận đến mức báo động theo quy chuẩn quốc tế[4].

Trong 30 năm Cải cách mở cửa, bầu không khí xã hội ở Trung Quốc đã có nhiều chuyển biến vô cùng to lớn, môi trường chính trị ngày càng cởi mở, con người không còn bị trói buộc bởi những quy định giáo điều. Quan hệ giữa con người với con người ngày càng bình đẳng hơn, các thành viên xã hội đã có được nhiều quyền lợi trong đời sống một cách tự chủ hơn, tính lợi ích của chủ thể cá nhân cũng ngày càng rõ nét hơn; việc mở rộng các điều kiện ấy cũng đã làm thay đổi một cách tương đối về thực trạng đơn nhất của hình thái ý thức, các tương tác và xung đột giữa các nét văn hóa và các trào lưu tư tưởng xuất hiện ngày càng nhiều[5], xuất hiện nhiều vấn đề trên mặt trận tư tưởng, chính trị. Cụ thể là:

Thứ nhất, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân (thực dụng, bản vị, tiêu dùng, bài nội,...). Tính tự chủ cả thể không ngừng mạnh lên. Cùng với sự yếu đi về hình thái ý thức truyền thống của nền chính trị thống soái là vấn đề giải thể chế độ đơn vị, chế độ công xã nhân dân, chế độ phân loại giai cấp và sự cởi trói về chế độ hộ tịch làm cho đời sống xã hội từng bước chế ước lại chế độ, tính tự chủ cá nhân không ngừng được gia tăng. Đối với các lĩnh vực như giải trí, tiêu dùng, hôn nhân cho đến các lĩnh vực như chọn nghề nghiệp, di cư, tư tưởng, quan niệm giá trị, văn hóa nghệ thuật…; quyền lợi khác như sự lựa chọn mang tính cá nhân, tính tự thiết kế của cá nhân cũng ngày càng được nâng cao, đặc biệt trong sống cá nhân, đời sống kinh tế và lĩnh tự tư tưởng cá nhân, không gian lựa chọn của cá nhân ngày càng được mở rộng, “mọi người có thể cảm nhận được một cách rõ ràng, trên nhiều phương diện, người Trung Quốc đã nắm giữ được vận mệnh của mình”[6].

Thứ hai, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa thực dụng không ngừng được mở rộng. Dưới tác động của cơ chế thị trường hóa, lý luận về cái tôi trung tâm ngày càng đề cao, chủ nghĩa thực dụng đã bước ra khỏi cấu trúc tư tưởng của bức tường đạo đức “trọng nghĩa khinh lợi” đã tồn tại hơn hai ngàn năm trong lịch sử. Về tổng thể, sự đồng cảm của con người đối chủ nghĩa tập quyền trung ương trên nền tảng gia trưởng và phương thức sống theo chủ nghĩa tập thể liên tục bị giảm sút, vốn xã hội truyền thống dần bị mất đi, cá nhân tự do thực hiện và tự do hành động đã trở thành giá trị phổ biến mà thanh tiếu niên theo đuổi, đối với những thanh niên Trung Quốc thuộc thế hệ “8x” thì tác động này là vô cùng sâu sắc.

Thứ ba, ý thức về quyền lợi của công dân ngày càng mạnh mẽ. Khát vọng về “dân chủ” của con người ngày càng rõ nét hơn, ý thức về “nhân quyền” cũng ngày càng nổi bật, những nhu cầu về những quyền lợi hợp pháp như bảo vệ tài sản cá nhân, quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận cũng được nâng cao, thay vì chấp nhận những tiêu cực hay nhận thức yếu kém, thiên lệch của cán bộ nhà nước trong thực thi pháp luật, chế định chính sách thì người dân đã bắt đầu biết sử dụng vũ khí pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân.

Thứ tư, các tổ chức xã hội phát triển nhanh chóng và trở thành bộ phần tổ thành quan trọng của xã hội. Từ sau cải cách mở cửa, các tổ chức xã hội đã phát triển một cách nhanh chóng, bao gồm sự phục hưng các tổ chức xã hội truyền thống và cả sự phát triển các tổ chức xã hội mới. Cơ chế vận hành của các tổ chức xã hội này chủ yếu là tự quản lý, tự phục vụ, tự chi trả, cố gắng duy trì tính độc lập của bản thân, thể hiện rõ nét tính tích cực về phương diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thành viên xã hội. Ngày 24 tháng 04 năm 2007, mạng thông tin Trung quốc đã đưa tin, theo số liệu thống kê của Bộ Dân chính, tính đến cuối tháng 12 năm 2006, số lượng các tổ chức tự phát trên phạm vi toàn quốc ước tính hơn 32 vạn tổ chức; theo tính toán của một số học giả, số lượng tổ chức dân gian tự phát của Trung Quốc có thể đạt 3 triệu tổ chức.

Thứ năm, xuất hiện những trào lưu mới, những quan điểm sai trái. Chẳng hạn các trào lưu “phi Mác” lý luận về đấu tranh giai cấp, trào lưu về chủ nghĩa hư vô, tranh luận về “tả-hữu”; tranh luận về văn hóa phổ thể, văn hóa đại chúng; các chiêu thức “thẩm thấu”, “ăn mòn”. Các trào lưu này khiến dẫn đến “sự khốn cảnh của tính tự chủ”. Điều này biểu hiện rõ nhất trong phân hóa về kết cấu xã hội, các nhóm sẽ có sự “đụng chạm” khi tiến hành truy cầu lợi ích bản thân, và do đó thiếu đi tính liên kết, hài hòa[7], và mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội khác nhau trong quá trình phân phối các nguồn lực ngày càng khó hòa giải hơn. Nhìn ở chiều cạnh sâu hơn, do tốc độ thị trường hóa nhanh chóng nên xã hội Trung Quốc đương đại phát sinh “khốn cảnh tính tự chủ”, vấn đề là làm thế nào để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, xây dựng trật tự xã hội[8]. Trước bối cảnh kinh tế thị trường và cải cách mở cửa, làm thế nào để kích hoạt các nguồn lực xã hội, ứng phó một cách hữu hiệu với “khốn cảnh tính tự chủ” và các “trào lưu tư tưởng” đã trở thành nhiệm vụ chiến lược quan trọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ mới của cải cách mở cửa.  

1.1.3. Một số giải pháp đấu tranh

Trước thực trạng về các vấn đề liên quan đến tư tưởng, lý luận, văn học, nghệ thuật cũng như những thách thức mà Trung Quốc phải đối diện đối với hình thái ý thức. Nhằm ứng phó, Trung Quốc xác định vừa phải đảm bảo một cơ cấu xã hội vững chắc bên trong và môi trường xã hội lành mạnh từ bên ngoài. Muốn làm được điều đó, Trung Quốc đã thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, hình thành cơ chế đấu tranh nhằm đảm bảo sự an toàn của hình thái ý thức. Như đã phân tích, các luồng tư tưởng, quan điểm mới ngày càng xuất hiện nhiều về số lượng, phức tạp về quy mô, đa dạng về chiều cạnh. Do đó, việc nghiên cứu một cách tỉ mỉ, khoa học để có những dự báo chính xác các tư tưởng, quản điểm có thể hình thành, phát triển và những tác động của nó đến đời sống xã hội trên bình diện hình thái ý thức. Bên cạnh đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn chỉ đạo và ban hành các cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động liên quan đến tư tưởng. Trong bối cảnh các trào lưu tư tưởng “trăm hoa đua nở” thì việc kiểm tra, giám sát, định hướng, thậm chí cảnh cáo, loại trừ những tư tưởng, quan điểm không phù hợp là một “loại vắc xin” đảm bảo cho cơ thể xã hội lành mạnh. Muốn làm được điều đó, phải tiến hành việc đánh giá, phân loại các luồng tư tưởng, kiểm soát chặt chẽ các thông tin trên mạng xã hội[9] nhằm định hướng các ý kiến, quan điểm trên các lĩnh vực của hình thái ý thức.

Hai là, hình thành các quan điểm, tư tưởng chủ đạo để dẫn dắt, định hướng. Dựa vào ngôn ngữ “cách mạng” để từng bước hình thành hình thái ý thức của Đảng một cách có chủ đích; các quan điểm văn hóa mới (so với giá trị văn hóa truyền thống) được hình thành và phát triển trên cơ sở định hướng chung, tránh “lệch lạc” về quan điểm, tư tưởng. Để làm được điều đó, Trung Quốc đã hình thành ý thức tổng thể, kết hợp các luồng ý kiến, tư tưởng trong và ngoài nước theo hướng tích cực để dẫn dắt các luồng tư tưởng (kể cả tư tưởng văn học, nghệ thuật); hình thành ý thức chính trị, xây dựng mạng lưới giám sát và quản lý chặt chẽ theo chiều dọc và chiều ngang; hình thành ý thức khoa học, dẫn dắt các tư tưởng quan điểm theo định hướng khoa học, “tiệm cận với khoa học”; hình thành ý thức đổi mới, dùng phương pháp phát triển, phương pháp lịch sử để định hướng các luồng tư tưởng, quan điểm; hình thành ý thức sáng tạo nhưng đảm bảo phải “nắm được quyền phát ngôn”.

Thứ ba, chuyển hóa từ sự “ứng phó” bị động đối với các luận điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn học sang thế chủ động. Một thời gian dài, Trung Quốc đã rơi vào thế “bị động” khi ứng phó với các “trào lưu” tư tưởng phản động, tiêu cực, sai trái theo kiểu “nóng đâu phủi đó”[10]. Do đó, việc chủ động “ứng phó” chính là biện pháp tốt nhất để đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái trên lĩnh vực hình thái ý thức (tư tưởng và lý luận). Sự chủ động thể hiện trên hai bình diện: (1) Cần phải nghiên cứu và dự báo một cách chính xác các trào lưu, tư tưởng có thể “du nhập” vào cơ thể xã hội mà chủ động đưa ra những loại vắc xin miễn dịch; (2) Không né tránh, hay ngại “va đập” các tư tưởng, quan điểm phản động, tiêu cực với các tư tưởng chính thống. Các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng, chính sự “va đập” đó, cái nào “cứng hơn”, “phù hợp hơn” sẽ tồn tại và phát triển. Một tác phẩm văn học hay nhưng không phù hợp (với văn hóa, lối sống, cách nhìn nhận, bầu không khí chính trị-xã hội,...) thì chắc hẳn sẽ không tồn tại được.

Thứ tư, tăng cường công tác văn hóa tư tưởng; phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong và ngoài nước. Để ứng phó với các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận văn hóa tư tưởng, không cách nào tốt hơn là tăng cường công tác văn hóa tư tưởng và phát huy nhân tố trí thức, vai trò của đội ngũ trí thức trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật. Với khẩu hiệu “3 gắn bó” là “gắn bó với cuộc sống, gắn bó với thực tiễn và gắn bó với quần chúng nhân dân”; tăng cường công tác chính trị, luôn ở thế chủ động; tăng cường tuyên truyền ý thức đại cục, nắm vững tính định hướng, củng cố địa vị chủ đạo về hình thái ý thức chủ nghĩa Mác-Lê Nin; hình thành dư luận tích cực về xây dựng một xã hội tiểu khang (no đủ). Từ sau Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, công tác tư tưởng và tuyên truyền về tư tưởng, quan điểm của Đảng được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng nhằm định hướng giá trị hạt nhân của chủ nghĩa xã hội, của xã hội tiểu khang. Cùng với đó là khôn ngừng cải cách các thể chế văn hóa, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu ngày càng cao của công chúng. Muốn làm được điều đó không thể không nói đến vai trò của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là một bộ phận của quần chúng nhân dân nhưng làm sao để họ với “phần còn lại của nhân dân” phải hợp thành một thể thống nhất, từ quần chúng nhân dân mà ra và quay về phục vụ lại nhân dân. Hơn thế nữa, tầng lớp trí thức phải tạo được uy tín với nhân dân để có tiếng nói định hướng về tư tưởng và các luồng ý kiến. Trung Quốc cho rằng, tầng lớp trí thức là “chủ thể ngôn ngữ của hình thái ý thức hiện đại” có sức hiệu triệu đối với quần chúng và tiếng nói cổ vũ cho công cuộc cách mạng của Đảng.

1.2. Mỹ với việc ứng phó với các quan điểm sai trái trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng

Với một cường quốc về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật như Mỹ thì đương nhiên, so với các nước Xã hội chủ nghĩa nói chung, Việt Nam nói riêng, Mỹ có lợi thế hơn khi dấu tranh bảo về hình thái ý thức của quốc gia mình. Cùng với sự chuyển biến của cục diện thế giới, Mỹ cũng có những điều chỉnh nhất định về đấu tranh với các luận điểm sai trái, chống đối trong và ngoài nước. Cách thức mà Mỹ đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, không có lợi cho sự phát triển cũng như bầu không khí xã hội trên các lĩnh vực của hình thái ý thức chủ yếu thể hiện trên những phương diện sau:

Thứ nhất, tăng cường quản lý truyền thông đại chúng. Chúng ta đều biết, vai trò của truyền thông đại chúng đối với xã hội nói chung, đối với định hướng các ý kiến, quan điểm, tư tưởng xã hội là vô cùng quan trọng. Truyền thông đại chúng vừa có chức năng cung cấp thông tin, vừa định hướng dư luận xã hội, vừa xã hội hóa con người để hình thành các giá trị quan, trong đó có quan niệm và lý tưởng chính trị. Mỹ đã từng sử dụng vị thế và vai trò của truyền thông để khống chế các trào lưu phản đối của thanh niên. “Các nhóm thanh niên này chỉ chú trọng đến khía cạnh văn hóa mà quên đi các phương diện khác của đời sống xã hội, chỉ chú trọng những nhân vật tinh anh mà quên đi những người khác trong xã hội… TV có vai trò quan trọng và là sức mạnh để điều chỉnh văn hóa và xã hội hóa con người[11]. Nhằm thực hiện chính sách bá quyền của mình, chính phủ Mỹ đã có chính sách truyên truyền về cái gọi là “Vai trò cảnh sát thế giới của Mỹ” để mỗi người dân Mỹ hiểu và có hành động ủng hộ những chính sách quân sự của họ. Đương nhiên, chính phủ Mỹ đã dùng sức mạnh của mình để “gây áp lực” và buộc truyền thông đại chúng phải “tuân thủ” theo chủ ý của họ, điều này người dân bình thường không nhận thức được, thậm chí nếu cần, họ tạo những “thông tin” giả tạo, vu khống để nhằm đạt được mục đích chính trị.

Không phải ngẫu nhiên mà chính phủ Mỹ đã không tiếc nhân lực, vật lực, tài lực để đầu tư cho hệ thống thông tin đại chúng trong nước mà đặc biệt là ở nước ngoài (như Đài tiếng nói của Mỹ, Đài phát thanh châu Âu tự do, Đài phát thanh Tự do, Tiếng nói của Mỹ,…) mà mục đích sâu xa chính là khuếch trương vị thế của Mỹ và định hướng các luồng tư tưởng, lý luận của các nước khác, trong đó có Việt Nam.

Thứ hai, núp bóng các hình thức dân tộc, tôn giáo như một “van an toàn” về tư tưởng, quan điểm. Đối với một số quốc gia và vùng lãnh thổ, tôn giáo gắn bó mật thiết với chính trị, do đó, họ “mượn” hình thái ý thức tôn giáo để định hướng yếu tố tinh thần, hình thái ý thức. Đương nhiên, tôn giáo luôn có hệ thống giáo lý, giáo luật và hệ thống đạo đức nhất định, do đó, những luận điểm sai trái, chống phá nếu “đụng” đến hệ giá trị tôn giáo thường bị phê phán kịch liệt, thậm chí lập tức bị bài xích. Không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm “Đất nước của chúng ta” Valter a. Lateber đã viết: “Nước Mỹ, với tư cách là một nhà nước thực hiện sứ mệnh của Thượng đế, trách nhiệm thành thánh của chúng ta là đưa phúc âm của nước Mỹ ra bên ngoài châu Mỹ”[12].

Thứ ba, chú trọng giáo dục quốc dân. Nước Mỹ rất chú trọng giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc cho học sinh, viên viên và toàn thể quốc dân. Thông qua các hoạt động thực tiễn trong và ngoài nhà trường nhằm “thẩm thấu” các tố chất đạo đức, tinh thần yêu nước; các quy phạm, chuẩn mực và niềm tin xã hội. Mỹ cũng là quốc gia “mượn” hình thái ý thức tôn giáo trong giáo dục quốc dân, giúp mỗi công dân “nội tâm hóa” tinh thần tôn giáo, thấm nhuần các giá trị đạo đức, luân lý của nước Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà không ít trường học ở Mỹ còn xây dựng các giáo đường bên trong trường học, cổ xúy cho học sinh tham gia các hoạt động tôn giáo, gắn tinh thần tôn giáo vào các lĩnh vực như văn hóa, văn học, nghệ thuật.

1.3. Hàn Quốc với việc ứng phó với các quan điểm sai trái trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng

Giáo dục đạo đức không chỉ là tiêu chuẩn giá trị quan trọng và văn hóa truyền thống của chúng ta mà, đối với Hàn Quốc, việc giáo dục đạo đức để hình thành ý thức dân tộc, “miễn dịch” với những tư tưởng, quan điểm sai trái, chia rẽ sự đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ cốt lõi trong giáo dục con người. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội với công cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng, chữ “hiếu” trong văn hóa hiếu đạo của người Hàn Quốc cũng dần mất đi, hiện tượng lệch lạc trong đời sống xã hội cũng tăng lên, các luồng tư tưởng, quan điểm trái sai trái cũng theo đó mà nảy sinh. Để “miễn dịch” và chủ động đấu tranh với các luận điểm phản động, sai trái, chính phủ Hàn Quốc đã cho biên soạn và phát hành rộng rãi các tác phẩm đạo đức, văn hóa nhằm định hướng hành vi con người như “Hiếu và giáo dục xã hội”, “Cha mẹ và giáo dục gia đình”, “Cách thức thực hiện chữ hiếu”, “Kéo dài chữ hiếu”, “Khái luận về hiếu học”, “Kinh thánh và hiếu”. Tất cả những động thái trên nhằm định hướng cho con người hình thành tư tưởng yêu người-kính Chúa, hiếu thảo với cha mẹ và người lớn, yêu thương trẻ em , yêu thương gia đình, tinh thần ái quốc và sẵn sàng lên tiếng đối với những trào lưu, tư tưởng “không phù hợp”.

Không dừng lại ở đó, Hàn Quốc còn “luật hóa chữ hiếu” thông qua “Luật hỗ trợ tài chính đối với hành vi hiếu thảo” (hiếu đối với cha mẹ, người lớn; hiếu đối với cộng đồng; hiếu đối với quốc gia). Đây là gợi ý tốt cho quá trình bảo vệ hình thái ý thức của chúng ta. Những hành vi có ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc; những luận điểm sai trái, không có lợi và trái với luân thường đạo lý cần phải bị lên án bởi dư luận xã hội và nếu có thể, bị trừng phạt với chế tài của luật pháp.

Ngoài ra, Hàn Quốc rất chú trọng vai trò của truyền thông đại chúng gắn với các nội dung về phim ảnh để định hướng hành vi con người. Hầu hết các phim của Hàn Quốc đều có nội dung tích cực về tình yêu thương con người, tình yêu quê hương đất nước, yêu nền văn học của mình. Có thể nói, đây là liều vác xin hữu dụng trong mặt trận phòng chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, nhằm lành mạnh hóa đời sống xã hội.

1.4. Bài học lịch sử trong bảo vệ hình thái ý thức của Liên Xô (cũ) và ý nghĩa đối với Việt nam

Sau khi nhà nước Liên Xô được thành lập,  ngay lập tức Liên xô đã xây dựng “phòng thủ an toàn” về hình thái ý thức Chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình thăng trầm của lịch sử cũng đã có nhiều bài học kinh nghiệm thành công và cả những bài học về sự thất bại. Nhiều phân tích cho thấy, Liên Xô sụp đổ là do 3 nguyên nhân chính: lũng đoạn về hình thái ý thức; lũng đoạn về quyền lực mà biểu hiện ở thể chế chính trị; lũng đoạn về lợi ích mà biểu hiện các nhóm lợi ích đi ngược với lợi ích chung. Do đó, nghiêm túc nhìn nhận và tổng kết những phương thức mà Liên Xô đã sử dụng để đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc cũng như đảm bảo sự an toàn về về hình thái ý thức sẽ là những gợi ý tốt cho chúng ta trong quá trình xây dựng và áp dụng những thể chế, cơ chế đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật.

Quá trình hình thành “bức tường an toàn” cho hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa của Liên Xô trải qua 5 giai đoạn: Thời kỳ Lê-Nin, giai đoạn thống nhất của Stalin, giai đoạn “rả đông” của Nikita Sergeyevich Khrushchyov, giai đoạn bắt đầu của sự biểu hiện “khác thường” của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Illich Brezhnev và giai đoạn kết thúc Mikhail Gorbachev. Mỗi thời kì đều có những nét riêng của nó.

Trong thời kỳ Lê Nin: Có thể nói, Lê Nin là lãnh tụ đầu tiên xem hình thái ý thức mà một biểu hiện đặc thù của con người, từ đó hình thành hình thái ý thức của chủ nghĩa Mác. Theo đó, Lê Nin cũng là lãnh tụ hình thành “Hình thái ý thức khoa học” và từ đây hình thành lòng tin về chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.Trong quá trình đấu tranh giữa “hình thái ý thức khoa học” và “hình thái ý thức giả tạo”, Lê Nin nhấn mạnh đến giáo dục ý thức chính trị và tính tích cực cho giai cấp công nhân nhằm duy trì chính quyền nhà nước, tránh sự công kích các các thế lực đối địch trong và ngoài nước. Có thể nói, đây cũng là gợi ý có giá trị trong công cuộc đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn học và nghệ thuật của nước ta hiện nay. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để phá hoại thành quả cách mạng, trong đó có việc “đánh” vào hệ tư tưởng, lý luận và vai trò lãnh đạo của Đảng; từng bước gây nên sự “thức tỉnh” của một số phần tử cơ hội, phản động. Do đó, con đường giáo dục tư tưởng chính trị, giữ vững lập trường chính trị và đạo đức xã hội luôn là bài học có giá trị thực tiễn.

Trong thời kỳ Stalin: “Mô thức Stalin” đã dần thay thế cho “Chính sách kinh tế mới” bằng những hoạt động phê phán để hướng sự chú ý và ý thức của công chúng vào quỹ đạo của hình thái ý thức một cách thống nhất. Đó là sự phê án quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Bukharin và trường phái Chủ nghĩa duy vật của Deborin; phê phán nhà lịch sử đảng Pokrovsky nhằm củng cố và tuyên truyền hình thái ý thức chủ nghĩa xã hội đến với các nước Xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ Nikita Sergeyevich Khrushchyov. Ngay sau khi lên nắm quyền Khrushchyov đã có những chính sách “rộng mở” về hình thái ý thức gây nên những “tiếng nói” khác nhau của các tầng lớp trong nước và đã có những phân hóa nhất định. Bằng quyền lực của mình, Khrushchyov đã áp chế tất cả những tư tưởng, quan điểm được cho là “không chủ lưu”, “trái chiều” và đồng thời đưa ra tư tưởng chiến lược là “Chung sống hòa bình, quá độ hòa bình và cạnh tranh hòa bình”[13]. Ông cho rằng, chủ nghĩa tư bản chính là khả năng của quá độ hòa bình cho các nước xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ, sự tranh luận gây gắt giữa hình thái ý thức tư bản và hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ Leonid Illich Brezhnev. Các quốc gia phương Tây và Mỹ bắt đầu thực thi chính sách “Diễn biến hòa bình” đối với các quốc gia xã hội chủ nghĩa, lúc này sự đấu tranh gây gắt giữa phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa về hình thái ý thức. Trên một bình diện nào đó mà nói, càng làm cho hình thái ý thức của Liên Xô được củng cố. Brezhnev đã trấn áp cái gọi là Mùa xuân Praha ở Tiệp Khắc và càng chú trọng hơn sự an toàn của hình thái ý thức Xô Viết.

Thời kỳ Mikhail Gorbachev. Gorbachev là người lấy cái gọi là lý luận “nhân đạo, dân chủ” của chủ nghĩa tư bản lúc thay thế cho chủ nghĩa Mác, và đồng nghĩa với việc không coi trọng hình thái ý thức của chủ nghĩa Mác. Điều này giúp cho một số phần tử phản đảng, chống chủ nghĩa xã hội có “cơ hội” trỗi dậy[14] và nguy cơ sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô là rất lớn và thực tế đã là như vậy.

Như vậy, những gì xảy ra ở Liên Xô liên quan đến khía cạnh tư tưởng, quan điểm nói riêng, hình thái ý thức nói chung cho chúng ta một số gợi ý trong vấn đề đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn học và nghệ thuật:

Một là, luôn coi trọng xây dựng hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa gắn với hệ tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác-Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương hướng của hình thái ý thức đúng hay sai, có hiệu quả hay không liên quan trực tiếp đến đại cục về định hướng tư tưởng của Đảng và Nhà nước bởi nó chẳng những định hướng tư tưởng mà còn hình thành tin thần dân tộc, niềm tin xã hội. Thực tiễn cho thấy, địa vị của một đảng chấp chính có được ổn định và duy trì hay không phụ thuộc rất lớn, thậm chí tiên quyết đến việc củng cố, phát triển hình thái ý thức xã hội tương ứng. Từ thực tế Liên Xô cho thấy, sự “biến động” và sụp đổ của Liên Xô bắt đầu từ hình thái ý thức mà chính xác là từ “điểm yếu chết người” của hình thái ý thức. Do đó, chúng ta cần phải có thái độ nhạy cảm chính trị cao độ, cần làm rõ và cho nhân dân thấy được một cách tường minh bản chất của các kiểu tư tưởng, lý luận bị che đậy bởi “lớp nhung”, được ngụy trang bởi những mỹ từ, bị sơn phủ bởi những lớp sơn bóng nhoáng của “tiến bộ, dân chủ”.

Hai là, coi trọng tính thời đại của hình thái ý thức, các kiểu tư tưởng, quan điểm mới. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho chúng ta thấy rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tức là, hình thái ý thức cần phải phát triển, biến chuyển cùng với tồn tại xã hội, cần phải “theo kịp bước chân của thời đại”. Do đó, cần phải dùng những ngôn ngữ mới nhất, ngôn từ chính xác nhất để truyền nguồn năng lượng thời đại, định hướng các luồng tư tưởng mới cho nhân dân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hình thái ý thức Liên Xô trước đây chính là sự “không tương thích” với thời đại, với quốc tình; tức là làm cho khác xa giữa lý luận với thực tại xã hội, là mất dần niềm tin của hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa.  

Ba là, luôn chú đến những xung đột và đấu tranh giữa các luồng tư tưởng, quan điểm và kịp thời định hướng. Từ thực tiễn của Liên Xô cho thấy, chủ nghĩa tư bản luôn “dẫn dụ và công kích” lĩnh vực tư tưởng, luôn khếch đại và tô đậm các mặt trái của đời sống xã hội và các luồng tư tưởng xã hội, “khơi quật” nền tảng ý thức của nhà nước xã hội chủ nghĩa, mượn vấn đề nhân quyền, môi trường, mạng internet và các mỹ từ như “hòa bình, ổn định, bình đẳng, dân chủ” để “quạt” lên ngọn lửa phong trào phản đối; công kích chủ nghĩa xã hội, nói xấu lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tất cả nhằm khiến cho các dòng tư tưởng chính thống bị lung lay, hình thành các “sự kiện”, “sự biến” trong đời sống xã hội. Do đó, cần phải kịp thời và tỉnh táo phát hiện và có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các tư tưởng, quan điểm sai trái, không có lợi cho cách mạng nước nhà.

Chính lẽ đó, sự đấu tranh giữa các hình thái ý thức, các luồng tư tưởng trong nước là không thể xem nhẹ. Cũng cần cảnh giác với các “giá trị vĩnh hằng, giá trị phổ thế” mà các thế lực thù địch reo rao. Cần thận trọng với cái vỏ bọc “phổ thế” mà cần hơn nữa, luôn gương cao ngọn cờ và thành quả của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã lựa chọn, xây dựng; hình thành hệ giá trị hạt nhân của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự an toàn hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian đến.

2. Một số gợi ý về chính sách đối với Việt Nam

Sau 44 năm đất nước được thống nhất và 33 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả trên tất cả lĩnh vực, trong đó lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật. Tuy nhiên, con đường phát triển phía trước của đất nước không phải chỉ toàn những thuận lợi mà có không ít những khó khăn; không phải có có cơ hội mà còn nhiều thách thức. Trong đó, khó khăn và thách thức trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ hình thái ý thức không phải là ít. Từ những kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực đấu tranh với các luận điểm, tư tưởng sai trái, phản động như đã phân tích, chúng ta rút ra một số gợi ý sau:

2.1. Về cơ chế, chính sách

Xây dựng cơ chế dự báo các luồng tư tưởng, các chủ thuyết, các trào lưu có thể hình thành và du nhập vào nước ta. Trong xu thế toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ như hiện nay, cùng với đó là sự phát triển với tốc độ chóng mặt của truyền thông xã hội thì việc xuất hiện các quan điểm, tư tưởng, chủ thuyết mới, “lạ” luôn tiềm ẩn. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, cùng với việc “ngăn chặn”[15] các thông tin, chủ tuyết sai trái, thù địch thì vấn đề dự báo và tiến hành giáo dục tư tưởng, chính trị để “miễn dịch” với các vấn đề nói trên. Trong đó, chú trọng đến 3 yếu tố cốt yếu là quy phạm hóa, khoa học hóa và thể chế hóa để hình thành “bức tường lửa an toàn cho hình thái ý thức quốc gia.

Đứng trước thách thức của vấn đề tư tưởng, quan điểm sai trái có nguy cơ đe dọa đến vấn đề lệch lạc trong nhận thức, trong đó có những luận điểm xuyên tạc nhằm bóp méo giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, thực tế giúp chúng ta nhận thấy, không ít người dân thậm chí cả đảng viên có những nhận thức sai lầm về quan điểm cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này cũng có một phần nguyên nhân từ việc chúng ta chưa chú trọng đúng mức đến các nghiên cứu và tuyên truyền giá trị của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho các tầng lớp nhân dân, cho đội ngũ cán bộ. Do đó, cần có chính sách thúc đẩy hơn nữa nghiên cứu việc vận dụng hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin và vận dụng vào cuộc sống thực tiễn. Vấn đề cốt lõi là, chúng ta dùng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-Lê nin đi nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê nin để ứng dụng vào đời sống hiện thực chứ tuyệt nhiên không phải đi “tô đậm”, “vo tròn” hay tuyệt đối hóa chủ nghĩa Mác-Lê nin, càng không thể giáo điều về chủ nghĩa Mác-Lê nin. Thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa cho thấy, cần phải tìm kiếm tư tưởng chỉ đạo chân chính, khoa học với sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với sứ mệnh thời đại, với lịch sử của từng quốc gia, dân tộc; đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính thực tiễn mới có thể xác lập được niềm tin vào hình thái ý thức chủ nghĩa xã hội.

Một vấn đề nữa cần quan tâm là, cần hình thành cơ chế, chính sách để định hướng các luồng dư luận, giúp cho nhân dân biểu đạt ý tưởng, quan điểm của mình một cách “đúng luật”. Các tư tưởng, quan điểm (chưa nói đến tính đúng - sai; tích cực - tiêu cực; chính thống-phi chính thống; số ít hay đa số; mới hay cũ,…) đều có những “giá trị” nhất định bởi đó là một biểu hiện của ý thức mang tính xã hội. Thông thường, những vấn đề dễ gây nên những tranh cãi, xung đột là vấn đề gắn với lợi ích (vật chất và tinh thần) của các nhóm xã hội. Do đó, các cơ quan hữu quan cần thiết lập cơ chế và tạo khung pháp lý để người dân biểu đạt ý kiến của mình. Điều này vừa giúp cho con người có “cơ hội” để trình bày ý kiến nhưng cũng chính là “van an toàn” giảm tải áp suất xã hội, càng giúp gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

2.2. Về nhận thức của cán bộ

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà Người nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn[16]. Do đó, từ việc xây dựng cơ chế chính sách đến các hành động cụ thể để tiến hành đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn học và nghệ thuật phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ cán bộ trên mặt trận này. Đầu tiên là cần có sự đồng thuận, thống nhất trong nhận thức của đội ngũ làm công tác tư tưởng, văn hóa - người “gác cổng” tâm hồn. Thực tiễn cho thấy, nếu chính những người làm công tác tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật chưa có sự thống nhất, thậm chí còn đối lập về quan điểm thì khó lòng định hướng đúng dư luận, khó lòng đấu tranh một cách triệt để đối với các tư tưởng, quan điểm sai trái. Thứ đến, cần hoàn thiện (cả về số lượng và chất lượng; trình độ và năng lực; kiến thức và kỹ năng; hành vi và thái độ) đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng. Nghiêm túc mà nói, những người làm công tác tư tưởng, văn hóa không thế “chắp vá”, “tạm thời” mà cần phải có trình độ, kỹ năng nghiệp vụ.

2.3. Công tác tuyên truyền

Kinh nghiệm lịch sử đã nói cho chúng ta một điều rằng, mặt trận tư tưởng, văn hóa gắn liền với công tác tuyên truyền, định hướng là mặt trận sống còn và đóng vai trò hết sức trọng yếu, một chính đảng giữ được sự lãnh đạo của mình khi nắm được, định hướng được hình thái ý thức, nếu không chiếm giữ thì lực lượng khác sẽ chiếm giữ. Nói cách khác, chúng ta cần phải đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền để định hướng các luồng tư tưởng, quan điểm và các xu thế trong xã hội. Trong thức thách về mạng xã hội hiện nay, cần phải quản lý và giám sát chặt chẽ các dạng truyền thông xã hội, đồng thời lựa chọn kênh truyền thông phù hợp, có sự lựa chọn của đa số người. Trong công tác tuyên truyền, tuyệt đối không cho phép sai lầm, nhất là sai lầm, ngộ nhận về hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần phải thay đổi nội dung, hình thức tuyên tuyền nhưng cũng đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, tính công chúng, tính định hướng, tính thời đại. Tuyên tuyền không nên “tô hồng” nhưng cũng không nên “theo đuôi” các luồng dư luận. Trong bối cảnh hiện nay, cần định hướng và quản lý tốt các phương tiện truyền thông nhất là báo hình về nội dung, hình thức. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, truyền thông xã hội “mạnh lên” một phần là do truyền thông đại chúng “yếu đi”, thậm chí chậm đổi mới.

2.4. Về ý thức pháp luật, ý thức khoa học

Kinh nghiệm của một số nước cho thấy, một trong những biện pháp hữu hiệu và có tầm chiến lược trong mặt trận đấu tranh ngăn chạn các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hóa, nghệ thuật,… chính là “ứng bó chủ động bằng hệ thống pháp luật, trong đó có chế tài nghiêm khắc đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm về lĩnh vực hình thái ý thức nêu trên. Trong đó, ngoài việc hình thành và hoàn thiện các cơ chế, chính sách còn có việc nâng cao ý thức pháp luật, ý thức khoa học cho nhân dân và tầng lớp trí thức. Trong điều hiện hiện nay, chúng ta không chỉ tăng cường công tác giáo dục, định hướng giá trị nhưng còn cần phải hình thành ý thức pháp luật, xây dựng thái độ bảo vệ sự an toàn đối với hình thái ý thức cho các tầng lớp nhân dân.

Hình thái ý thức, thông thường mà nói, thuộc phạm trù của tư tưởng, đạo đức, thế nhưng thực tiễn đã chứng minh, trong quá trình xây dựng tư tưởng, đạo đức cần phải thống nhất một cách biện chứng với lĩnh vực pháp luật, chính sách, kỷ luật, chế tài để định hướng hành vi con người, tránh những hành vi lệch lạc xã hội, đi ngược với lợi ích chung của cộng đồng.

Chúng ta đều biết, khi thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội, chính đảng cầm quyền chẳng những sử dụng công cụ mang tính thực tiễn, tức là thông qua thể chế và thực thi chế tài dể duy trì sự ổn định và trật tự xã hội, mà còn sử dụng những phương tiện mang tính quan niệm, tức là thông qua hình thái ý thức và các chế ước trên lĩnh vực tư tưởng để chế ước các quan niệm, tư tưởng theo một định hướng nhất định. Muốn vậy, cần phải hình thành ý thức tuân thủ pháp luật, biết giữ gìn và phát huy các giá trị mà cộng đồng cho là đúng, là tốt, là nên; biết phê phán, phản biện đối với các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; biết phân biệt được đâu là “hành vi mê muội” đâu là “hình vi khoa học”.

Vấn đề là, tư tưởng, quan điểm là những thứ “vô hình” ở trong đầu óc con người, rất khó “giới định” và “cân đo” một cách cụ thể; hơn thế nữa, giữa “tư tưởng” và “hành động” của con người đôi khi là “ngôn hành bất nhất”, vì vậy còn cần có những chế ước mang tính cưỡng chế đối với tư tưởng bằng công cụ pháp luật, nếu không những hình thái ý thức chủ đạo dễ bị thay thế bởi những va đập bởi các “trào lưu mới” nhưng phản khoa học, đi ngược lại với lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc.

2.5. Về vai trò lãnh đạo của Đảng về hình thái ý thức

Đảng ta là đảng cầm quyền, là người đại diện và lãnh đạo trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong bối cảnh hội  nhập quốc tế như hiện nay, sự đa dạng về văn hóa, tư tưởng và các chủ thuyết là không thể tránh khỏi nhưng không thể không nói đến vai trò định hướng hình thái ý thức của Đảng. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, vấn đề cốt lõi là tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài. Trong vấn đề xây dựng Đảng không chỉ cần định hướng ở tầm lý luận mà còn còn kết hợp với thực tiễn, nói cách khác, cần phải khắc phục những hạn chế yếu kém trong chính bộ máy của chúng ta như tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền vừa phải không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Sự thật bao giờ cũng chiến thắng bất cứ sự hùng biện nào. Nói cách khác, niềm tin xã hội sẽ được củng cố và nâng cao; các tư tưởng chống đối, phản động sẽ khó lòng làm lung lây ý thức của nhân dân khi chúng ta tiếp tục đảm bảo đời sống nhân dân ngày một tốt hơn; công tác an sinh xã hội được chú trọng; các vấn đề xã hội được giải quyết triệt để và nhanh chóng. Muốn vậy, Đảng cần lãnh đạo phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng sống cho nhân dân; giảm thiểu hiện tượng phân tầng và phân hóa xã hội; thực hiện công bằng xã hội. Công bằng mà nói, trong những năm gần đây chúng ta đã phát triển mà đạt được nhiều thành quả ngoạn mục nhưng so với các nước phát triển hãy còn một khoảng cách lớn. Bởi vậy, một mặt cần tăng cường hơn nữa để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân nhưng, mặt khác và quan trọng là, cần phải “chỉ ra” cho nhân dân thấy được những thành quả; giúp nhân dân hiểu được giá trị đích thực của cuộc sống ngày hôm nay; định hướng giá trị tính ưu việt của hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa để hình thành niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, đối với hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

TS. Phạm Đi

 



[1] Sau đây, trong những trường hợp cụ thể gọi tắc là “hình thái ý thức”.

[2] Tạ Thành Vũ, China’s current social trend of thought and the National ideology security research, Doctoral Dissertation, p.1-3

[3] Kiên định con đường chủ nghĩa xã hội màu sắc Trung Quốc, phấn đấu vì một xã hội tiểu khang, Nhân dân nhật báo, ngày 9 tháng 11 năm 2012.

[4] Phạm Đi (biên dịch), Sự biến đổi trong đời sống xã hội Trung Quốc, Nxb Lý luận chính trị, H.2019, tr.636.

[5] Phạm Đi (biên dịch), Sự biến đổi trong đời sống xã hội Trung Quốc, Nxb Lý luận chính trị, H.2019, tr.736-737.

[6] Deutsche Welle: “Học giả Đức bình luận về sự phát triển xã hội Trung Quốc”, www.singtaonet.com, năm 2007.

[7] Một vài nghiên cứu đã chú ý đến một điều, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, tập thể xã hội khác nhau đều biểu đạt lợi ích bản thân theo các phương thức khác nhau, các tập thể này đều có sự khác biệt khá lớn về nhận thức lợi nhuận, khả năng biểu đạt lợi nhuận của các tập thể khác nhau cũng có sự khác biệt lớn. Điều này trực tiếp dẫn đến vấn đề điều chỉnh lợi nhuận đang trở thành vấn đề có tính cơ cấu quan trọng của xã hội đương đại Trung Quốc. Có thể xem đọc Tôn Lập Bình: “Phân hóa xã hội và biểu đạt lợi nhuận, Báo cáo quan sát kinh tế” , ngày 22 tháng 03 năm 2003.

[8] Xem thêm Lý Hữu Mai: “Hình thành cơ chế hợp tác nhân loại trong bối cảnh toàn cầu”, xem thêm Tô Quốc Huân (Tập 1) “Lý luận xã hội”, NXB Văn hiến khoa học xã hội, xuất bản năm 2005.

[9] Cần phải nhắc lại rằng, hiện Trung Quốc không cho phép các mạng xã hội như Facebook, Youtube, Zalo,….nhưng họ có những công cụ hỗ trợ “tương tự” để người dân chia sẻ thông tin và nhà chức trách dễ dàng quản lý các thông tin này.

[10] Tôn Dân, Thực chất của lý luận quyền lãnh đạo về hình thái ý thức, Tạp chí Nhà khoa học xã hội, 2016 (10).

[11] Quách Trác Minh, Nghiên cứu chuyên đề về tư tưởng xã hội, Nxb KHXH Trung Quốc, năm 2012, tr.155

[12] Valter a. Lateber, The New Empire, California State University Press, 1963, p.77

[13] Tạ Thành Vũ, China’s current social trend of thought and the National ideology security research, Doctoral Dissertation, p.88.

[14] Tạ Thành Vũ, China’s current social trend of thought and the National ideology security research, Doctoral Dissertation, p.89.

[15] Tuy nhiên, nỗ lực ngăn chặn sẽ không có hiệu quả khi mà dòng thông tin khổng lồ như dòng thác đổ vào cuộc sống hằng ngày trong đời sống người dân. Vấn đề lớn nữa là, những ngăn chặn nếu không “tận gốc” sẽ làm tăng thêm tính tò mò, hiếu kỳ.

[16] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, H.2004, tập 5, tr 240 và 296

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ