“CHÍNH ĐỨC” VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
Y ĐỨC, “GIÁO ĐỨC”, “CHÍNH ĐỨC” VÀ ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP
Trong thời gian gần đây, nếu theo dõi theo dòng sự kiện mà Tuổi trẻ
đã đưa tin không khó để phát hiện nhiều vấn đề liên quan đến lĩnh vực y tế,
giáo dục và các vấn đề về quản lý
nhà nước về lĩnh vực y tế,
giáo dục và những biểu hiện lệch lạc
của nó mà dư luận cho rằng cái gốc của vấn đề chính là đạo đức nghề nghiệp. Vì tắc trách (cũng có thể là lòng
tham – cái mà đôi khi chúng ta thường gọi là “buông lỏng quản lý”) mà cựu giám
đốc CDC Hà Nội lãnh 10 năm tù vì nâng khống giá máy xét nghiệm; vì “buông lỏng
quản lý” mà một trường đại học đã “cấp” hàng trăm chứng chỉ, văn bằng không qua
đào tạo; vì “một phút nông nỗi” (cũng có thể do không được đào tạo bài bản) mà
một “giáo viên” đã nhét giẻ vào miệng cháu bé 12
tháng tuổi khi “đang theo học” tại cơ sở giáo dục mần mon; và mới đây,
vì một “sơ suất trong chi tiền hỗ trợ COVID-19” mà một kế toán xã đã bị cảnh
cáo; tương tự, một chủ chủ tịch và kế toán xã bị khởi tố vì nghi ăn chặn
tiền điện của người nghèo khiến nhiều người dân bức xúc, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến uy tín của chính quyền, niềm tin của nhân dân bị “va đập” mạnh,…
Bình diện chung mà nói, nghề nào
cũng có cái “thuật” (kỹ năng nghề) và cái “đức” (đạo đức nghề nghiệp - những quy phạm về đạo đức): hành nghề y có y đức, làm nghề giáo có
sư đức (đạo đức sư phạm), làm nghề kinh doanh có thương đức, người tùng chính
hay “làm quan” thì có chính đức (đạo đức của người “làm chính trị”)… Và chính cái “đạo đức nghề
nghiệp” này là một thành tố
quan trọng và là thang đo giá trị của mỗi con người, mỗi ngành nghề, đồng thời
khẳng định sự thành bại của chính chủ thể mà nó phục tùng.
Chính lẽ đó mới có câu “nhân vô đức bất
lập, quốc vô đức bất hứng”. Từ đó có thể hiểu rộng ra rằng khi mà nhà giáo
không đề cập đến đạo đức sư phạm, người hành nghề y không đặt y đức lên trên,
người làm chính trị (“làm quan” theo quan niệm xưa) không nói đến chính đức thì
cá nhân đó không thể (và không có tư cách) để đứng vào hàng ngũ nghề nghiệp mà
họ theo đuổi với tư cách là một thành viên, xã hội đó sẽ bất ổn định, “bất hứng”,
và niềm tin xã hội bị lung lay.
“Chính đức” – tức đạo đức người làm quan – của các công bộc của nhân dân,
trên bình diện nào đó mà nói, nó còn quan trọng và nguy hiểm (nếu xảy ra hiện
tượng “thất đức” trong chính đức) hơn nhiều so với lĩnh vực y tế. Cũng phải thừa
nhận rằng bất cứ nghề nào đều phải theo đuổi và mưu cầu quyền lợi (vật chất và
tinh thần, cá nhân và nhóm, xã hội và nhà nước) và thực hiện một chức năng nào
đó trong xã hội, giúp xã hội phát triển đi lên.
Thế nhưng vấn đề là ở chỗ những mưu cầu đó phải hợp thức, phải chính đáng,
phải hợp pháp và hợp với lòng người, với truyền thống văn hóa và hệ giá trị mà
xã hội đang kiến tạo chứ tuyệt nhiên không phải (và không thể) mưu cầu lợi ích
cá nhân mà chà đạp lên lợi ích của người khác, của nhân dân thông qua quyền lực
mà mình sở hữu.
Dư luận có lý khi lên án những hiện tượng “khuyết đức” trong lĩnh vực y tế
như: không có người nhà bệnh nhân thì không cấp cứu, không có tiền không chữa bệnh,
thậm chí bỏ mặc. Dư luận còn gay gắt lên án “các kiểu ăn”: ăn vắc xin, ăn gian
trong xét nghiệm, ăn tiền bệnh nhân, ăn tiền hỗ trợ người nghèo,…
Nhưng dư luận càng căm phẫn và lên án những biểu hiện “khuyết đức” trong
cách hành xử của người làm quan, bởi “chính đức” – tức đạo đức người làm quan –
của các công bộc của nhân dân, trên bình diện nào đó mà nói, nó còn quan trọng
và nguy hiểm (nếu xảy ra hiện tượng “thất đức” trong chính đức) hơn nhiều so với
lĩnh vực y tế. Vì sao?
Đối tượng của ngành y – mà cụ thể là của người thầy thuốc – chính là người
bệnh với nhu cầu chữa khỏi bệnh, nhưng đối tượng phục vụ của cơ quan hành chính
– mà cụ thể là “người làm quan” – chính là toàn thể nhân dân với những nhu cầu
thiết thân, hợp pháp như “y, thực, trú, hành” (mặc, ăn, ở, đi lại) và những nhu
cầu khác như: an toàn, tôn trọng, thể hiện cái tôi với tư cách là một công dân.
Có thể nói thất bại lớn nhất của một bác sĩ trong một ca chữa bệnh (hay phẫu
thuật) là một hoặc vài bệnh nhân (tử vong hoặc di chứng), nhưng thất bại của lối
hành chính cửa quyền, quan liên, nhũng nhiễu của một cán bộ thiếu “chính đức”
thì có thể là nhiều người dân rơi vào cảnh tán gia bại sản (10 năm mang án oan
của ông Nguyễn Thanh Chấn là một ví dụ), mất mát về tinh thần, thậm chí đánh mất
niềm tin…
Quan trọng hơn là sự “thất đức” của nghề y có thể “nhìn thấy” trong một vài
trường hợp (tiêm vắc xin dỏm khiến trẻ em tử vong, phẫu thuật không thành ném
xác khổ chủ để phi tang…) trong một thời gian ngắn, thế nhưng sự “thất đức”
trong “nghề làm quan” (trường hợp ép cung, xử án oan; câu kết với các phần tử xấu
để trục lợi và đục khoét tiền của của nhà nước; tự cho mình được phép hưởng những
đặc quyền đặc lợi mà lương có thể lên đến vài trăm triệu một tháng; chèn ép
nhân dân và người yếu thế khi thực thi chính sách xóa đói giảm nghèo, chính
sách người có công, chính sách người cao tuổi…) có thể mang lại những hậu quả
khôn lường rất khó “cân, đo, đong, đếm” được trong một thời gian ngắn ở một số
người hay một cộng đồng nhất định. Nếu chỉ dừng lại ở việc “kêu gọi” lòng từ
bi, bác ái để thực hành và kiến tạo “y đức” hay “chính đức” là chưa đủ và không
căn cơ, nếu không muốn nói là “gãi ngứa ngoài giày”.
Dư luận có lý khi cho rằng y đức, “giáo đức” đang xuống cấp là một trong những
nguyên nhân gây nên những sự vụ y tế trong thời gian qua; dư luận cũng đã nhìn
nhận rằng “một bộ phận không nhỏ” là cán bộ, đảng viên có những biểu hiện sa
sút về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, ngôn hành bất nhất, nhũng nhiễu nhân
dân và đặc biệt là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mưu cầu cá nhân, trục lợi,
làm giàu bất chính trong thời gian qua đã và đang là những “hạt sạn” cần chỉ
tên, điểm mặt.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã phát
biểu trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 17.9.2013 rằng: “Đạo đức xuống cấp ở
mọi lĩnh vực, y đức, giáo dục, tư pháp, hành pháp đều có cả, nguyên nhân vì sao
đã đến lúc cần tìm ra”.
Đúng là đã đến lúc cần “tìm ra” những căn nguyên của hiện tượng xuống cấp về
đạo đức xã hội nói chung, về “y đức”, “giáo đức” và “chính đức” nói riêng. Thế
nhưng vấn đề lớn hơn nữa là “làm thế nào” để “tìm ra” và đưa ra những thang thuốc
hữu hiệu để “chữa trị” và “phòng” hai căn bệnh trầm kha nói trên.
Để thực hiện mục tiêu phát triển
theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả,
nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; xây dựng môi trường
văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi
người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc
lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân” chắc chắn cần phải có sự quyết tâm mạnh mẽ của toàn hệ thống chính trị
để “bắt đúng mạnh, kê đúng thuốc, trị đúng bệnh”. Muốn vậy, thiết nghĩ nếu chỉ dừng lại ở việc “kêu gọi”
lòng từ bi, bác ái để thực hành và kiến tạo “y đức”, “giáo đức” hay “chính đức”
là chưa đủ và không căn cơ, nếu không muốn nói là “gãi ngứa ngoài giày”. Quan
trọng hơn cả là cần phải có một sự quyết tâm chính trị lớn từ các cấp lãnh đạo,
cần một hệ thống pháp luật và chế tài đủ mạnh, có sức răn đe lớn và có tác dụng
cảnh giới cao mới có thể dẫn đưa những hiện tượng lệch lạc xã hội trong y tế,
giáo dục, hành chính vào đúng quỹ đạo của nó, góp phần mang lại sự lành mạnh
cho xã hội.
Đà Nẵng, ngày 30 tháng 6 năm 2022
Phạm Đi
Nhận xét
Đăng nhận xét