PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH ĐẮK LẮK
MỘT SỐ GIẢI
PHÁP VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NHẰM PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH ĐẮK LẮK
Tóm tắt:
Đối với hệ thống chính trị cơ sở thì đội ngũ cán bộ chủ
chốt là rất quan trọng, có vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả thực thi
các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đắk Lắk là tỉnh có
số lượng cán bộ chủ chốt cơ sở người dân tộc thiểu số tương đối lớn, tuy nhiên
chất lượng mà cụ thể là kỹ năng lãnh đạo, quản lý chưa tương xứng, điều này dẫn
đến những khó khăn nhất định trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ
chính trị địa phương. Trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi người cán bộ phải hội đủ
các tố chất, năng lực, trình độ, kỹ năng về lãnh đạo, quản lý để giải quyết các
vấn đề nảy sinh, định hướng phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện tốt các mục
tiêu đặt ra. Thực tiễn ở tỉnh Đắk Lắk cho thấy, kỹ năng lãnh đạo của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở người dân tộc thiểu số còn nhiều bất cập, chưa tương
xứng với yêu cầu từ thực tiễn, chưa đáp ứng tốt các nhiệm vụ được giao. Do đó,
cần có những nghiên cứu cụ thể để nắm bắt thực trạng và đưa ra giải pháp tương ứng,
từng bước phát triển kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ này, góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian đến.
Từ khóa: Kỹ năng
lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, cán bộ người dân tộc thiểu số
SOME
SOLUTIONS FOR TRAINING AND RETRAINING TO DEVELOP LEADERSHIP SKILLS FOR KEY
GRASSROOTS CADRES ARE ETHNIC MINORITIES IN DAK LAK PROVINCE
Abstract:
For the grassroots political system, the key staff is
very important, playing a decisive role in the quality and effectiveness of the
Party's guidelines and the State's policies and laws. Dak Lak is a province
with a relatively large number of key ethnic minority staff, but the quality,
especially leadership and management skills, is inadequate, which leads to
certain difficulties. in the process of implementing local political tasks. In
the current context, it is required that officials must meet the qualities,
capabilities, qualifications and skills of leadership and management to solve
arising problems and socio-economic development orientations. , fulfill well
the set objectives. However, the reality in Dak Lak province shows that the
leadership skills of key staff at the grassroots level are still inadequate,
not commensurate with the requirements of practice, and do not meet well.
assigned tasks. Therefore, it is necessary to have specific studies to grasp
the current situation and provide corresponding solutions, gradually developing
leadership and management skills for this team, contributing to improving the
quality of the contingent of cadres. leadership and management of Dak Lak
province in the coming time.
Key words: leadership skills, key staff, ethnic minority staff
1. MỞ ĐẦU
Đắk Lắk là tỉnh có số
lượng cán bộ công chức là người dân tộc thiểu số khá lớn. Theo số liệu thống kê
của Sở Nội vụ tỉnh này, tính đến ngày 31-12-2016, số lượng cán bộ, công chức là
người dân tộc thiểu số có 995 người (chiếm 23.1% tổng số cán bộ, công chức cấp
xã toàn tỉnh). Trong đó, số cán bộ công chức có trình độ cao đẳng, đại học,
trên đại học có 524 người (chiếm 52.6%); người có trình độ cao cấp lý luận
chính trị có 73 người (chiếm 7.3%); cán bộ, công chức có chứng chỉ bồi dưỡng
kiến thức Anh văn có 171 người (chiếm 17.1%)… Đối với cấp xã, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt là người dân tộc thiểu số chiếm 26,0% trong tổng số cán bộ công chức.
Trong đó, người có trình độ THPT chiếm 78,2%, THCS chiếm 20,9% và có 0,9% có
trình độ tiểu học; tỷ lệ cán bộ có trình độ trung cấp và chưa qua đào tạo chiếm
39,0%, trình độ cao đẳng và đại học chiếm 52,8%, trình độ sau đại học chiếm 0%;
người có trình độ Sơ cấp chính trị chiếm tỷ lệ 8,2%, Trung cấp 52,4%, Cao cấp
11,6%; người có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức và quản lý hành chính nhà nước
chiếm 9,1%; chứng chỉ tin học 21,6%; chứng chỉ Anh văn 13,8%; chứng chỉ về bồi
dưỡng kiến thức về an ninh-quốc phòng 0%. Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát
của chúng tôi[1], 67,0% số cán bộ công chức là
người dân tộc thiểu số “chưa từng tham gia” lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo nào
từ trước đến nay.
Thực tế trên cho thấy
kiến thức, kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ công chức
cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số nói riêng còn nhiều vấn đề bất cập. Chính
vì thế, cần có những nghiên cứu khoa học, tỉ mỉ, nghiêm túc để tìm hiểu thực
trạng và qua đó, đưa ra hệ thống giải pháp nhằm từng bước nâng cao, phát triển
và tiến đến hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo cho đội ngũ trong thời gian đến, đáp
ứng các yêu cầu, tình hình mới trong điều kiện hiện nay của tỉnh Đắk Lắk.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Mô tả và phân tích thực trạng về kỹ năng lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk; phân
tích và chỉ ra những thành công, hạn chế, vướng mắc, bất cập về kỹ năng lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Lắk;
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những hạn
chế, bất cập và từng bước phát triển các kỹ năng lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ
công chức cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thời
gian đến.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tài liệu.
Nghiên cứu tiến hành thu thập, phân tích và tổng hợp thông tin từ các nguồn
tài liệu sẵn có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, trong đó chú ý tập trung vào
các tài liệu thống kê từ cơ quan chức năng của tỉnh Đắk Lắk về cán bộ là người
dân tộc thiểu số để làm cứ liệu để phân tích và đánh giá.
Phương pháp điều
tra xã hội học bằng phiếu hỏi, phỏng vấn sâu. Bằng cách chọn cách chọn mẫu nhiều
giai đoạn (multi-stage sampling) và mẫu phân tầng, tác giả chọn quy mô mẫu là
100 phiếu đối với bảng hỏi, 3 trường hợp phỏng vấn sâu. Số liệu thực chứng được
xử lý bằng phần mền SPSS.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Vài nét về cán bộ công chức cơ sở
là người dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk
Tính đến ngày 31/12/2017, số lượng cán bộ công chức cấp
cơ sở trên toàn tỉnh Đắk Lắk là 2130 người, giảm 31 người so với số liệu thống kê đến ngày 31/12/2016, tỷ
lệ cán bộ công chức là người dân tộc thiểu số là 26,2%; tỷ lệ đảng viên là
92,1% (7,9% cán bộ công chức cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số chưa phải là đảng
viên), tỷ lệ nữ là 21,5%[2]. Về trình độ
văn hóa và chuyên môn: cán bộ lãnh đạo chủ chốt cơ sở là người dân tộc thiểu số
có trình độ THPT chiếm 78,2%, THCS chiếm 20,9% và có 0,9% có trình độ tiểu học;
cán bộ có trình độ trung cấp và chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ 39,0%, trình độ
cao đẳng và đại học chiếm 52,8%, trình độ sau đại học chiếm 0%. Về trình độ lý
luận chính trị, quản lý hành chính, quốc phòng-an ninh, tin học và anh văn: người
có trình độ sơ cấp chính trị chiếm tỷ lệ 8,2%, trung cấp 52,4%, cao cấp 11,6%;
người có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức và quản lý hành chính nhà nước chiếm
9,1%; chứng chỉ tin học 21,6%; chứng chỉ Anh văn 13,8%; chứng chỉ về bồi dưỡng
kiến thức về quốc phòng-an ninh là 0%[3]. Cụ
thể ở từng chức danh chủ chốt, cán bộ là người dân tộc thiểu số có chức danh là
Phó chủ tịch UBND có số lượng đông nhất (86/296), chức danh Chủ tịch UBND có số
lượng thấp nhất (31/197). Tuy nhiên, nếu xem xét về tỷ lệ thì chức danh Chủ tịch
HĐND có tỷ lệ cao nhất (36,7%) và tỷ lệ thấp nhất là Chủ tịch UBND (17,3%).
Bảng 1: Số lượng, cơ cấu cán bộ công chức cấp
xã là người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk
STT |
Chức vụ |
Số lượng |
Chức danh kiêm nhiệm |
Đảng viên |
Giới tính (nữ) |
Tôn giáo |
Dân tộc thiểu số |
Tỷ lệ dân tộc thiểu số (%) |
1 |
Bí thư ĐU |
184 |
0 |
184 |
5 |
9 |
43 |
23.4 |
2 |
Phó
bí thư ĐU |
234 |
18 |
234 |
24 |
20 |
55 |
23.5 |
3 |
Chủ tịch HĐND |
146 |
41 |
146 |
11 |
9 |
53 |
36.3 |
4 |
Phó
CT HĐND |
145 |
39 |
145 |
38 |
5 |
40 |
27.6 |
5 |
Chủ tịch UBND |
179 |
5 |
179 |
10 |
12 |
31 |
17.3 |
6 |
Phó
CT UBND |
295 |
0 |
295 |
33 |
23 |
86 |
29.2 |
7 |
CT UBMTTQ |
183 |
1 |
183 |
14 |
12 |
48 |
26.2 |
8 |
Bí
thư Đoàn TN |
183 |
1 |
177 |
31 |
13 |
50 |
27.3 |
9 |
Chủ tịch HPN |
182 |
2 |
179 |
181 |
7 |
61 |
33.5 |
10 |
Chủ
tịch HND |
183 |
1 |
175 |
14 |
14 |
39 |
21.3 |
11 |
Chủ tịch HCCB |
184 |
0 |
179 |
3 |
12 |
39 |
21.2 |
Tổng cộng: |
2098 |
108 |
2076 |
364 |
136 |
545 |
26.0 |
Nguồn: Sở nội vụ tỉnh Đắk Lắk, Báo cáo đội ngũ cán bộ, công chức là người dân
tộc thiểu số (tính đến 31/12/2017) – Một số chỉ báo do tác giả xử lý lại.
Số liệu thống kê trên cho thấy, xét về mặt tổng thể và những
kế hoạch mang tầm chiến lược về công tác dân tộc nói chung, công tác cán bộ là
người dân tộc thiểu số nói riêng thì tỉnh Đắk Lắk cơ bản đã đạt và vượt các chỉ
tiêu[4],
tuy nhiên, nếu xét trong từng chức danh cụ thể ở một địa bàn (huyện, xã) cụ thể
thì còn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết. Nếu xem xét tỷ lệ cán bộ công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 26,0% nhưng trong từng địa
phương với từng chức danh cụ thể thì con số này lại chênh lệch đáng kể, nhất là
chức danh Bí thư đảng ủy, Chủ tịch UBND. Đây là vấn đề cần được tháo gỡ trong
thời gian đến bởi nó không chỉ liên quan đến cơ cấu nhân sự, đến chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta mà, hơn thế nữa, còn liên quan đến công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ này trong tương
lai.
3.2. Thực trạng về đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo
Tiến hành tìm hiểu quá trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng
lãnh đạo của cán bộ công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số chúng tôi nhận
thấy, đối với các trường hợp phỏng vấn sâu, 100% số người được phỏng vấn trả lời
“chưa từng tham gia” bất cứ lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo nào. Chỉ có
một trường hợp đã tham gia lớp bồi dưỡng dành cho đối tượng là cán bộ chứ không
phải là lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo: “Bản
thân đã được tham gia lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý tại Học viện quản lý giáo dục
nhưng chưa từng tham gia qua lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo”[5].
Theo số liệu điều tra, có 67,0% số cán bộ được hỏi xác định
mình “chưa từng tham gia” lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, chỉ có 33,0% cho rằng
“đã tham gia”. Điều đáng nói là, mức độ tham gia học lớp bồi dưỡng kỹ năng của
cán bộ nam có phần cao hơn cán bộ nữ (xem số liệu bảng 2), tuy nhiên tỷ lệ
chênh lệch này là không đủ lớn để kết luận biến “giới tính” và “tham gia bồi dưỡng
kỹ năng” có sự tương quan[6].
Bảng 2: Mức độ tham
gia lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo chia theo giới tính
|
Nam |
Nữ |
Tổng |
|||
|
Tần số |
Tỷ lệ |
Tần số |
Tỷ lệ |
Tần số |
Tỷ lệ |
·
Đã tham gia |
21 |
35.6% |
11 |
28.9% |
32 |
33.0% |
·
Chưa từng tham gia |
38 |
64.4% |
27 |
71.1% |
65 |
67.0% |
Kết quả thống
kê ở bảng 3 cho thấy, thâm niên công tác của cán bộ lãnh đạo chủ chốt có liên
quan đến vấn đề bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo: 9,8% cán bộ có thâm niên công tác từ
1-10 năm trong mẫu điều tra đã qua các lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, con số
tương ứng này với nhóm có thâm niên công tác trên 10 năm là 58,7%; tương tự, tỷ
lệ “chưa từng tham gia” của nhóm có thâm niên công tác 1-10 năm (90,2%) là cao
hơn rất nhiều so với nhóm có thâm niên công tác trên 10 năm (41,3%). Kết quả kiểm
định cho thấy, sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê[7], tức
là có sự tương quan giữa việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo với “thâm
niên công tác” của cán bộ công chức. Nói cách khác, cán bộ công chức là người cấp
xã dân tộc thiểu số có thâm niên công tác càng cao thì khả năng tham gia các lớp
bồi dưỡng về kỹ năng càng lớn.
Bảng 3: Mức độ tham gia lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo chia theo
thâm niên công tác
Tình trạng tham gia lớp bồi dưỡng kỹ
năng lãnh đạo |
Thâm niên công tác |
Tổng |
|||
1-10 năm |
Trên 10 năm |
||||
|
· Đã tham gia |
- Tần số |
5 |
27 |
32 |
- Tần số mong
đợi |
16.8 |
15.2 |
32.0 |
||
- Tỷ lệ tương ứng |
9.8% |
58.7% |
33.0% |
||
· Chưa từng
tham gia |
- Tần số |
46 |
19 |
65 |
|
- Tần số mong
đợi |
34.2 |
30.8 |
65.0 |
||
- Tỷ lệ tương ứng |
90.2% |
41.3% |
67.0% |
||
Tổng |
- Tần số |
51 |
46 |
97 |
|
- Tần số mong
đợi |
51.0 |
46.0 |
97.0 |
||
-
Tỷ lệ tương ứng |
100.0% |
100.0% |
100.0% |
Điều quan trọng
ở đây là, đối với một người lãnh đạo mà nhất là cán bộ công chức thì việc bồi
dưỡng kỹ năng lãnh đạo cần phải được tiến hành sớm (thậm chí trước khi họ nắm
chức danh chủ chốt) để thuận lợi trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
công việc mà cụ thể nhất là nâng cao hiệu quả, chất lượng công việc của mình.
Thế nhưng, cán bộ có “thâm niên” trên 10 năm mới có cơ hội nhiều hơn (thể hiện ở
tỷ lệ nêu trên) để tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo thì đây là điều
bất cập. Do đó, cần phải được nhìn nhận và có giải pháp trong tương lai, nhất
là kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong diện quy hoạch. Bởi chỉ có 9,8% cán
bộ có thâm niên dưới 10 năm “đã tham gia” các lớp bồi dưỡng kỹ năng là con số
quá ít ỏi. Một cán bộ muốn làm tốt công việc của mình thì ngoài những kinh nghiệm
từ thực tiễn (điều này cán bộ trẻ, thâm niên công tác chưa nhiều sẽ bị hạn chế)
cần phải được đào tạo, bồi dưỡng qua trường lớp các kiến thức, kỹ năng liên
quan để phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý của mình.
Bảng 4: Mức độ tham
gia bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo trong từng chức danh chủ chốt
|
|
Tình trạng đào tạo, bồi dưỡng kỹ
năng lãnh đạo, quản lý |
||
|
|
Đã tham gia |
Chưa từng tham gia |
Tổng |
·
Bí thư đảng ủy |
42.9% |
57.1% |
100% |
|
·
Phó Bí thư đảng ủy |
20.0% |
80.0% |
100% |
|
·
Chủ tịch Hội đồng nhân dân |
45.5% |
54.5% |
100% |
|
·
Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân |
28.6% |
71.4% |
100% |
|
·
Chủ tịch UBND |
56.2% |
43.8% |
100% |
|
·
Phó chủ tịch UBND |
18.2% |
81.8% |
100% |
|
·
Chủ tịch UB MTTQ |
7.7% |
92.3% |
100% |
|
·
Chức danh chủ chốt khác |
25.0% |
75.0% |
100% |
|
Tiến hành xem
xét mức độ tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo đối với từng chức danh
chủ chốt cấp cơ sở nhận thấy, cán bộ có chức danh “chủ tịch UBND” là đối tượng
được đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả
các chức danh chủ chốt (56,2%), kế đến là chủ tịch HĐND (45,5%) và Bí thư đảng ủy
(42,9%); chức danh ít được bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo nhất là Chủ tịch UB MTTQ
xã (7,7%).
Số liệu thống
kê bảng 4 cho thấy một số vấn đề về đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo cho đội
ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở: tỷ lệ tham gia qua các lớp bồi dưỡng kỹ năng đối
với các chức danh như Chủ tịch UBND, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UB MTTQ chiếm đa số,
điều đó khẳng định tính định hướng và chiến lược trong công tác đào tạo cán bộ
lãnh đạo bởi đây là các chức danh “chủ chốt của chủ chốt”, có vai trò, vị trí
trọng yếu trong bộ máy chính trị cơ sở. Thế nhưng, tương ứng với đó là tỷ lệ
“chưa từng tham gia” các lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo của các chức danh này
cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Ví dụ, có đến 54,5% cán bộ có chức danh Chủ tịch HĐND
và 57,1% cán bộ có chức danh Bí thư đảng ủy chưa từng tham gia qua các lớp đào
tạo về kỹ năng lãnh đạo, quản lý là chỉ báo cho thấy việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ
năng lãnh đạo cho các chức danh “chủ chốt của chủ chốt” vẫn còn nhiều bất cập nếu
không muốn nói là còn yếu và thiếu.
Ngoài ra cũng cần
phải nhìn nhận một cách nghiêm túc khi có đến 93,2% cán bộ là Chủ tịch UB MTTQ
và 81,8% là Phó chủ tịch UBND chưa qua các lớp đào tạo về kỹ năng lãnh đạo.
Chúng ta đều biết, trong hệ thống bốn cấp của MTTQ Việt Nam, MTTQ ở cơ sở
có vị trí rất quan trọng. Các cơ sở xã phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận
nhân dân cư trú sinh sống, hệ thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện mọi đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Cơ sở là địa bàn tổ chức thực hiện thống
nhất hành động của Mặt trận, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực phát triển KT-XH, tổ chức cuộc sống
ở cộng đồng dân cư. Tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam ở địa bàn cơ sở được
thực hiện bởi cấp cơ sở (do Ủy ban MTTQ xã, phường, thị trấn thực hiện) và tại
địa bàn dân cư (do Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư tổ chức thực hiện). Để thực
hiện nhiệm vụ của mình, MTTQ cấp xã cần phải nắm vững đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, nắm bắt kịp thời ý kiến, sáng kiến của nhân dân, góp phần tích cực vào việc
tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật và
hoạt động giám sát của Mặt trận, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân. MTTQ cơ sở phải vận dụng linh hoạt, thích hợp với tình hình và khả năng thực
tế ở từng nơi và từng công việc cụ thể. Muốn vậy, ngoài những kiến thức, kỹ
năng về công tác đảng, công tác dân vận, công tác tư tưởng… thì cán bộ MTTQ cấp
xã cần phải có những kỹ năng cần thiết khác như kỹ năng nói trước công chúng, kỹ
năng gây ảnh hưởng, kỹ năng tập hợp quần chúng, kỹ năng truyền cảm hứng, kỹ
năng giải quyết tình huống, kỹ năng xử lý điểm nóng chính trị… Thế nhưng, có đến
93,2% cán bộ chức danh UB MTTQ “chưa từng tham gia” các lớp kỹ năng cần thiết
là điều đáng suy ngẫm.
Đối với chức
danh Phó chủ tịch UBND, đa số cán bộ (81,8%) chưa được bồi dưỡng các kỹ năng
lãnh đạo cần thiết cũng là một chỉ báo cho thấy sự bất cập trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nói chung, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo cho cán bộ công
chức dân tộc thiểu số nói riêng. Là người giúp Chủ tịch UBND thực hiện các nhiệm
vụ chính trị nhưng cũng là người trực tiếp tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ được Chủ tịch UBND phân công theo
khối công việc (khối kinh tế -
tài chính, khối văn hoá - xã hội...) hoặc các nhiệm vụ
của UBND do Chủ tịch UBND ủy nhiệm khi Chủ tịch
UBND đi vắng, Phó chủ tịch UBND cần phải nắm vững các chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền; phải nhiệt thành trong công việc; phải có kiến thức, kỹ năng
lãnh đạo để đáp ứng các nhiệm vụ chính trị trên. Thực tế ở Đắk Lắk cho thấy, đa
số cán bộ chức danh Phó chủ tịch UBND cấp xã vẫn chưa được đào tạo, bồi dưỡng
các kỹ năng cần thiết về lãnh đạo, quản lý. Đây là vấn đề cần được nhìn nhận và
có giải pháp trong thời gian đến đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng các chức
danh chủ chốt cấp cơ sở của Đắk Lắk, đặc biệt là cán bộ cấp phó.
3.3. Một số giải pháp về đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao kỹ năng lãnh đạo cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cơ sở là người dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk
Một là, tiến hành thống
kê, rà soát lại toàn bộ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người dân tộc thiểu
số trên địa bàn. Đắk Lắk cần tiến hành rà soát lại tổng thể đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số về số lượng, chất lượng, cơ cấu;
trình độ, nhóm tuổi, giới tính, địa bàn, thành phần dân tộc, tình trạng đào tạo,
bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, tình trạng thu nhập... theo từng nhóm chức
danh, gắn với vị trí công việc hiện tại để xác định rõ những mặt được cũng như
hạn chế, yếu kém, bất cập. Từ đó, tiến hành phân tích các nhân tố tác động cũng
như tìm hiểu nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng của từng nhóm cán bộ để làm cơ sở
cho việc lên kế hoạch, đề án đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về khoa học lãnh đạo
nói chung, về kỹ năng lãnh đạo nói riêng nhằm chuẩn hóa đội ngũ để sử dụng lâu
dài hay bổ sung, thay thế trong những trường hợp cần thiết.
Hai là, nâng cao
chất lượng và hiệu quả quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng; tiến hành khảo
sát nhu cầu đào tạo để nắm bắt nhu cầu người học. Chiến lược đào tạo cán bộ
là người dân tộc thiểu số của tỉnh Đắk Lắk không thể đạt hiệu quả, thậm chí khó
có thể thực hiện, nếu chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng không song
hành. Nói cách khác, các trường chính trị, trung tâm chính trị-hành chính và
các cơ sở, tổ chức có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cần phải bảo
đảm về chất lượng, quy mô, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chương trình đào
tạo, công tác quản lý, kiểm tra giám sát... Mặc dù có chiến lược về cán bộ dân
tộc thiểu số đúng đắn nhưng yếu ở khâu đào tạo thì chất lượng, hiệu quả sẽ
không cao, thậm chí gây lãng phí, mất niềm tin và hụt hẫng ở người học: “Các lớp bồi dưỡng kỹ năng còn thiếu về số lượng,
vẫn có giáo viên lên lớp nhưng chưa truyền được cảm hứng; cần quan tâm thêm về
chế độ chính sách trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số”[8].
Ba là, tăng cường thực hành kỹ năng, cần thiết phải lồng ghép vào các buổi họp,
hội nghị ở cơ sở. Các lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo cho cán bộ công chức
là người dân tộc thiểu số cần phải tính toán kỹ lưỡng nhất là nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy, số lượng kỹ năng, thời gian bồi dưỡng, chế độ trợ
cấp, nhu cầu người học, nhu cầu thực tiễn của địa phương. Thực tế thời gian qua
cho thấy, bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo (kể cả phần kỹ năng lãnh đạo trong
chương trình trung cấp, cao cấp lý luận chính trị hiện hành) còn nặng về lý
thuyết (“học” kỹ năng chứ chưa “hành” về kỹ năng; “dạy” kỹ năng chứ chưa “rèn”
kỹ năng), tính ứng dụng không cao, chưa chú trọng tính đặc thù riêng biệt đối với
từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức ở cơ sở. Do đó, trong thời gian đến cần khắc phục được những
bất cập trên đồng thời chú ý tăng cường phần rèn luyện về kỹ năng lãnh đạo, điều
hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực tiễn. Trong
điều kiện hiện nay, nên tính toán việc lồng ghép việc bồi dưỡng một số kỹ năng
vào các buổi họp, hội nghị ở cơ sở (mời chuyên gia truyền đạt, huấn luyện các kỹ
năng lãnh đạo cần thiết), vừa đỡ tốn kém về thời gian, vừa tạo tâm lý thỏa mái
cho người người học, vừa khắc phục được một số yếu kém về kỹ năng chủ yếu của một
số cán bộ công chức, từng bước phát triển kỹ năng lãnh đạo cho đội ngũ này.
Bốn là, tăng cường
dung lượng kỹ năng lãnh đạo trong chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản
lý; cần có chương trình bồi dưỡng kỹ năng dành riêng cho cán bộ công chức là
người dân tộc thiểu số. Tính chất công việc
cũng như những vấn đề thường xuyên nảy sinh ở cơ sở rất cần những kỹ năng tương
ứng để thao tác (kỹ năng “tuyên tuyền, vận động, tập hợp quần chúng”, “kỹ năng
ra quyết định”, “giải quyết tình huống khẩn cấp và điểm nóng ở cơ sở” là các kỹ
năng mà cán bộ cơ sở “sử dụng thường xuyên nhất”), do đó cần phải tăng cường
dung lượng kỹ năng lãnh đạo, quản lý trong giáo trình Trung cấp, Cao cấp lý luận
chính trị. Đối với các hệ lớp đặc biệt dành cho cán bộ là người dân tộc thiểu số
trong chương trình đào tạo Trung cấp, Cao cấp lý luận chính trị, ngoài những kiến
thức, kỹ năng chung cho cán bộ cũng cần có thêm những nội dung chương trình mới
về kỹ năng dành riêng cho nhóm cán bộ này. Đối với các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng mà các cơ quan chức năng của tỉnh Đắk Lắk tổ chức cần nghiên cứu
đưa những kỹ năng đặc thù, phù hợp với công việc thực tiễn, khắc phụ những hạn
chế, yếu kém hiện thời.
Năm là, các cơ sở
đào tạo cán bộ cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy-huấn luyện kỹ năng, phù hợp
với từng nhóm cán bộ. Các khóa bồi dưỡng
kỹ năng hiện nay đều nặng về “lý thuyết kỹ năng” nhẹ về “thực hành kỹ năng”,
“huấn luyện kỹ năng”; hiện tượng giảng viên dạy kỹ năng nhưng chỉ “độc thoại”
khiến người học nhàm chán; sau khi tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng về học
viên không áp dụng được vào công việc của mình; nhiều lãnh đạo phải “tự học”
hay “học qua đồng chí, người đi trước” để có được kỹ năng cần thiết[9]...Do
đó, đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số đôi lúc phải “cầm tay chỉ việc”,
“trực quan sinh động”, tăng cường rèn luyện kỹ năng để sau mỗi khóa học, bồi dưỡng
họ có thể thực hành được ngay và áp dụng vào công việc hiện hữu của mình chứ
không cần phải “tiêu hóa lại” các nội dung đã bồi dưỡng.
Sáu là, cần có kế
hoạch đưa đi đào tạo, huấn luyện kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho cán bộ đã được
quy hoạch chức danh chủ chốt. Nhằm nâng cao hiệu
quả lãnh đạo, triển khai nhiệm vụ ở cơ sở, cán bộ công chức và cán bộ nằm trong
diện quy hoạch kế thừa cần phải được bồi dưỡng sớm. Thực tế ở Đắk Lắk cho thấy,
cán bộ có thâm niên trên 10 năm mới có cơ hội bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo; 54,5%
cán bộ có chức danh Chủ tịch HĐND, 57,1% cán bộ có chức danh Bí thư đảng, 93,2%
cán bộ chức danh UB MTTQ chưa từng tham gia qua các lớp đào tạo về kỹ năng lãnh
đạo, quản lý. Do đó, tỉnh Đắk Lắk cần phải có kế hoạch bồi dưỡng phát triển kỹ
năng lãnh đạo cho chính đội ngũ lãnh đạo chủ chốt hiện tại nhưng phải đặc biệt
chú trọng đến nhóm cán bộ trong diện quy hoạch kế cận, tránh hiện tượng “hụt hẫng
về kỹ năng lãnh đạo” trong diện cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở như hiện
nay.
4. KẾT LUẬN
Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
có thực hiện được đúng, đầy đủ hay không đều phải thông qua việc tổ chức thực
hiện của hệ thống chính trị cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói
chung, cán bộ công chức là người dân tộc thiểu số nói riêng muốn đảm đương được
những nhiệm vụ, trọng trách thì cần phải “có tâm, có tầm”, “vừa hồng, vừa
chuyên”, phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, thành thục về các kỹ năng lãnh đạo,
quản lý để xử lý các tình huống trong thực tiễn, hóa giải các mâu thuẫn, chỉ đạo
thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng yếu của địa phương. Trong phạm vi của bài viết
này, không thể phân tích tất cả các khía cạnh về kỹ năng lãnh đạo của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk, nhưng từ những số
liệu thực chứng và các cứ liệu thứ cấp đã được phân tích, bài viết đã đưa ra một
số giải pháp gắn với tình hình thực tiễn của địa phương. Trong thời gian đến, tỉnh
Đắk Lắk cần có chính sách đặc thù đối với cán bộ chủ chốt cấp xã về công tác
đào tạo, bồi dưỡng cũng như những chính sách hỗ trợ khác để cán bộ an tâm công
tác, từng bước nâng cao trình độ, kỹ năng lãnh đạo, phục vụ tốt cho công việc
hiện hữu của mình; có chính sách đối với cán bộ chủ chốt chưa đạt chuẩn về
chuyên môn, nghiệp vụ nhằm tạo điều kiện cho việc hoàn thiện đội ngũ, góp phần thực
hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Thị Mai Anh, Yêu cầu và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ hội
nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản điện tử số 1/4/2015.
2.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk, Kế hoạch số 16- KH/TU ngày 31/8/2016 Về xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2020-2025.
3.
Ban tuyên giáo
Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các văn
kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb
CTQG-ST, H. 2018.
4.
Bộ chính trị, Nghị
quyết số 17-NQ/TW ngày 18-3-2002 Về Đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
5.
Bộ chính trị, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Bộ chính trị Về tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
6.
Phạm Đi, Công tác đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng và quản lý cán bộ dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Tạp
chí Tổ chức Nhà nước số 2/2014.
7.
Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Lắk, Nghị quyết
số 137/2014/NQ-HĐND ngày 13 tháng 12 năm 2014 Về rà soát, điều chỉnh, bổ sung
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030.
8.
UBND tỉnh Đắk Lắk,
Báo cáo số 213/BC-UBND ngày 17/10/2014 Về
việc thực hiện chính sách, pháp luật trong đào tạo và sử dụng đối với đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
9.
UBND tỉnh Đắk Lắk,
Kế hoạch số 5479/KH-UBND ngày 4/8/2014 Về
triển khai chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 trên địa tỉnh.
10.
UBND tỉnh Đắk Lắk, Quyết định số 616/QĐ-UBND ngày 9/3/2016 Về việc phê duyệt Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức năm 2016.
11.
Sở nội vụ tỉnh Đắk
Lắk, Báo cáo đội ngũ cán bộ, công chức là
người dân tộc thiểu số (năm 2016, 2017).
[1] Kết quả điều tra của tác giả khi
tiến hành khảo sát 100 đối tượng là cán bộ chủ chốt dân tộc thiểu số của tỉnh
Đắk Lắk. Từ đây, tùy theo trường hợp cụ thể, tác giả viết tắt là Số liệu điều
tra. Các bảng số liệu từ số 2 đến số 4 đều là từ Số liệu điều tra.
[2] Nguồn: Sở Nội vụ Đắk Lắk (Báo cáo
Thống kê chất lượng cán bộ cấp xã năm 2016, năm 2017).
[3] Sở nội vụ tỉnh Đắk Lắk, Báo cáo đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số.
[4] Nghị quyết 05-NQ/TU ngày 14/1/2005 về Lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS từ nay đến năm 2010 đã xác định mục
tiêu sau năm 2010 trở đi, tỷ lệ cán bộ là người DTTS ở các cấp là: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đạt 35% trở lên; cấp huyện, thành phố đạt 27% trở lên; cấp xã, phường thị trấn đạt 30% trở lên; cấp ủy xã phường thị trấn trên 23%; Hội
đồng nhân dân cấp xã, phường thị trấn đạt 30% trở lên.
[5] Biên bản gỡ băng phỏng vấn sâu,
(Nữ, 42 tuổi, dân tộc Ê đê, phó chủ tịch UBND).
[6]
Kết quả kiểm định Chi Square test cho thấy: giá trị Sig = 0,497; df = 1, Chi-square
= 0,492.
[7]
Kết quả kiểm định Chi Square test cho thấy: giá trị Sig = 0,00; df = 1, Chi-square
= 26,152.
[8] Ý kiến từ câu hỏi mở trong nội dung
bảng hỏi điều tra thực chứng của tác giả.
[9] 46,7% cán bộ được hỏi cho rằng học kỹ năng lãnh đạo
qua đồng chí và người đi trước; 19,6% “tự học”.
Nhận xét
Đăng nhận xét