BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY
NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở
TỈNH QUẢNG NGÃI HIỆN NAY
1. Khái
quát về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nữ của tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung, có
diện tích tự nhiên 5.135,2 km2, trong đó miền núi
3.225,32 km2, chiếm 62,81% diện tích của tỉnh. Toàn tỉnh có 14 đơn vị hành chính (01 thành phố, 01 huyện đảo, 06 huyện miền núi và 06
huyện đồng bằng) gồm 184 xã, phường, thị trấn, 1.081 thôn, tổ dân phố,
3.018 khu dân cư. Dân số gần 1,3 triệu người, trong đó phụ nữ có 392.798 người,
chiếm hơn 30% dân số toàn tỉnh.
Các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh luôn phát huy truyền
thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, hăng hái thi đua lao động, sản xuất, xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc... đạt nhiều thành tích trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhận thức về phụ nữ, bình đẳng giới trong các
cấp, các ngành và xã hội chuyển biến tích cực; phụ nữ được tôn trọng, vị thế
của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội được khẳng định.
1.1. Về số lượng, chất lượng cán bộ, công chức, viên chức nữ cấp tỉnh
Theo Báo cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi, tính đến
tháng 11 năm 2018, tổng số cán bộ, công chức, viên chức khối nhà nước cấp
tỉnh là[1]
7.714 người, trong đó cán bộ công chức là 1.089 người với 402 nữ, tỉ lệ
36,91%; 6.625 viên chức với 3.987 nữ, tỉ
lệ 60,18%. Chia theo trình độ chuyên môn: trong số 4.389
nữ, có 07 tiến sĩ, 07 chuyên khoa II, 370 thạc sĩ, 77 chuyên khoa I, 2.326 đại
học, 435 cao đẳng, 1149 trung cấp, còn lại là 18 người có trình độ dưới trung
cấp.
- Về trình độ lý luận chính trị: cán bộ, công
chức, viên chức nữ có trình độ cao cấp và cử nhân là 88 người; trung cấp là 274
người; sơ cấp là 1.780 người.
-
Về trình độ quản lý nhà nước: Số cán bộ, công chức, viên chức là nữ có trình độ
Quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch: Chuyên viên cao cấp và tương đương 05
người, Chuyên viên chính và tương đương 146 người, Chuyên viên và tương đương
430 người.
-
Về cơ cấu theo ngạch và chức danh nghề nghiệp: chuyên viên cao cấp và tương
đương 02 người; chuyên viên chính và tương đương 53 người; chuyên viên và tương
đương 413 người; cán sự và tương đương 40 người; nhân viên 9 người; chức danh
nghề nghiệp hạng I: 03 người; chức danh nghề nghiệp hạng II: 57 người; chức
danh nghề nghiệp hạng III: 2.130 người; chức danh nghề nghiệp hạng IV: 1.682
người.
1.2. Về số lượng, chất lượng cán bộ, công chức, viên chức nữ cấp huyện
- Tổng số cán bộ, công chức, viên
chức khối nhà nước cấp huyện hiện nay là: 15.656 người, trong đó 1.006 cán bộ,
công chức với 381 nữ, tỉ lệ 37,87%;
14.650 viên chức với 8.819 nữ, tỉ lệ 60,19%.
- Về trình độ chuyên môn: trong số 9200 nữ, có 07 Tiến sĩ, 02 chuyên khoa
II, 55 thạc sĩ, 01 chuyên khoa I, 4.777 đại học, 2.906 cao đẳng, 1458 trung
cấp, còn lại là 01 người.
- Về trình độ lý luận chính trị: cán bộ, công
chức, viên chức nữ có trình độ cao cấp và cử nhân là 77 người; trung cấp là 784
người; sơ cấp là 2.306 người.
-
Về trình độ quản lý nhà nước: Số cán bộ, công chức viên chức là nữ có trình độ
Quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch: Chuyên viên cao cấp và tương đương 04
người, Chuyên viên chính và tương đương 45 người, Chuyên viên và tương đương
280 người.
- Về
cơ cấu theo ngạch và chức danh nghề nghiệp: chuyên viên chính và tương đương 11
người; chuyên viên và tương đương 464 người; cán sự và tương đương 190 người;
nhân viên 271 người; chức danh nghề nghiệp hạng II: 1.762 người; chức danh nghề
nghiệp hạng III: 3388 người; chức danh nghề nghiệp hạng IV: 3114 người.
1.3. Về số lượng, chất lượng cán bộ công chức cấp xã
Tổng
số cán bộ, công chức xã có 3.832 người, trong đó có 1.055 nữ (chiếm tỷ lệ
27,53%).
-
Về trình độ chuyên môn: trong số 1.055 nữ cán bộ công chức cấp xã có 8 Thạc sĩ,
754 Đại học, 50 Cao đẳng, 233 Trung cấp và 10 Sơ cấp.
-
Về trình độ lý luận chính trị: Cán bộ, công chức xã nữ có trình độ lý luận
chính trị: Cao cấp 5 người, Trung cấp 651 người, Sơ cấp 288 người.
-
Về trình độ quản lý nhà nước: Số cán bộ, công chức cấp xã là nữ có trình độ
Quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch: Chuyên viên chính 4 người, Chuyên viên
144 người.
-
Về cơ cấu theo ngạch: Chuyên viên chính 4 người, Chuyên viên 773 người, Cán sự
272 người, Nhân viên 6 người.
2.
Về triển khai thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ nữ
2.1. Công tác tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến
các văn bản có liên quan
Hoạt
động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về bình đẳng
giới được lồng ghép vào hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật hàng
năm tại các cấp, các ngành và địa phương trên địa bàn tỉnh với nhiều hình thức
phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng nhóm đối tượng. Các sở,
ngành, hội, đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên
truyền, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về giới.
Các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị phổ biến, quán
triệt trong toàn thể cán bộ, công chức, viên chức các nghị quyết, văn bản của
Đảng và nhà nước về công tác cán bộ nữ nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm,
tạo sự chuyển biến rõ nét về hiệu quả công tác phụ nữ và bình đẳng giới; tạo
điều kiện thuận lợi cho nữ cán bộ công chức viên chức tham gia vào các vị trí
lãnh đạo, quản lý nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính
trị.
2.2. Việc
cụ thể hóa các văn bản liên quan và triển khai thực hiện
Triển
khai thực hiện các Nghị quyết, văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ
nữ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã cụ thể hóa, ban hành một
số văn bản để triển khai thực hiện như sau:
-
Chương trình hành động số 17- CTr/TU ngày 10/7/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Quảng Ngãi thực hiện Nghị quyết số 11- NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”;
- Kế hoạch số
71-KH/TU, ngày 22/7/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc thực hiện Kết luận
số 55-KL/TW ngày 18/01/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị Khóa X “Về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”;
- Chương trình
hành động số 01/CTHD-ĐĐ, ngày 11/01/2012 của Đảng đoàn Hội LHPN tỉnh thực hiện
Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh uỷ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực giai đoạn
2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
-
Quyết định số 144/QĐ-UBND ngày 07/7/2011 của UBND tỉnh ban hành Kế hoạch hành
động thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn năm 2011 đến năm
2020;
-
Quyết định số 18/2013/QĐ-UBND ngày 17/4/2013 của UBND tỉnh quy định trách nhiệm
của các sở, ban, ngành, UBND các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp hội liên
hiệp phụ nữ tham gia quản lý nhà nước và một số chủ trương, chính sách khác
liên quan đến phụ nữ;
-
Quyết định số 125/QĐ-UBND ngày 18/01/2013 của UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch
triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn
2010-2015;
-
Công văn số 5281/UBND-VX ngày 14/10/2015 của UBND tỉnh về việc thực hiện Quyết
định số 1696/QĐ-TTg ngày 02/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020;
-
Quyết định số 408/QĐ-UBND ngày 10/03/2017 của UBND tỉnh ban hành Kế hoạch thực
hiện Đề án “Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới” tại tỉnh Quảng
Ngãi giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến năm 2030;
-
Kế hoạch số 58/KH-UBND ngày 13/4/2018 của UBND tỉnh thực hiện công tác bình
đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ;
-
Kế hoạch số 130/KH-UBND ngày 29/10/2018 của UBND tỉnh thực hiện biện pháp bảo
đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi.
3. Một
số kết quả về thực hiện bình đẳng giới trong công tác cán bộ tỉnh Quảng Ngãi
3.1. Bình đẳng giới trong công tác cán bộ
a) Tỉ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng
- Số lượng nữ tham gia các cấp
ủy Đảng nhiệm kỳ 2010 - 2015: cấp tỉnh có 55 người, trong đó 07 nữ, tỉ lệ 12,73%; cấp huyện có 561 người, trong đó 69 nữ, tỉ
lệ 12,3; cấp xã có
2.568 người, trong đó có 412 nữ, tỉ lệ 16,04%.
- Số lượng nữ tham gia các cấp
ủy Đảng nhiệm kỳ 2015 - 2020: cấp tỉnh có 56 người, trong đó 06 nữ, tỉ lệ 10,7%; cấp huyện có 546 người, trong đó 82 nữ, tỉ lệ
15%; cấp xã có 2.401 người, trong đó có 500
nữ, tỉ lệ 20,8%.
b) Tỉ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
- Tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016: tổng số đại biểu Quốc
hội là 07 người, trong đó có 01 nữ, chiếm tỷ lệ 14,2%; tổng số đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh là 55 người, trong đó có 11 nữ, chiếm tỷ lệ 20%; tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có
466 người, trong đó có 74 nữ, chiếm tỷ lệ 15,87%;
số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có 4.690 người, trong đó có 832 nữ, chiếm
tỷ lệ 17,7%.
- Số lượng nữ đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021: tổng số đại biểu Quốc
hội là 07 người, trong đó có 04 nữ, tỷ lệ 57%; tổng số đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh là 55 người, trong đó có 13 nữ, tỷ lệ 23,63%; tổng số đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện có 466 người, trong đó có 96 nữ, tỷ lệ 20,6%; số đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có 4.708 người, trong đó có 1.037 nữ, tỷ lệ
22,02%.
Qua kết quả trên cho thấy, tỉ lệ
nữ đại biểu Quốc hội, tỉ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016-2021 cao hơn nhiệm kỳ 2011-2016.
c) Số lượng nữ giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý
- Cấp tỉnh: có 02 đồng chí nữ
tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy (01 đồng chí Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng -
Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, 01 đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh); 01 đồng chí Phó trưởng
Đoàn đại biểu Quốc hội; nữ Phó giám đốc sở, ngành và tương đương 06 người (tính cả 02 người ở đơn vị sự nghiệp trực
thuộc UBND tỉnh).
- Cấp huyện: Có 08 đồng chí nữ
giữ vị trí cán bộ chủ chốt cấp huyện (Bí thư Huyện ủy: 02; Chủ tịch HĐND huyện:
02; Phó Chủ tịch HĐND cấp huyện: 02; Chủ tịch UBND huyện: 01; Phó Chủ tịch UBND
cấp huyện: 01).
- Cấp xã: có 05 đồng chí là Bí
thư, 24 đồng chí Phó Bí thư; 02 Chủ tịch và 25 Phó Chủ tịch HĐND; 11 Chủ tịch
và 24 Phó Chủ tịch UBND cấp xã.
- Lãnh đạo nữ giữ
chức vụ Trưởng phòng và tương đương ở cấp sở, ban, ngành 20/119 (chiếm 16,81%),
Phó Trưởng phòng và tương đương ở cấp sở, ban, ngành 66/175 (chiếm 37,71%).
- Lãnh đạo nữ giữ
chức vụ phó trưởng phòng ở cấp huyện: Trưởng phòng 23/129 (chiếm 17,83%); Phó
Trưởng phòng 64/174 (chiếm 36,78%).
d) Số cơ quan, đơn vị có tỉ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên
chức và người lao động có lãnh đạo chủ chốt là nữ
Theo Báo cáo của tỉnh Quảng Ngãi, tính đến tháng
11 năm 2018, toàn tỉnh có 4/21 sở, ban, ngành cấp tỉnh có từ 30% nữ trở lên có
lãnh đạo chủ chốt là nữ; có 06/14 huyện có từ 30% nữ trở lên có lãnh đạo chủ
chốt là nữ; có 20/184 xã có từ 30% nữ trở lên có lãnh đạo chủ chốt là nữ.
3.2. Bình đẳng giới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
Trong
những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nữ của tỉnh Quảng Ngãi được
quan tâm đào tạo cả về chuyên môn, lý luận chính trị, bồi dưỡng quản lý nhà
nước, tin học và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để phục vụ công tác theo hướng
lồng ghép vào kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chung. Trong năm 2018, UBND tỉnh đã
phê duyệt Kế hoạch bồi dưỡng 01 lớp kỹ năng lãnh đạo quản lý cho nữ cấp tỉnh,
cấp huyện, đối tượng là Giám đốc, Phó Giám đốc các sở, ban, ngành, cơ quan
Đảng, đoàn thể cấp tinh, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND cấp huyện, cơ quan
đảng, đoàn thể cấp huyện và cấp ủy viên cấp tỉnh, cấp huyện (số lượng 100
người); 04 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác phụ nữ cho Ủy viên Ban Chấp hành
phụ nữ cấp xã, Chi hội trưởng, Chi hội phó, hội viên nồng cốt của Hội liên hiệp
phụ nữ cơ sở.
- Về
công tác đào tạo: từ năm 2016 đến nay, cử 288 cán bộ, công chức, viên chức đi
đào tạo trình độ sau đại học, trong đó có 100 cán bộ, công chức viên chức là
nữ, chiếm tỷ lệ 34,7%, cụ thể: 04 tiến sĩ , 02 thạc sĩ nước ngoài, 56 thạc sĩ ,
10 bác sĩ chuyên khoa II, 25 bác sĩ chuyên khoa I, 02 bác sĩ đi học định hướng
chuyên khoa, 01 bác sĩ nội trú. Đồng thời, mở 04 lớp trung cấp lý luận chính
trị - hành chính cho gần 438 cán bộ công chức cấp xã, trong đó 190 nữ cán bộ
công chức cấp xã tham gia.
- Về công tác bồi dưỡng: Từ 2016 đến nay, thực hiện
nhiệm vụ bồi dưỡng cán bộ công chức viên chức và cán bộ công chức cấp xã, hàng
năm UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch bồi dưỡng cán bộ công chức viên chức và cán bộ
công chức cấp xã, giao cho Sở Nội vụ phối hợp với các cơ sở đào tạo bồi dưỡng
mở 120 lớp bồi dưỡng với các nội dung:
quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính, quản lý nhà nước ngạch chuyên
viên, bồi dưỡng ngạch kế toán viên, bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp cho giáo
viên THPT, THCS, tiểu học và mầm non, bồi dưỡng lãnh đạo quản lý cấp phòng, bồi
dưỡng cập nhật kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, bồi
dưỡng cho công chức thực hiện công tác cải cách hành chính, bồi dưỡng nghiệp vụ
cho công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông.., bồi dưỡng nghiệp vụ công tác phụ nữ, bồi dưỡng theo
tiêu chuẩn chức danh công chức cấp xã (công chức tư pháp-hộ tịch, văn phòng-
thống kê, văn hóa-xã hội, địa chính-nông nghiệp-tài nguyên-môi tường...), bồi dưỡng
kiến thức, kỹ năng xây dựng, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội cấp xã, bồi dưỡng
kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho Chủ tịch, PCT UBND cấp xã; bồi dưỡng kỹ năng lãnh
đạo, quản lý cho Bí thư, Phó Bí thư và Trưởng đoàn thể chính trị - xã hội cấp
xã..... với 12.736 lượt cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, công chức cấp
xã, người hoạt động không chuyên trách ở xã tham gia, trong đó có 4.240 lượt nữ
cán bộ công chức viên chức.
Ngoài
kế hoạch bồi dưỡng của tỉnh, UBND tỉnh đã cử 07 nữ cán bộ công chức viên chức
tham gia các lớp: bồi dưỡng ngạch chuyên viên cao cấp, bồi dưỡng năng lực kỹ năng lãnh đạo quản lý cấp sở, cấp huyện và
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ở nước ngoài.
Năm
2016, tổ chức mở 51 lớp tập huấn báo cáo viên và lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ
năng và phương pháp hoạt động cho đại biểu HĐND cấp huyện và cấp xã nhiệm kỳ
2016 - 2021 theo kế hoạch. Số lượng đại biểu tham gia tập huấn, bồi dưỡng là
4.826/5095 người, đạt tỉ lệ 94,72%, trong đó hơn 1.000 nữ đại biểu HĐND cấp
huyện và cấp xã tham gia bồi dưỡng.
3.3. Bình đẳng giới trong công tác quy hoạch, tạo nguồn
Các cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện
tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ; Ban
Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 53-KH/TU ngày 08/5/2009 về khảo sát,
đánh giá tình hình công tác cán bộ nữ và đội ngũ cán bộ nữ trong tỉnh; thường
xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch và dự nguồn cho giai đoạn tiếp theo, chú trọng
đến lực lượng cán bộ nữ trẻ, có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng
lực công tác.
- Cấp tỉnh: nhiệm kỳ 2015-2020 quy hoạch Ban Chấp
hành 18/111 người, tỉ lệ 16,2%; quy hoạch Ban Thường vụ 22,8%; quy hoạch các
chức danh lãnh đạo tỉnh nhiệm kỳ 2016-2021: Chủ tịch UBND tỉnh 1/4 người, tỉ lệ
25%, Phó Chủ tịch UBND tỉnh 1/11 người, chiếm tỉ lệ 9,1%; Giám đốc Sở và tương
đương 2/50 người, tỉ lệ 4%, Phó Giám đốc Sở và tương đương 41/153 người, tỉ lệ
26,8%, trưởng phòng và tương đương 56/207 người, tỉ lệ 27,1%, phó trưởng phòng
và tương đương 110/282 người, tỉ lệ 39%.
- Cấp huyện: quy hoạch Phó Chủ tịch UBND huyện
17/79 người, tỉ lệ 21,5%, trưởng phòng và tương đương 91/419 người, tỉ lệ
21,7%, phó trưởng phòng và tương đương 186/539 người, tỉ lệ 34,5%.
- Cấp xã: quy hoạch chức danh Chủ tịch UBND cấp xã
33/431 người, tỉ lệ 7,7%, Phó Chủ tịch UBND cấp xã 143/688 người, tỉ lệ 20,8%.
3.4. Bình đẳng giới trong công tác bố trí, sử dụng
Công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ nữ
được các cấp ủy, các ngành quan tâm chú trọng. Các cấp ủy đã mạnh dạn bố trí
cán bộ nữ trẻ có năng lực vào các vị trí lãnh đạo. Việc đề bạt, bố trí thực
hiện đúng quy trình công tác cán bộ. Thực hiện công tác quy hoạch đi đôi với
việc đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt và bố trí sử dụng cán bộ, cụ thể:
- Từ năm 2016 đến nay, đã thực hiện bổ nhiệm mới cho
530 cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý, trong đó có 268
nữ (chiếm tỷ lệ 50,75%), cụ thể: 01 nữ Phó Giám đốc Sở và tương đương; 12 nữ
trưởng phòng, trưởng các đơn vị sự nghiệp thuộc sở, ngành; 19 nữ phó trưởng
phòng, cấp phó các đơn vị sự nghiệp thuộc sở, ngành và tương đương; 03 nữ trưởng
phòng, 10 nữ phó phòng chuyên môn, đơn vị thuộc UBND cấp huyện; 223 nữ Hiệu
trưởng, Phó hiệu trưởng các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu
học và mầm non. Luân chuyển 02 nữ Giám đốc Sở về làm Bí thư Huyện ủy, điều động
857 người, trong đó có 379 nữ, tỉ lệ 44,22%.
3.5. Bình đẳng giới trong công tác tuyển dụng, thi nâng
ngạch, thi thăng hạng
-
Về tuyển dụng công chức: trong năm 2017 và 2018, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức 02 kỳ
thi tuyển công chức cho các cơ quan hành chính cấp tỉnh và cấp huyện, với gần
2000 thí sinh tham gia dự thi. Kết quả, tuyển dụng được 144 công chức, trong đó
có 81 nữ, tỉ lệ: 56,25%.
-
Về tuyển dụng viên chức: trong năm học 2017 - 2018, Sở Giáo dục và Đào tạo,
UBND các huyện, thành phố tổ chức kỳ thi tuyển giáo viên cho các trường mầm
non, phổ thông công lập, với 5200 thí sinh tham gia dự thi. Kết quả, tuyển dụng
được 1.556 giáo viên, trong đó có 1.215 nữ, tỉ lệ: 78,08%.
-
Về thi nâng ngạch công chức: trong năm 2018, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức thi nâng
ngạch công chức từ chuyên viên lên chuyên viên chính, với 140 công chức tham
gia dự thi. Kết quả đạt 76 người, trong đó có 23 nữ, tỉ lệ 30,26%.
-
Về thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên: trong năm 2018, tỉnh Quảng
Ngãi tổ chức thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên từu hạng IV lên
hạng III và từ hạng III lên hạng II với 2782 giáo viên dự thi. Kết quả đạt
1.794 người, trong đó có 1.489 nữ, tỉ lệ 82,99%.
4. Một
số khó khăn và hạn chế, nguyên nhân và các giải pháp trong thực hiện công tác
cán bộ nữ thời gian đến
4.1. Đánh giá chung
Nhìn chung đội ngũ cán bộ nữ của tỉnh Quảng Ngãi trong
những năm gần đây đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, vai trò và vị
trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được khẳng định và đề cao. Tỷ
lệ cán bộ nữ tham gia vị trí quản lý, lãnh đạo ở các cấp có nhiều chuyển biến
tích cực. Đặc biệt sau khi Luật bình đẳng giới ra đời, thực hiện Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chương trình hành động số 17-CTr/TU
ngày 10/7/2007 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi thực hiện Nghị quyết số 11,
xã hội nhìn nhận và đánh giá vai trò, đóng góp của phụ nữ một cách thực chất và
đúng đắn hơn. Nhiều cán bộ nữ đã được tín nhiệm giao giữ những trọng trách quan
trọng trên cương vị lãnh đạo, quản lý và qua thực tiễn công tác đã thể hiện
được năng lực trong điều hành, quản lý, xây dựng và tập hợp quần chúng; làm
nòng cốt trong các phong trào ở đơn vị, địa phương; phát huy và khẳng định vai
trò giới nữ trong các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị -
xã hội các cấp. Chính sách đối với cán bộ nữ nói chung và chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nữ nói riêng được các cấp, các ngành chú trọng hơn. Việc lựa
chọn, quy hoạch, đào tạo, dự nguồn cán bộ nữ tham gia vào các cấp ủy Đảng, đoàn
thể và tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp được quan tâm
chú trọng. Trong công tác chuẩn bị cho nhân sự bầu cử HĐND, UBND và đại hội
Đảng các cấp, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo tổ chức đánh giá cán bộ, rà soát bổ
sung quy hoạch cán bộ, xem xét cơ cấu, bố trí cán bộ nữ ở các ngành và các lĩnh
vực, đảm bảo số lượng lẫn chất lượng. Công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nữ
được các cơ quan, đơn vị quan tâm, tạo điều kiện cho cán bộ nữ trực tiếp tham
gia vào các vị trí lãnh đạo bằng năng lực của bản thân họ. Cán bộ, công chức nữ
của tỉnh được quan tâm cử đi đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận
chính trị. Bên cạnh đó, các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực, trợ cấp cho
cán bộ, công chức đi học của tỉnh, trong đó có chính sách ưu tiên đối với cán
bộ công chức nữ, đã góp phần tích cực trong việc hỗ trợ cho cán bộ nữ có cơ hội
tiếp cận nhiều hơn các chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
Phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ tỉnh Quảng Ngãi nói
riêng đã không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên; mặt khác, sự quan tâm, tạo điều
kiện của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để chị em có cơ hội phát
triển toàn diện và tham gia trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những đóng góp tích cực và cụ thể của phụ nữ vào thành quả của công cuộc đổi
mới đã dần làm thay đổi những định kiến về vai trò của phụ nữ trong xã hội,
thừa nhận phụ nữ có khả năng tham gia lĩnh vực chính trị không thua kém nam
giới và nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò, vị trí của phụ nữ trong các
hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước.
4.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân
Mặc
dù tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức nữ của
tỉnh Quảng Ngãi tham gia các vị trí quản
lý, lãnh đạo có tăng lên, song so với các chỉ tiêu đề ra giai đoạn 2011
– 2020 trong kế hoạch hành động về bình đẳng giới thì tỷ lệ này vẫn còn thấp. Nhận thức về bình đẳng giới tuy có
chuyển biến tích cực, nhưng trên thực tế xã hội và một bộ phận gia đình vẫn còn
nhiều rào cản đối với sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ; khoảng cách
về giới vẫn còn tồn tại, những định kiến giới,
sự phân công vai trò giới mang tính truyền thống ở một số nơi vẫn chưa được
thay đổi kịp thời, đã tác động tới sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính
trị. Tỉ lệ nữ tham gia cấp ủy, lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị chưa
đạt, thiếu tính ổn định và bền vững; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ
nhiệm cán bộ nữ vẫn còn có những bất cập, đa số cán bộ công chức viên chức nữ
lãnh đạo, quản lý được bố trí chủ yếu là cấp phó, chưa xây dựng được cơ chế
chính sách đặc thù cho phụ nữ, phụ nữ có con nhỏ, phụ nữ vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn. Một số cấp ủy, chính quyền các cấp chưa quan đến công
tác cán bộ nữ, còn biểu hiện thiếu tin tưởng vào khả năng của cán bộ nữ, đánh
giá cán bộ nữ còn khắt khe.
Các
chính sách về độ tuổi, chỉ tiêu, quy trình quy hoạch… không tính đến đặc thù
giới nên ít thuận lợi hơn với phụ nữ. Trong cơ quan, phụ nữ thường bị nhìn nhận
xét nét hơn, những định kiến về năng lực quản lý của phụ nữ, sự thiếu tin tưởng
vào khả năng của cán bộ nữ, cũng như việc lựa chọn, đánh giá, sử dụng cán bộ nữ
đôi lúc còn thiếu khách quan. Một số ngành như y tế, giáo dục có tỉ lệ nữ đông
nhưng cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ rất ít. Nguồn cán bộ nữ đưa vào quy hoạch
còn thấp, chưa có chiến lược tạo nguồn lâu dài. Nhiều
phụ nữ chưa mạnh dạn tham gia vào quá trình quản lý xã hội và cộng đồng, đặc
biệt là phụ nữ nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Rào cản chính trong việc
phụ nữ tham gia chính trị không phải do bất cập về năng lực hay động cơ mà là
các yếu tố về gia đình, quan niệm về vai trò giới. Phụ nữ vẫn đang phải chịu những định kiến như: tư
duy phụ nữ hạn chế so với tư duy nam giới, phụ nữ phải dành nhiều thời gian cho
gia đình nên ít có điều kiện tham gia hoạt động chính trị, tâm lý tự ti của phụ
nữ hạn chế sự phát huy năng lực và sở trường… Chừng nào những định kiến đó chưa
được gạt bỏ thì điều kiện tham gia hoạt động chính trị của phụ nữ vẫn còn bị
hạn chế.
4.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ
nữ thời gian đến
Thứ nhất, tăng cường giáo dục,
tuyên truyền hơn nữa nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người dân trong việc
nhận thức vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền,
các tổ chức chính trị - xã hội; tạo bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả
công tác cán bộ nữ ở từng ngành, địa phương, đơn vị.
Thứ hai, các cấp ủy Đảng trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tăng cường trách nhiệm lãnh đạo đối với công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ ở từng cấp,
từng ngành, từng cơ quan, đơn vị; gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch
và bố trí sử dụng cán bộ nữ, đảm bảo yêu cầu phát triển liên tục bền vững đội
ngũ cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tránh
tình trạng khi đại hội, bầu cử mới tìm nhân sự đủ tiêu chuẩn. Thực hiện luân
chuyển cán bộ nữ theo quy hoạch, kết hợp luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Đổi mới quy trình giới thiệu cán bộ nữ vào nguồn quy
hoạch các chức danh lãnh đạo quản lý các cấp để bảo đảm cơ cấu ngay từ trong
quy hoạch.
Thứ ba, để thực hiện tốt chủ trương, quan
điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ, các tổ chức Đảng và Nhà nước phải đặt vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ xuyên suốt. Đồng thời quy định
trách nhiệm cụ thể cho người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa phương, đơn
vị về xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ nữ của ngành mình, cấp mình.
Thứ tư, tỉnh Quảng Ngãi cần
có kế hoạch cụ thể và quyết liệt hơn nữa nhằm thực hiện đạt 03 chỉ tiêu mục
tiêu 1 của Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011 đến năm 2020: tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí
quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực
chính trị.
TS.Phạm
Đi
[1]
Báo cáo Tình hình thực hiện công tác cán bộ nữ của tỉnh Quảng Ngãi năm 2018 của
UBND tỉnh Quảng Ngãi.
Nhận xét
Đăng nhận xét