TAI BIẾN THIÊN NHIÊN, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG: NHÌN TỪ THỰC TRẠNG CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TAI BIẾN THIÊN NHIÊN, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG: NHÌN TỪ THỰC TRẠNG
CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1. Đặt vấn đề
Hệ thống
sinh thái đô thị có vị trí cực kỳ quan trọng đối với con người và đối với toàn
bộ tiến trình phát triển của một đô thị. Chỉ cần một “biến cố” (dù nhỏ hay lớn,
dù khách quan hay chủ quan, dù liên tục hay gián đoạn,..) cũng có thể tác động
đến “cơ thể đô thị” và gây nên những hệ quả tiêu cực. Trong đó, những hiện tượng
như tai biến thiên nhiên, biến đổi khí hậu và các sự cố môi trường là “biến cố”
không thể tránh khỏi nhưng có thể lường trước xu hướng và có giải pháp tương ứng
để giảm nhẹ tác động, khắc phục hậu quả, phục hồi “sức khỏe” cho cơ thể đô thị.
Toàn bộ
hoạt động sống (bao gồm hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất, hoạt động
vui chơi giải trí, hoạt động văn hóa, tâm linh,…) của con người được tiến hành
trong một môi trường sinh thái nhất định. Môi trường sinh thái đô thị bao gồm cả
môi trường sinh tồn (đất, nước, không khí,…), môi trường sản xuất (đầu vào, đầu
ra của quá trình sản xuất), môi trường xã hội (môi trường nhân văn, các giá trị,
chuẩn mực đạo đức). Từ giác độ quản lý nhìn nhận, quản trị môi trường sinh thái
đô thị, một mặt chống suy thoái, ô nhiễm môi trường từ những tai biến thiên
nhiên, biến đổi khí hậu và sự cố môi trường; mặt khác cần phải thông qua (và tiến
hành) các hoạt động “xanh hóa” để tạo môi trường xanh, sạch, đẹp. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, nhiều quốc gia và đô thị trên thế giới mặc dù luôn đề cập đến tăng
trưởng xanh, phát triển bền vững như do yếu kém (kể cả khách quan và chủ quan)
về công tác quản lý nên càng gây nên những hệ lụy cho môi trường sinh thái.
Rõ ràng,
trong quá trình phát triển của một quốc gia hay đô thị, mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhiều khi xung đột với mục tiêu bảo vệ môi trường, thậm chí do áp lực của
sự tăng trưởng mà nhiều đô thị đã bất chấp vấn đề môi trường và “phát huy” khẩu
hiệu “tăng trưởng trước, dọn dẹp sau” mà sau đó mới “bật ngửa” ra là, chỗ nào
cũng có rác thải, ngập lụt nội thị trầm trọng, tài nguyên đất, nước, không khí
bị ô nhiễm quá mức.
Chúng ta
nhận thức được rằng, suy thoái môi trường sinh thái và vấn đề ô nhiễm sẽ tác động
tiêu cực đến chất lượng sống của người dân, thậm chí là nhân tố làm suy giảm
năng lực sản xuất, thế nhưng như đã đề cập, áp lực của vấn đề tăng trưởng kinh
tế khiến nhiều nhà quản lý “tạm gác” vấn đề môi trường để “tập trung” cho sản
xuất. Do đó, quản lý môi trường sinh thái đô thị cần phải được chính quyền đô
thị trọng thị và quyết tâm thực hiện một cách nghiêm túc, chỉ có như vậy mới
nâng cao chất lượng sống cho nhân dân, tạo hình ảnh đẹp (và cũng là nhân tố
tích cực để hình thành “thương hiệu” của một thành phố) đối với du khách; phát
triển ngành kinh tế du lịch cho đô thị. Trong phạm vi của bài viết, thông qua
phân tích thực trạng về tai biến thiên nhiên, biến đổi khí hậu và sự cố môi trường
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây, chúng ta đưa một một số
kiến nghị mang tính giải pháp để giảm thiểu các rủi ro trong quá trình phát triển
đô thị, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đô thị xanh, bền vững.
2. Thực trạng vấn
đề tai biến thiên biên, biến đổi khí hậu và sự cố môi trường trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
2.1. Tai biến
thiên nhiên và biến đổi khí hậu
Việt Nam
là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và biến đổi
khí hậu. Đối với khu vực miền Trung nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng thì
bão và lũ lụt là thường xuyên và nguy hiểm nhất. Nếu làm một phép thống kê đơn
thuần thì cũng nhận thấy “tần số” phát sinh bão lũ của khu vực miền Trung là không
nhỏ (ước 6 đến 7 cơn bão một năm). Trong những năm gần đây, hiện tượng “mưa cực
đoan, nắng cực đỉnh”; xâm nhập mặn, sạt lở đất và các hiện tượng biến đổi khí hậu
khác gây nên những trở ngại, khó khăn cho sự phát triển của thành phố Đà Nẵng[1].
Đối với vấn đề tai biến thiên nhiên, trong những
năm gần đây ở Đà Nẵng chủ là bão, ấp thấp nhiệt đới, lũ lụt và hạn hán. Trong
đó, Bão và áp thấp nhiệt đới, trung
bình mỗi năm chịu ảnh hưởng trực tiếp 1 - 2 cơn bão trên cấp 10 và 1 - 2 đợt
lũ, lụt lớn trên mức báo động III. Năm 2018-2020, tình hình thời tiết thủy văn
tại khu vực Trung Trung Bộ có những đặc điểm đáng chú ý: Bão và áp thấp nhiệt đới
hoạt động trên Biển Đông nhiều hơn trung bình nhiều năm (TBNM) cùng kỳ. Riêng mùa lũ năm 2018, có sự khác biệt khá lớn so với quy luật nhiều năm. Dòng
chảy trung bình tháng ở mức thấp hơn TBNN. Mực nước trên hầu hết các sông trong
khu vực ở mức xấp xỉ, thấp hơn TBNN cùng kỳ. Đặc biệt mực nước thấp nhất trên một số sông đã xuống mức thấp nhất trong
chuỗi số liệu quan trắc: Sông Vu Gia tại Ái Nghĩa 1,64m (lịch sử: 1,81m), sông
Thu Bồn tại Giao Thủy 0,34m (lịch sử: 0,37m). Hạn hán, năm 2018, có tổng cộng
12 đợt nắng nóng, mức độ không quá gay gắt (nhiệt độ cao nhất là 39,50C) và
cũng không kéo dài (dài nhất từ 29/6-08/7 là 11 ngày). Nắng nóng xảy ra muộn
(11/4) và kết thúc muộn (ngày 27/9). Dòng chảy trên các sông khu vực Trung
Trung Bộ tương đối ổn định và hạ thấp dần. Lưu lượng dòng chảy trên các sông ở
mức thấp hơn TBNN (34%-61% so với TBNN cùng kỳ). Dẫn đến nước mặn xâm nhập sâu,
ảnh hưởng đến hoạt động cấp nước của nhà máy nước Cầu Đỏ[2].
Các ảnh
hưởng và tác động của tai biến thiên tai chủ yếu là gây chết người và làm hư hỏng nhà cửa, cơ sở hạ tầng và làm giảm năng suất
và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp. Thời tiết khắc nghiệt, cộng với
thiên tai dễ phát sinh và lây lan các bệnh truyền nhiễm, như: Sốt rét, sốt xuất
huyết, bệnh bạch cầu, sốt virus, viêm não virus, lỵ trực trùng, lỵ amip, tiêu
chảy, dịch cúm... ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Nhìn chung, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng những năm gần
đây tai biến thiên nhiên xuất hiện không nhiều nhưng mức độ tác động là rất lớn,
đã ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ phát triển
kinh tế-xã hội của thành phố Đà Nẵng[3].
Các dấu hiệu của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt.
Các hiện tượng cực đoan của khí hậu ngày càng gia tăng. Sự thay đổi lượng mưa
và nắng nóng kéo dài đã gây ra những ảnh hưởng lớn đến các hoạt động phát triển
cũng như sức khỏe của cộng đồng[4].
Để nâng cao “khả năng đáp ứng/thích nghi” với tai biến
thiên tai, lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã làm tốt công tác chỉ đạo bằng nhiều biện
pháp khác nhau. Một mặt, ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác phòng chống lụt
bão, tìm kiếm cứu nạn, ứng phó với hạn hán, từng bước kiện toàn bộ máy cơ quan
chuyên môn thuộc UBND thành phố, thể chế và cơ chế phối hợp liên quan đến công
tác phòng chống lụt bão. Ban chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn và
Ban chỉ đạo ứng phó đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả. Phê duyệt Kế hoạch
ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng thành phố Đà Nẵng đến năm 2020
(2012). Năm 2014, phê duyệt Phương án phòng chống và khắc phục hậu quả ứng với
các kịch bản thiên tai; Khắc phục sự cố môi trường sau bão, lũ trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng; Ban hành 02 sổ tay “Hướng dẫn phòng chống thiên tai” cho
chính quyền và cộng đồng. Mặt khác, cũng đã phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam, về
quản lý tổng hợp lưu vực sông Vu gia – Thu Bồn và vùng bờ Quảng Nam-Đà Nẵng. Phối
hợp với Đài Khí tượng thủy văn khu vực Trung Trung Bộ-Bộ Tài nguyên và Môi trường,
tiếp nhận thông tin dự báo thời tiết, thiên tai, cung cấp kịp thời diễn biến thời
tiết, thiên tai cho các cấp, các ngành và cộng đồng dân cư của Thành phố để chủ
động có các giải pháp phòng chống, ứng phó với thiên tai. Phối hợp với Tổng cục
Môi trường, thực hiện dự án “Giảm thiểu ô nhiễm và duy trì dòng chảy môi trường
biển” thông qua việc triển khai Quản lý tổng hợp lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn.
Song song với đó là công tác đầu tư cơ sở hạ tầng, hợp
tác quốc tế, ứng dụng khoa học công nghệ. Ngay từ
năm 2011, thành phố Đà Nẵng đã thành lập Trung tâm Phòng tránh và Giảm nhẹ
thiên tai hỗ trợ cho Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn trong
công tác phòng tránh giảm nhẹ thiên tai và thực hiện công tác nâng cao năng lực
ứng phó thiên tai cho cộng đồng. Tiếp nối nhiệm vụ chiến lược đó, một trong những
nhiệm vụ quan trọng cho giai đonạ 2021-2025 mà Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần
XXII của thành phố Đà Nẵng xác định là “Tăng
cường công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái” cũng đã cho
thấy sự nhận thức và quyết tâm của chính quyền thành phố đối với vấn đề tai biến
thiên nhiên, biến đổi khí hậu, ứng phó với các rủi ro đối với lĩnh vực môi trường.
2.2. Sự cố môi
trường
Xã hội phát triển kéo theo nhu cầu khai thác tài nguyên thiên nhiên là điều
không tránh khỏi, thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, nếu khai thác quá mức sẽ dễ làm
suy giảm, thậm chí kiệt quệ nguồn lực tự nhiên, và từ đó phát sinh các vấn nạn
về môi trường. Theo đó, suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường
sẽ hình thành với tính chất và quy mô nghiêm trọng hơn. Điều lưu ý là, những vấn
nạn này đều gây ảnh hưởng xấu cho con người và sinh vật và sự thay đổi của nó
chủ yếu do những tác động của con người tới môi trường. Do đó hầu hết mọi người
đều nhầm tưởng tất cả đều là ô nhiễm môi trường mà thực chất đó là các “sự cố
môi trường”. Khoản 10 điều 3 Luật Bảo vệ
môi trường (2014) xác định: “Sự cố
môi trường là sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động
của con người hoặc biến đổi của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi
môi trường nghiêm trọng”. Sự cố môi trường có thể xảy ra
do: (1) Bão, lũ, lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, sụt lở đất, núi
lửa phun, mưa axit, mưa đá, biến động khí hậu và thiên tai khác; (2) Hỏa hoạn,
cháy rừng, sự cố kỹ thuật gây nguy hại về môi trường của cơ sở sản xuất, kinh
doanh, công trình kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng; (3) Sự cố trong tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển khoáng sản, dầu
khí, sập hầm lò, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự
cố tại cơ sở lọc hóa dầu và các cơ sở công nghiệp khác; (4) Sự cố trong lò phản
ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản xuất, tái chế nhiên liệu hạt
nhân, kho chứa chất phóng xạ.
Trong những
năm gần đây mà cụ thể là giai đoạn 2016-2020, các sự cố môi trường trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng không nhiều về số lượng, không lớn về quy mô, không rộng về
phương diện/lĩnh vực. Cụ thể, các vụ cháy rừng có xu hướng giảm hơn so với các
giai đoạn trước (nguyên nhân của các các vụ cháy rừng trên địa bàn là do người
đi rừng thiếu ý thức như vứt tàn thuốc, đốt than, đốt rác... nên thời gian qua,
lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã chỉ đạo làm tốt công tác truyền thông, nâng cao ý
thức người dân nên ít nhiều giảm thiểu rủi ro chát rừng). Về sự cố ngập úng, số
điểm ngập úng có giảm qua các năm. Tuy nhiên vẫn còn 1 số điểm ngập úng do các
hệ thống bơm bị sự cố. Ngoài ra, trên địa bàn còn có một số sự cố tràn dầu (hầu
hết các sự cố xảy ra là do dầu trôi dạt từ nơi khác đến)[5]
.
3. Một số kiến
nghị mang tính giải pháp hướng đến giảm thiểu rủi ro thiên tai và ứng phó với
biến đổi khí hậu cho thành phố Đà Nẵng thời gian đến
3.1. Nhóm giải pháp phòng ngừa
Kinh
nghiệm cho thấy, một trong những biện pháp “ít tốn kém, hiệu quả cao” chính là
công tác phân vùng để bảo vệ môi trường. Một quốc gia, một địa phương hay một
thành phố cụ thể thì tính chất, mức độ, phạm vi, kiểu loại của rủi ro thiên
tai, thậm chí sự cố môi trường cũng không hoàn toàn giống nhau. Do đó, có thể
căn cứ vào mức độ và phạm vi tác động (qua phân tích số liệu lịch sự, thực chứng)
để phân chia các khu vực và tiến hành các biện pháp ưu tiên khác nhau. Đối với
Đà Nẵng, cần phân chia các ưu tiên cụ thể: (1) Ưu tiên 1 - Khu vực phát triển đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ: Xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư tập
trung, các trung tâm thương mai dịch vụ, khu sinh thái,… gắn với bảo vệ cảnh
quan cây xanh, mặt nước, xây dựng hệ thống xử lý nước thải, thu gom xử lý
chất thải rắn tập trung của mỗi khu chức năng; (2) Ưu tiên 2 - Khu vực ở sinh thái: Hình thành các khu dân cư với mật độ
xây dựng thấp, công viên sinh thái, phát triển hài hòa cảnh quan và môi trường.
Có các giải pháp thu gom và xử lý nước thải hiệu quả, đảm bảo các tiêu chí vệ
sinh môi trường; (3) Ưu tiên 3: Khu công nghiệp, công nghệ cao, logistics: Định hướng
phát triển công nghiệp sạch, không gây ô nhiễm môi trường, quan trắc định kỳ chất
lượng môi trường theo chương trình giám sát môi trường tổng thể và chi tiết.
Xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; (4) Ưu tiên 4 - Khu nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao: Định hướng phát triển ngành nông nghiệp sạch, chất lượng cao; Hạn
chế và sử dụng hợp lý, đúng kỹ thuật hóa chất bảo vệ thực vật, phân hóa học,…;
(5) Ưu tiên 5 - Khu dịch vụ du lịch:
Xây dựng các công trình phù hợp, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên, có biện
pháp thu gom, xử lý nước thải, chất thải phù hợp, hiệu quả, bảo đảm các tiêu
chí kỹ thuật, mỹ quan và môi trường; (6) Ưu
tiên 6 - Khu vực đất cây xanh: Cần được duy trì, phát triển, đầu tư
quy hoạch, thiết kế, tăng tính thẩm mỹ; trồng các loại cây phù hợp, ưu tiên sử
dụng các chủng loại cây trồng đặc trưng của thành phố và từng khu vực cụ thể
(theo khí hậu, thổ nhưỡng); có biện pháp chăm sóc hợp lý, hạn chế sử dụng hóa
chất; (7) Ưu tiên 7 - Khu vực nông nghiệp và dân cư nông thôn: Khuyến
cáo người dân sử dụng hợp lý hóa chất trong sản xuất nông nghiệp, từng bước tiến
dần đến phát triển nông nghiệp sạch; Xây dựng cộng đồng dân cư nông thôn theo
tiêu chí phát triển nông thôn mới, có lối sống lành mạnh, phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Song
song với đó, cần tăng cường công tác quản lý và giảm thiểu tác động môi trường
cho toàn thành phố bằng các “giải pháp công nghệ” và “giải pháp phi công nghệ”.
Đối
với giải pháp phi công nghệ cần: Tăng diện
tích cây xanh cách ly đảm bảo các tiêu chí kỹ thuật giữa các khu công nghiệp,
khu trung chuyển hàng hóa, đầu mối hạ tầng kỹ thuật, thương mại dịch vụ và khu
dân cư, khu vực đường sắt; Bố trí vệt cây xanh trên các tuyến giao thông hợp
lý, tăng cường dải cây xanh cách ly trên các tuyến trục giao thông chính, đường
sắt (đặc biệt với khu vực dân cư, bệnh viện, trường học…); Tăng cường giao
thông công cộng, hạn chế xe cá nhân; Khuyến cáo sử dụng nhiên liệu, năng lượng
sạch, hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch; Thực hiện tốt công tác đền bù và giải
phóng mặt bằng, chuyển đổi ngành nghề và hướng nghiệp cho nhân dân; Quản lý chặt
chẽ quá trình xây dựng, tránh những “sự cố môi trường trong xây dựng”; Khuyến
cáo người dân sử dụng nước cấp, quản lý chặt chẽ việc khai thác nước ngầm; Chính
sách ưu tiên đầu tư và ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có áp dụng
công nghệ hiện đại, sử dụng năng lượng sạch, có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường
hiệu quả và sử dụng lao động địa phương; Đồng thời xử phạt nghiêm khắc đối với
những cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong khu vực; Quản lý chặt chẽ hoạt động của
hệ thống xử lý nước thải, đảm bảo các trạm xử lý luôn hoạt động liên tục, đúng
công suất và quy trình kỹ thuật, đảm bảo nước thải đầu ra luôn đạt các quy chuẩn
về môi trường, khi phát hiện sự cố phải kịp thời xử lý và có biện pháp dự
phòng; Tăng cường công tác quản lý buôn bán
hóa chất bảo vệ thực vật và kiểm định vệ sinh an toàn thực phẩm; Hướng dẫn người
dân sử dụng hóa chất đúng quy cách, liều lượng, khuyến cáo sử dụng các biện
pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp, hạn chế sử dụng hóa chất trong sản xuất. Vận
động người dân có ý thức thu gom bao bì hóa chất sau khi sử dụng tập trung đưa
đi xử lý; Có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và người dân trong công tác thực hiện
quy hoạch, xây dựng và bảo vệ môi trường; Tăng cường công tác giám sát và quản
lý môi trường;
Đối với các giải
pháp công nghệ, kỹ thuật: Hệ thống
thoát nước và xử lý nước thải sinh hoạt: (1) Xây dựng hệ thống thoát nước và xử
lý nước thải sinh hoạt như nội dung định hướng quy hoạch. Nước thải sinh hoạt
sau khi xử lý phải đạt QCVN 14:2008/BTNMT trước khi xả vào nguồn tiếp nhận; (2)
Nước thải sinh hoạt sau khi xử lý đạt yêu cầu môi trường đối với nguồn loại A
(nếu có), cần được lưu chứa ở hồ để kiểm tra chất lượng nước thải sau xử lý và
tái sử dụng cho nhu cầu tưới cây, rửa đường, dự phòng cứu hỏa,...; (3) Cần có
giải pháp thu gom, xử lý hiệu quả bùn thải phát sinh từ hệ thống thoát nước và
xử lý nước thải; Có sự kiểm tra, quan trắc định kỳ bùn thải, đặc biệt là bùn thải
công nghiệp;
Hệ
thống xử lý nước thải công nghiệp: (1) Nước thải công nghiệp phải được xử lý đạt
Quy chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT trước khi xả vào nguồn tiếp nhận. Việc xử lý nước
thải công nghiệp phải được kiểm soát chặt chẽ, tuyệt đối không để xảy ra sự cố
làm ảnh hưởng đến môi trường. (2) Thu gom hiệu quả, tăng cường công tác phân loại
rác tại nguồn, vận chuyển chất thải rắn về khu xử lý chất thải của khu vực theo
như quy hoạch đã định hướng. Đặc biệt đối với chất thải nguy hại cần được quản
lý chặt chẽ và đưa về khu xử lý chất thải nguy hại theo đúng tiêu chí kỹ thuật,
quy định pháp luật hiện hành. (3) Các giếng khoan, giếng đào sau khi không sử dụng
cần được trám lấp theo đúng kỹ thuật để đảm bảo không bị sụt lún và gây ô nhiễm
môi trường nước ngầm; (4) Xây dựng và cải tạo chỉnh trang các nghĩa trang phục
vụ cho dân cư như nội dung định hướng quy hoạch. Bố trí cây xanh cách ly và các
giải pháp thu gom, xử lý nước thải, chất thải phát sinh; (5) Khuyến cáo, hướng
dẫn, hỗ trợ người dân xây dựng bể biogas, hầm ủ sinh học để xử lý nước thải, chất
thải chăn nuôi, phế thải trong sản xuất nông nghiệp, rác thải hữu cơ.
3.2. Nhóm
giải
pháp ứng phó,
giảm thiểu tác động
Là
một thành phố ven biển duyên hải miền Trung, Đà Nẵng đã, đang và sẽ nằm trong sự
đe dọa nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Quy hoạch chung
thành phố Đà Nẵng nhất thiết phải gắn liền với các giải pháp giảm nhẹ và thích ứng
với biến đổi khí hậu nhằm hướng đến chiến lược phát triển bền vững. Các giải
pháp được định hướng theo hai hướng tiếp cận thích nghi và giảm thiểu. Thích
nghi bao gồm việc định hướng các biện pháp bảo vệ con người và không gian bằng
cách giảm thiểu khả năng nhạy cảm với biến đổi khí hậu, quản lý rủi ro, điều chỉnh
các hoạt động kinh tế để giảm nhẹ ảnh hưởng và cải thiện khả năng sản xuất kinh
doanh. Giảm thiểu là giải pháp làm chậm quá trình biến đổi khí hậu bằng cách giảm
phát thải khí nhà kính vào khí quyển, thực hiện cơ chế phát triển sạch. Giải
pháp ứng phó, giảm thiểu tác động cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
Thứ nhất, biện pháp thích ứng: Quy
hoạch tổng thể nguồn nước, xây dựng hệ thống dự trữ, các công trình đập trữ nước,
hồ chứa nhằm cân bằng nguồn nước trong mùa mưa và mùa khô; Có chế độ quan trắc
và kiểm tra thường xuyên đối với chất lượng nguồn nước ao, hồ, sông, suối; kiểm
tra nghiêm nghặt việc thu gom, xử lý và xả nước thải của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh dịch vụ; Xây dựng nguyên tắc
dùng nước; thay đổi thói quen dùng nước; tuyên truyền nâng cao ý thức của người
dân trong sử dụng nước và tiết kiệm nước; Tăng mật độ cây xanh công cộng cấp đô
thị để giảm hiện tượng ốc đảo nhiệt, đồng thời có biện pháp quy hoạch trồng rừng,
phủ xanh đất trống, đồi núi trọc bảo đảm khai thác hiệu quả đất lâm nghiệp, duy
trì và nâng cao khả năng phòng chống thiên tai, chống sa mạc hóa, xâm thực, suy
thoái đất; Có hệ thống cảnh báo sớm, ngăn ngừa những rủi ro và thiệt hại một
cách nhanh chóng; Tăng cường công tác bảo trì, bảo dưỡng, cải tạo hệ thống
thoát nước, lắp đặt hệ thống bơm dự phòng trong trường hợp lũ lụt; Quy hoạch
cao trình nền phải đảm bảo hành lang thoát lũ an toàn và xem xét tác động tổng
thể của quy hoạch một khu vực đến các khu vực lân cận cũng như đến các địa
phương khác như khu vực tỉnh Quảng Nam; Việc quy hoạch xây dựng nhà máy thủy điện
thượng nguồn dọc sông cần phải xem xét đến các tác động tiềm tàng của lũ lụt, hạn
hán, xâm nhập mặn; Đối với các khu vực có khả năng bị xâm thực do nước biển
dâng cần xây dựng hệ thống tường/đê biển; Xây dựng hệ thống quan trắc và phân
tích độ mặn xem xét tác động đến nguồn nước ngọt ở tại thủy vực đồng thời tránh
nguy cơ làm phá hủy hệ sinh thái thủy sinh; Phát triển các vùng nông nghiệp
công nghệ cao, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, hạn chế sự phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, tiết kiệm tài nguyên đất, nước,…
Thứ hai, biện pháp giảm nhẹ: Giảm
phát thải khí nhà kính thông qua việc phát triển mạng lưới giao thông công cộng
với các phương tiện sử dụng năng lượng sạch như tàu điện,… giảm phương tiện
giao thông cá nhân; Tập trung phát triển công nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ
cao, từng bước loại bỏ, thay thế các công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường;
Đẩy mạnh phát triển du lịch, tận dụng những lợi thế riêng có để đưa du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt lưu ý gắn phát triển du lịch với bảo vệ
môi trường, đa dạng sinh học và sinh cảnh quý giá của địa phương.
Tóm lại, quá trình phát
triển nói chung, tiến trình đô thị hóa nói riêng sẽ gia tăng áp lực đến điều kiện
cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông bộ hành, hệ thống thoát nước và xử lý nước
thải. Thành phố Đà Nẵng không phải là một ngoại lệ.
Trong những
năm gần đây, Đà Nẵng đã có bước phát triển mạnh mẽ, trở thành một thành phố
năng động, sáng tạo, khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh. Hạ tầng kinh tế -
xã hội, diện mạo đô thị thay đổi nhanh chóng và tương đối hiện đại. Chỉ số cạnh
tranh, chỉ số phát triển con người được nâng lên; duy trì được vị trí tốp đầu về
chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và các chỉ số về cải cách hành chính, hiệu
quả quản trị và hành chính công, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, đào tạo, y tế, công tác xóa đói, giảm
nghèo đạt kết quả tốt; đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân được
nâng lên. Đà Nẵng từng bước khẳng định vai trò là đô thị lớn, đầu tàu, động lực
phát triển, trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung - Tây Nguyên và của cả nước[6].
Tuy vậy,
bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, nhất là giai đoạn
2016-2020, còn tồn tại và phát sinh nhiều hạn chế, yếu kém. Trong đó có công
tác quy hoạch đô thị, xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi
khí hậu và các sự cố, rủi ro về môi trường. Trong thời gian đến , u không có được
quy hoạch hợp lý và giải pháp hữu hiệu, sự ùn tắc giao thông, ô nhiễm nước mặt
và biển ven bờ sẽ có các tác động tiêu cực đến chất lượng môi trường cũng như sự
phát triển của Đà Nẵng.
Cần phải
ý thức rằng, tác động của hoạt động phát triển và biến đổi khí hậu đến môi trường
ngày càng gia tăng, các quy hoạch phát triển rất cần thiết lồng ghép các đánh
giá tác động, ảnh hưởng qua lại, làm cơ sở cho việc hiệu chỉnh cần thiết, đảm bảo
sự phát triển ổn định và bền vững cho thành phố Đà Nẵng thời gian đến, phấn đấu
“trở thành đô thị sinh thái, hiện đại và thông minh, thành phố đáng sống” như
tinh thần Nghị quyết 43 của Bộ chính trị[7].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nghị Quyết Số 43-NQ/TW ngày
24 tháng 01 năm 2019 của Bộ Chính trị Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045
2.
Võ Kim Cương, Quản lý đô thị - Thời kỳ chuyển đổi, Nxb. Xây dựng. Hà nội, 2004.
3.
Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, 2016.
4.
Đỗ Hậu, Xã hội học đô thị, Nxb. Xây dựng. Hà Nội, 2001.
5.
Nguyễn Minh Hòa, Đô thị học – Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học quốc
gia TP.HCM, 2012.
6.
Nguyễn Tố Lăng, Quản
lý đô thị ở các nước phát triển. Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 2017.
7.
Trịnh Duy Luân, Giáo trình xã hội học đô thị, Nxb, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009.
8.
UBND thành phố Đà Nẵng, Báo cáo thuyết minh điều chỉnh quy hoạch
chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[1] Đánh
giá tình hình và kết quả 5 năm 2015-2020, khi nhận định về nguyên nhân hạn chế, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần XXII của thành
phố Đà Nẵng cũng thừa nhận “có nguyên nhân khách quan do tác động của kinh tế
thế giới, thiên tai, dịch bệnh”. Tham kiến: https://fad.danang.gov.vn/web/guest/chi-tiet?id=3001&_c=65
[2]
UBND thành phố Đà Nẵng, Thuyết minh điều
chỉnh quy hoạch chung thành phố đà nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
[3]
Trong “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI trình Đại
hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2020-2025” (Báo cáo số
530-BC/TU ngày 05 tháng 10 năm 2020 – Sau đây gọi tắt là “Báo cáo 530”)
đã chỉ ra: Hạn hán, xâm nhập mặn ảnh
hưởng đến nguồn nước sinh hoạt tại nhiều khu vực năm 2019; đặc biệt, dịch bệnh
COVID-19 bùng phát ngay từ cuối năm 2019 tác động rất lớn đến kinh tế - xã hội,
nhất là ngành dịch vụ, du lịch suy giảm mạnh.
[4]
Báo cáo 530 nhận định: “Biến đổi khí
hậu ngày càng tác động mạnh, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển”của thành phố
Đà Nẵng.
[5] UBND
thành phố Đà Nẵng, Thuyết minh điều
chỉnh quy hoạch chung thành phố đà nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[6]
Nghị Quyết Số 43-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Bộ
Chính trị Về xây dựng và phát triển thành
phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[7]
Nghị Quyết Số 43-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Bộ
Chính trị Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045
Nhận xét
Đăng nhận xét