MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN MẤT ĐẤT DO ĐÔ THỊ HÓA
LÝ LUẬN ĐỊA
TÔ CỦA K. MARX VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NGƯỜI NÔNG DÂN MẤT
ĐẤT TRONG TIẾN TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
TS. Phạm Đi
Chương trình xây dựng Nông thôn mới là một chủ trương
chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, là mắc xích quan trọng trong tiến trình hiện
đại hóa đất nước, giải quyết các vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn[1].
Song song với đó, việc đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị
hóa nhằm kéo giảm sự chênh lệch khoản cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành
thị, giúp cho diện mạo của nông thôn cũng như đời sống của nông dân ngày một được
cải thiện và từng bước được nâng cao. Đó là một con đường tất yếu để kiến tạo
và xây dựng một nông thôn mới hiện đại hơn.
Đô thị hóa[2] là một
xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển xã hội tiến tới một nước công nghiệp
trong tương lai gần[3], đó cũng là một
tiêu chí trọng yếu trong quá trình hiện đại hóa nông nghiệp của nước ta. Cùng với
chiến lược xây dựng và phát triển Nông thôn mới, tiến trình đô thị hóa quá mức
(hoặc đô thị hóa cưỡng bức) đã và đang gây nên một số vấn đề phái sinh mà trong
đó là, một bộ phận không nhỏ người nông dân bị mất đất (nhất là đối tượng bị
thu hồi trên 70% diện tích đất canh tác nông nghiệp), một bộ phận nông dân khác
đang có nguy cơ mất đất đã và đang gây nên một số vấn đề xã hội cần phải được
nghiêm túc nhìn nhận, nghiên cứu, lí giải và có những đối sách đúng đắn. Thiết
nghĩ, từ giác độ lí luận về địa tô của K.Marx cho chúng ta một cái nhìn xác thực,
thời sự, khoa học hơn về vấn đề này. Nói khác đi, nghiên cứu lí luận địa tô của
Marx có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong nhìn nhận, lí giải bản chất của địa
tô, các chủ thể lợi ích của địa tô và vai trò của Nhà trước đối với địa tô, từ
đó đưa ra một số giải pháp khắc phục những vấn đề xã hội đối với nhóm người
nông dân mất đất trong tiến trình đô thị hóa ở nước ta.
1.
Một số điểm mấu chốt trong Lí luận địa
tô của K. Marx
Trong “Tư bản luận” Marx đã chỉ ra rằng: “Ở các nước tư bản phát triển, đất đai bị độc
quyền bởi các chủ sở hữu lớn. Những nhà tư bản nông nghiệp muốn thu được lợi
nhuận thì phải thuê lại đất của các chủ sở hữu (địa chủ) nói trên và thuê mướn
những người lao động mất đất để tiến hành sản xuất nông nghiệp. Do đó sản sinh
ra quan hệ kinh tế giữa người sản xuất và chủ sở hữu ruộng đất, sợi dây liên kết
trong quan hệ kinh tế này được gọi là địa tô.” [4]
Như vậy, về bản chất mà nói, địa tô thực chất là mối quan hệ kinh tế giữa chủ sở
hữu ruộng đất và người thuê đất (để tiến hành sản xuất). Nói nôm na, địa tô là
thu nhập có được từ quyền sở hữu ruộng đất[5]. Căn
cứ vào sự khác nhau giữa những điều kiện và nguyên nhân phát sinh địa tô, Marx
chia địa tô ra làm 3 loại chính: địa tô
chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền (lũng đoạn).
Lí giải về nội
dung cơ bản của địa tô chênh lệch, Marx đã dùng hình ảnh “thác nước tự nhiên”
và “máy hơi nước” để làm ví dụ[6]. Marx
cho rằng, địa tô chênh lệch có những đặc trưng sau: Thứ nhất, là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất thông thường của tư
bản thông thường (chung) với giá cả sản xuất cá biệt của tư bản cá biệt; Thứ hai, loại địa tô này không phải sản
sinh bởi trên đồng vốn của nhà tư bản mà chính là năng suất tuyệt đối từ xuất sản
xuất của người lao động mà nhà tư bản chiếm dụng; Thứ ba, các nguồn lợi từ thiên nhiên không phải là nguồn lợi nhuận
siêu ngạch; Thứ tư, bản thân của quyền
sở hữu ruộng đất sẽ tạo nên một bộ phận trong giá trị thặng dư như “thác nước tự
nhiên”, từ đó mà nhà tư bản “lợi dụng thác nước” để chiếm đoạt giá trị thặng dư
này; Thứ năm, ruộng đất cũng giống
như một thác nước và cũng như các sức mạnh thiên nhiên khác, bản thân nó không
có giá trị nào cả bởi nó không có bất cứ một giá trị lao động khách quan nào,
do vậy nó cũng chẳng có giá trị gì, bởi giá cả không nằm ngoài giá trị biểu hiện
của đồng tiền, nó chỉ có giá trị trong mối quan hệ kinh tế chủ đất (địa chủ) và
người đi thuê (cố dụng).
Từ những lí
giải trên, căn cứ trên điều kiện hình thành, Marx chia địa tô thành chênh lệch
thành địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Địa tô chênh lệch I là loại
địa tô mà lợi nhuận siêu ngạch của nó sản sinh từ vị trí thuận lợi hay độ màu mỡ
tự nhiên của đất; địa tô chênh lệch II là địa tô mà lợi nhuận siêu ngạch của nó
sản sinh nâng cao năng suất lao động hoặc tăng cường sự đầu tư trên cùng một
đơn vị diện tích[7].
Đối với khái
niệm địa tô tuyệt đối, Marx cho rằng đó là loại địa tô mà người sở hữu ruộng đất
(địa chủ) dựa vào quyền sở hữu ruộng đất của mình để lũng đoạt giá trị thặng
dư. Đó không phải là sự khác biệt về giá
cả sản xuất cá biệt và giá cả sản xuất xã hội của sản phẩm nông nghiệp, cũng
không phải là sự khác biệt về giá cả xã hội giữa loại đất kém màu mở và đất tốt,
mà là sự khác biệt về giá cả sản xuất giữa giá cả sản xuất chung và giá cả nông
phẩm cá biệt. Marx khẳng định, dưới bất cứ tình huống nào thì địa tô tuyệt đối
cũng đều là một bộ phận trong giá trị thặng dư nông nghiệp, đều là sự chuyển
hóa giá trị thặng dư thành địa tô mà địa chủ chiếm đoạt.
Bàn về khái
niệm địa tô lũng đoạn (địa tô độc quyền), Marx cho rằng đó là địa tô mà lợi nhuận
siêu ngạch của nó do giá cả lũng đoạn mà chuyển hóa thành, địa tô lũng đoạn
không do bởi giá cả thặng dư từ sự sáng tạo của người làm thuê mà do bởi bộ phận
công nhân khác của xã hội.
Như vậy theo
lí luận về địa tô của Marx, giá cả đất đai (giá đất) là thu nhập từ đất cho
thuê được tư bản hóa, tức là giá mua từ địa tô. “Giá mua” này không chỉ bao gồm
địa tô chênh lệnh và địa tô tuyệt đối mà còn bao hàm cả việc tích lũy sức lao động
đã có trong đất sau một thời gian dài canh tác nông nghiệp và giá cả từ vốn đầu
tư cộng với sức lao động mà nông dân đã bỏ ra để cải tạo đất.
2.
Vài nét về hiện tượng người nông dân
mất đất
Trong nhiều
năm trở lại đây, nhiều học giả cũng như chính quyền các cấp đều lo lắng cho bài
toán “người nông dân mất đất”[8] do
tiến trình đô thị hóa quá nhanh, thiếu tầm kiểm soát của nhiều địa phương trong
cả nước. Các tỉnh và thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh như Hà Nội, TP.HCM, Hải
Phòng, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai… tỉ lệ người nông dân mất đất
ngày càng cao và chính quyền các địa phương này cũng tỏ ra “khá túng túng”
trong vấn đề giải quyết chế độ, tạo việc làm và những vấn đề xã hội phát sinh
khi tư liệu sản xuất của người nông dân - đất đai - dần bị mất đi. Theo thống
kê chưa đầy đủ của nhiều chuyên gia, mỗi năm có khoảng 80.000-200.000 ha đất
nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng và bị thu hồi, tương ứng mỗi hộ có
khoảng 1,5 lao động mất việc. Ngoài ra, cần phải nhìn nhận thẳn thắng rằng, khi
người nông dân mất đất không những mang lại sự khó khăn (thu nhập, việc làm…)
cho bản thân mà còn gây nên những hệ lụy về mặt xã hội khác: đổ dồn vào thành
phố lớn tìm việc gây nên những áp lực xã hội lên các đô thị, các tệ nạn xã hội
phát sinh v.v…
Phát triển
công nghiệp và đô thị hóa là xu thế tất yếu và chính nó đã góp phần đẩy nhanh
tiến trình hiện đại hóa đất nước nhưng nếu không kiểm soát và đô thị hóa ồ ạt sẽ
đẩy một số lượng lớn người nông dân vào bần cùng hóa vì mất đất. Đó là vấn đề cần
nhìn nhận một cách nghiêm túc, khoa học và có những giải pháp mang tính khả thi
tránh những hệ lụy đáng tiếc trong phát triển, nhất là trong bối cảnh Đảng và
Nhà nước đang chủ trương xây dựng Nông thôn mới như hiện nay.
Theo nghiên cứu
của chúng tôi, hiện nay những người nông dân mất đất phải đối mặt với hàng loạt
vấn đề. Đó là, ngoài vấn đề mất đất thì mất đi nguồn thu nhập từ ruộng đất họ
còn phải đối mặt với: khi tiến hành thu hồi đất và giải tỏa tái định cư, hàng
loạt những phong tục tập quán, lối sống của người nông dân cũng bị xáo trộn,
nói cách khác khi người nông dân bị “thu hồi đất” thì vô hình trung cũng bị
“thu hồi” một số nét văn hóa, phong tục tập quán đã gắn với phương thức sản xuất
lâu đời của họ; sự chuyển đổi phương thức sản xuất cũng là một khó khăn lớn bởi
người nông dân thiếu những kĩ năng nghề nghiệp khác ngoài nông nghiệp; nhiều sự
việc khiếu kiện, khiếu nại tập thể, vượt cấp và mang tính chất phức tạp do thu
hồi đất, chính những sự vụ này cũng mang trong mình nó những bất ổn và sự xáo
trộn xã hội nhất định. Vì lẽ đó, nghiên cứu cách tiếp cận địa tô của Marx ít
nhiều cho chúng ta cái nhìn biện chứng và khoa học để giải quyết vấn đề này.
3.
Lí luận địa tô và ý nghĩa của nó
trong việc giải quyết vấn đề nông dân mất đất
Hiến pháp Việt
Nam (1992) đã khẳng định đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí theo qui định của pháp luật[9].
Theo đó, Luật đất đai (2003) không cho phép cá nhân quyền sở hữu ruộng đất mà
công nhận chỉ có quyền sử dụng. Nói khác đi, luật pháp nước ta chấp nhận đất
đai thuộc sở hữu toàn dân và điều đặc biệt là
“quyền sở hữu” và “quyền sử dụng” ruộng đất được “tách rời”: Nhà nước đại
diện duy nhất về sở hữu đất đai, cá nhân mà cụ thể là nông dân có chỉ quyền sử
dụng. Vấn đề là ở chỗ, Nhà nước cho phép người nông dân (chủ thể sử dụng ruộng
đất) được sử dụng ruộng đất như một tư liệu sản xuất để “thu lợi nhuận” , điều
này “khuếch đại” quyền tự chủ của người nông dân, thúc đẩy tính tích cực sản xuất
và đầu tư của người nông dân vào tư liệu sản xuất – đất đai – của mình, đẩy mạnh
việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, mấu chốt của vấn đề là, khi người nông
dân có “quyền sử dụng” ruộng đất ấy, một khi đã thu hồi quyền sử dụng ấy thì
nguồn lợi từ “địa tô” được “phân bổ” ra sao? Người nông dân sau khi đã “mất đất”
liệu họ còn được tiếp tục “hưởng lợi” gì từ tiến trình công nghiệp hóa hay đô
thị hóa đó? Do đó, chúng tôi cho rằng, thì cần phải có những chính sách pháp luật
rõ ràng, minh bạch về chủ thể lợi ích trong tiến trình thu hồi đất và giá trị của
nguồi tài nguyên đất: Marx chỉ ra rằng, phàm là nơi nào còn tồn tại quan hệ về
quyền sở hữu đất đai thì nơi đó tất tồn tại địa tô, “xóa bỏ tư hữu về ruộng đất
không có nghĩa là xóa bỏ địa tô”[10]. Từ
quan điểm này có thể suy ra rằng, dưới điều kiện của chế độ xã hội Xã hội chủ
nghĩa, vẫn có thể tồn tại sự độc quyền về quyền sở hữu ruộng đất (Nhà nước là đại
diện duy nhất) và do đó, nó có thể phân chia thành quyền sở hữu và quyền sử dụng,
người dân nói chung nông dân nói riêng có thể “thu lợi” từ quyền sử dụng đất mà
Nhà nước thừa nhận. Thế nhưng cần phải thừa nhận rằng, chế độ sở hữu ruộng đất dưới chế độ XHCN không phải là chế độ tư hữu
về ruộng đất, do bởi đất đai do là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, tức
là Nhà nước có quyền lợi đạt được và nắm giữ địa tô do đất mang lại, nhưng đồng
thời phải tuân thủ theo quy tắc là nhân dân có quyền sử dụng và quyền chiếm hữu
thuộc về toàn thể nhân dân, nghĩa là đảm bảo lợi ích chính đáng của nhân dân từ
đất đai, đó mới là bản chất và mấu chốt của vấn đề địa tô trong chế độ XHCN.
Quay lại vấn
đề người nông dân bị thu hồi đất, để người nông dân được hưởng lợi hoặc chí ít
là không bị “thiệt thòi” khi phải giao quyền sử dụng đất lại cho Nhà nước, thì trong
quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang các mục đích khác
không phải là nông nghiệp, cần phải xây dựng những quy định pháp luật về thu hồi
đất mang tính khả thi và có thể thao tác hóa. Thư nhất, cần phải qui định rõ ràng vai trò, lợi ích giữa các chủ
thể lợi ích liên quan đến đất đai khi thu hồi mà nhất là chính quyền các địa
phương và chính quyền cơ sở. Đặc biệt, đối với nhóm nông dân bị mất đất thì cần
phải có những giải pháp xác thực, lâu dài, căn cơ về quyền lợi của họ khi bị
thu hồi đất (nhất là đối với đối tượng thu hồi trên 70% diện tích hoặc toàn bộ
đất)[11],
cần cung cấp cho họ những đảm bảo xã hội cơ bản để tránh những rủi ro gặp phải.
Thứ đến, cần phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách về chuyển
nhượng đất nông nghiệp mà đặc biệt là vấn đề thu hồi quyền sử dụng đất: tránh
phiến diện “theo đuổi” giá trị địa tô chênh lệch mà cần phải đặc lợi ích của
người dân (quyền sử dụng đất) lên trên hết (thu hồi đất không phải là mục đích,
càng không phải thu hồi đất để “hưởng” địa tô chênh lệch, mà mục đích là ổn định
và nâng cao đời sống của người nông dân). Có nghĩa là, cần phải xem trọng yếu tố
con người “dĩ nhân vi bản” và tư tưởng “người cày có ruộng”. Nói khác đi, dưới
chế độ XHCN và dưới giác độ lí luận địa tô của Marx, cần phải đảm bảo cho mỗi một
người dân (nông dân) có quyền lợi nhất định và chính đáng trong vấn đề sử dụng
đất đai với tư cách là tư liệu sản xuất của họ. Khi “thu hồi” tư liệu sản xuất
này cần phải có những giải pháp thiết thân để đảm bảo đời sống của họ “bằng hoặc
tốt hơn trước”.
Thứ ba, trong vấn đề đền bù, giải tỏa, tái định cư cần phải chú trọng
đời sống của người bị thu hồi đất sau tái định cư và bảo đảm nguyên tắc “tái định
cư trước, giải tỏa sau”, đảm bảo những quyền lợi chính đáng của người nông dân
không bị xâm phạm, hoàn thiện cơ chế bồi thường khi thu hồi đất. Hiện nay chúng
ta chỉ dừng lại việc bồi thường ở khía cạnh vật chất có tính “phần ngọn” và “thu hồi” hơn là “trưng mua” và phần gốc. Bởi
như trên đã phân tích, giá trị trên một diện tích đất canh tác của người nông
dân, không chỉ bao gồm địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối, điều mà Marx phân
tích cho chúng ta thấy rằng, nó còn bao hàm cả việc tích lũy sức lao động của
người dân trong một thời gian dài sử dụng đất cộng với sức lao động mà nông dân
đã bỏ ra để cải tạo đất. Thuyết nghĩ, các luật liên quan đến việc thu hồi đất cần
phải nhấn mạnh việc “trưng mua” hơn là “thu hồi” và điều cần thiết hơn là phải
“thấy được” những giá trị tích lũy của người nông dân từ mảnh đất mà họ đã “sử
dụng” trong một thời gian dài.
Thứ tư, cần xây dựng một bộ luật về đất đai nói chung, những quy định
phát luật về quyền sử dụng, quyền sở hữu đất và những vấn đề liên quan đến thu
hồi đất nói riêng hết sức cụ thể, minh bạch, hợp lí và công bằng. Bên cạnh đó,
cần xử lí nghiêm những tập thể, cá nhân lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt
ruộng đất hay một phần “địa tô” mà đáng lẽ ra người nông dân phải được hưởng.
Tóm lại, từ lí luận địa tô của Marx cho
chúng ta thấy được bản chất và các hình thái của địa tô. Việc khẳng định đất
đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện duy nhất về sở hữu đồng thời
đất đai được “phân chia” thành quyền sở hữu và quyền sử dụng là hoàn phù hợp với
điều kiện của nước ta hiện nay. Mấu chốt của vấn đề là vận dụng lí luận địa tô
trong điều kiện xã hội ở nước ta mà nhất là đối với đối tượng người nông dân bị
thu hồi đất sao cho hợp lí, hợp tình và hợp lòng dân. Người nông dân giao đất lại
cho Nhà nước để phục vụ cho các mục đích quốc phòng, an ninh, mục đích công cộng
cũng như phát triển kinh tế xã hội là việc làm cần thiết và tất yếu. Thế nhưng,
vấn đề là ở chỗ, trước trong và sau khi bị thu hồi (thu hồi trên 70% diện tích
đất) họ đã có nguy cơ rơi vào nhóm dễ bị tổn thương và có nguy cơ rơi vào nghèo
đói. Lúc này Nhà nước đóng vai trò then chốt để điều tiết các mối quan hệ lợi
ích từ chính giá trị địa tô mà đất đai mang lại. Địa tô trong chế độ CNXH cần
phải đảm bảo lợi ích và phải phản ánh được sự hài hòa, thống nhất về lợi ích giữa
cá nhân, tập thể và Nhà nước (3 chủ thể chính trong lợi ích địa tô và mối quan
hệ phân phối về lợi ích ruộng đất). Quan trọng hơn là, trong mối quan hệ lợi
ích này, Nhà nước sử dụng địa tô như một đòn bảy kinh tế trong lĩnh vực sản xuất,
phân phối và điều tiết xã hội. Có như thế, một mặt thỏa mãn được những nhu cầu
hợp lí trong vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực đầu tư công, mặt
khác Nhà nước mới có điều kiện (kinh tế, xã hội) giải quyết được bài toán người
nông dân mất đất: đào tạo nghề, trợ cấp vốn, chuyển đổi phương thức sản xuất, bảo
đảm xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội khác.
Tài liệu tham khảo:
1.
Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Giáo trình Quốc gia các bộ
môn khoa học Mác-Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật,
Hà Nội.2005
2.
K.Marx,
“Tư bản luận”, Quyển 3, Nhà xuất bản nhân dân. Bắc Kinh.1980 (bản tiếng Trung).
3.
Marx Engels Tuyển tập, Tập 2, Nhà xuất bản nhân dân. Bắc
Kinh 1995, trang 548-564 (bản tiếng
Trung).
[1]
Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
[2] Ở đây tác giả muốn nhấn mạnh
đến quá trình đô thị hóa nông thôn (Rural Urbanization)
[3] Đề
cương chi tiết báo cáo thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và xây dựng Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 10 năm (2011-2020) của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X khẳng định, mục tiêu tổng quát phấn đấu đến 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với tỉ trọng GDP của nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ lần lược là: 16-17%, 40-41%, 42-43%.
[4] K.Marx, “Tư bản luận”, Quyển
3, Nhà xuất bản nhân dân. Bắc Kinh.1980 (bản tiếng Trung)
[5] Trong bài viết này, trong
những trường hợp cụ thể, các khái niệm “ruộng đất” và “đất đai” được tác giả sử
dụng có hàm nghĩa tương đương.
[6] Xem thêm: Tư bản luận
[7]
Marx Engels Tuyển tập, Tập 2, Nhà xuất bản nhân dân. Bắc Kinh 1995, trang 548-564 (bản tiếng Trung)
[8]
Khái niệm “người nông dân mất đất” chúng tôi dùng ở đây nhằm để chỉ một bộ phận
hay một nhóm nông dân vì phải hoàn trả quyền sử dụng đất (nhất là đất nông nghiệp)
cho Nhà nước để phục vụ cho các mục đích Quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng,
lợi ích quốc gia cũng như phát triển kinh tế-xã hội. Những đối tượng này, đặc
biệt là nhóm bị thu hồi trên 70% diện tích đất canh tác nông nghiệp sẽ có
khuynh hướng “li nông” và “li hương”, điều này có ảnh hưởng đến bản thân họ, đến
xã hội nói chung và cả đến tiến trình xây dựng Nông thôn mới của Đảng và Nhà nước.
[9] Dự thảo sửa đổi hiến pháp
năm 1992 điều 57 và điều 58 (sửa đổi bổ sung điều 17, 18 hiến pháp năm 1992)
cũng khẳng định điều này.
[10] K.Marx, “Tư bản luận”,
Quyển 4, Nhà xuất bản nhân dân. Bắc Kinh.1980 (bản tiếng Trung)
[11] Khoản 1 Điều 19 Nghị định
69 /2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 về Qui định
bổ sung về qui hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư mặt dù cho qui định cụ thể cho những hộ gia đình có diện tích bị
thu hồi trên 70%, trong trường hợp này mức hỗ trợ có thể lên đến 36 tháng tùy
trường hợp cụ thể (3 triệu đồng đối với di chuyển trong tỉnh và 5 triệu đồng đối
với ngoài tỉnh) tuy nhiên theo chúng tôi đây không phải là những giải pháp căn
cơ để đảm bảo cuộc sống của nhóm người
này.
Nhận xét
Đăng nhận xét