CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

XÁC LẬP CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỮNG CHẮC ĐỂ ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Establishing national sovereignty in cyberspace: A solid legal basis for fighting and refuting wrong and hostile views in the new situation

 

           

Tóm tắt: Chủ quyền quốc gia luôn gắn với quá trình lịch sử và có tính lịch sử. Cùng với sự tiến bộ và sự phát triển nhanh chóng các nền tảng công nghệ, nội hàm của “chủ quyền quốc gia” cũng phải được bổ sung, hoàn thiện. Nếu như trước đây “chủ quyền quốc gia” được giới định bằng vùng đất, vùng trời, vùng biển-hải đảo và sau đó đến “không gian thứ tư”: không gian vũ trụ, thì ngày nay với xu thế của kinh tế số, xã hội số,…chủ quyền quốc gia phải được bổ sung “không gian thứ năm”: không gian mạng. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận-thực tiễn, tính tất yếu, quan điểm, giải pháp để xác lập và tuyên bố chủ quyền quốc gia trên không gian mạng làm căn cứ pháp lý cho việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong bối cảnh mới.

Abstract: National sovereignty is always associated with historical and historical processes. Along with the progress and rapid development of technology platforms, the content of "national sovereignty" must also be supplemented and perfected. If in the past "national sovereignty" was defined by land, airspace, sea-island and then "fourth space": outer space, today with the trend of economy digital, digital society, etc., national sovereignty must be supplemented with a "fifth space": cyberspace. The article analyzes a number of theoretical-practical issues, inevitability, viewpoints, and solutions to establish and declare national sovereignty in cyberspace as a legal basis for the struggle against these views. wrong and hostile points, contributing to firmly defending the Fatherland in the new context.

 

Từ khóa: Chủ quyền quốc gia, Không gian mạng, Không gian thứ năm

Key words: National Sovereignty, Cyberspace, Fifth Space

 

1. Đặt vấn đề

Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, không gian mạng (Cyberspace) đã thực sự trở thành nơi giao tiếp, kết nối, trao đổi[1] (kể cả trao đổi, mua bán hàng hóa) không thể thiếu thiếu đối với mỗi người cũng như cộng đồng. Mô thức tương tác này như một xung lực tác động trực tiếp đến hoạt động sống của con người, chi phối mạnh mẽ hành vi của cá nhân, cộng động.

Trên bình diện quốc gia với cách tiếp cận đa chiều nhìn nhận, không gian mạng và tương tác trên không gian mạng là một xu thế tất yếu, vừa có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực. Vấn đề là ở chỗ, quyền xác lập các “hàng rào kỹ thuật” gắn với đó là các nguyên tắc, quy tắc, luật pháp và quyền phát ngôn, tài phán của quốc gia để hình thành “chủ quyền không gian mạng” cần phải được các nước và cộng đồng quốc tế thừa nhận và tôn trọng. Hiện tại, “chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” là một khái niệm, lĩnh vực tương đối mới mẽ. Khi xác lập được chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, mỗi quốc gia có quyền tài phán, quyền bình đẳng với các quốc gia khác. Đó là căn cứ pháp lý-chính trị quan trọng để giải quyết một số vấn đề có liên quan, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị; bảo vệ hình thái ý thức, hệ tư tưởng của một thể chế chính trị; bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Có nhiều cách hiểu khác nhau về “không gian mạng” nhưng theo chúng tôi, cách hiểu sau đây mang tính bao quát và gắn với thực tiễn nhất: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian[2]. Mặc dù không gian mạng “không giới hạn bởi không gian và thời gian” nhưng luôn phải gắn với sự quản lý và kiểm soát của chính phủ mỗi nước bởi không có cái gọi là “không gian mạng” chung chung mà phải gắn với chủ thể được xác định của nó tức là “không gian mạng quốc gia”[3].

Không gian mạng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống thường nhật cũng như trong hoạt động sản xuất, trao đổi của con người. Đặc biệt, trong việc xác lập “giới hạn” và chủ quyền của quốc gia, “không gian mạng” đã trở thành một “không gian thứ năm” (sau “không gian trên đất liền”, “không gian vùng trời”, “không gian vùng biển và hải đảo”, “không gian vũ trụ”[4]). Đối với các khái niệm “lãnh hải”, “lãnh thổ” thì đã quá quen thuộc với chúng ta nhưng “không gian thứ năm” quả thực không phải ai cũng ý thức được đó là một thứ “chủ quyền” cần phải xác lập bởi tính mới mẽ và phức tạp của nó. Muốn nhận thức “chủ quyền quốc gian trên không gian mạng” thì trước hết phải tìm hiểu các tính chất, đặc trưng của “không gian mạng”.

Thứ nhất, không gian mạng có tính kỹ thuật, được xác lập trên những quy tắc và tiêu chuẩn kỹ thuật đã được mã hóa (coding) bởi chương trình, phần mềm, tổ hợp trên nền tảng của công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication Technology - ICT) và truyền tải bằng mạng lưới Internet theo các bộ giao thức TCP/IP để trao đổi, lưu trữ dữ liệu. Như vậy, ai nắm được quyền kiểm soát hệ mã hóa cũng đồng nghĩa với khống chế được nguồn tài nguyên mạng. Nói cách khác, một quốc gia có quyền chế định và quản lý mã hóa (coding) và nền tảng ICT tốt  thì có đủ năng lực để bảo vệ tài nguyên số của chính mình, thậm chí khống chế thông tin từ quốc gia khác. Như vậy, tính kỹ thuật là tính chất cực kỳ quan trọng của không gian mạng thể hiện không chỉ ở các chương trình mã hóa, giao thức, tiêu chuẩn kỹ thuật và trật tự hoạt động của không gian mạng mà còn liên quan đến an ninh quốc gia, lợi ích kinh tế và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Thứ hai, không gian mạng có tính ảo (còn gọi là “không gian ảo”). Các mô hình tham chiếu kết nối các hệ thống mở (Open Systems Interconnection Reference Model – OSI) cũng không tồn tại trong xã hội “thực”, do đó, khi tương tác trên mạng xã hội thì các vai trò, vị thế của mỗi cá nhân, nhóm cũng có thể là những “con người ảo” và hình thành nên “thế giới ảo”. Chính lẽ đó, không ít “con người thật” đã lợi dụng “tính ảo” của mạng xã hội để làm sai lệch các dữ liệu, phá hoại hệ thống kết cấu dữ liệu bằng các hoạt động bất hợp pháp, phạm tội mà luôn biện minh cho hành động của mình là “hợp lệ”, “hợp pháp” hoặc chí ít là “không vi phạm chủ quyền của nước khác”. Do đó, không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng tính chất này của không gian mạng để đã kích, bôi nhọ, phản bác, kích động, lôi kéo, nói xấu thậm chí đánh phá, tấn công mạng để làm sụp đổ hệ thống thông tin của quốc gia khác. Nhìn lại diễn biến xung đột quân sự giữa Nga và Ucraina thời gian qua cho thấy, cuộc chiến “thật” trên chiến trường và cuộc chiến “ảo” trên không gian mạng đang “song hành” với nhau và không kém phần ác liệt. Đương nhiên, tính sát thương của “cuộc chiến ảo” với cả những tin đồn, thông tin định hướng dư luận xã hội không “thua kém” gì với cuộc chiến thực địa. Thậm chí sự cáo buộc nhau giữa hai bên về động thái “phá họa” nền tảng truyền thông như các trang Web chính thống; các thông tin mang tính nhiễu loạn trên “mặt trận thứ năm” làm thui chột tinh thần, ý chí chiếu đấu của mỗi bên.

Thứ ba, không gian mạng có tính mở (tính “vượt biên giới cứng”). Ngay trong định nghĩa ở trên cũng đã cho thấy “tính không bị giới hạn” về thời gian và không gian của không gian mạng. Con người có thể thoải mái tìm hiểu, tương tác, trao đổi, mua sắm trên các nền tảng trực tuyến mà không bị hạn chế bởi giới tính, tuổi tác, tín ngưỡng, quốc tịch,… Tính chất mở và không giới hạn của không gian mạng vừa là một “thuận lợi” nhưng cũng là thách thức lớn, nhất là ở giác độ quản lý xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người và an ninh mạng. Ngay cả các quốc gia khởi nguồn mạng Internet cũng luôn lo lắng về quyền tự do và “tính mở” của nó. Điều đáng nói, không ít quốc gia luôn tìm cách cổ xúy cho cái quyền tự do trên không gian mạng để tìm cách khống chế, hạn chế quyền bình đẳng, tự quyết, tài phán của quốc gia khác trên nền tảng ICT và TCP/IP và đi đến chủ thuyết “phi chủ quyền hóa” (De-sovertization) trên các nền tảng truyền thông mạng mà chúng ta thường gọi là “thế giới ảo”. Nhiều quốc gia trên thế giới đã hình thành các “hàng rào kỹ thuật” và các giải pháp mang tính pháp lý để bảo vệ “không gian thứ năm”, giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề nảy sinh, góp phần ổn định trật tự xã hội[5]. Việc ban hành Luật An ninh mạnh là một động thái tích cực, kịp thời của chúng ta để vừa làm căn cư pháp lý xử lý các hành vi vi phạm trên không gian mạng, vừa là “hàng rào kỹ thuật” để bảo vệ chủ quyền quốc gia trong tình hình mới.

Những phân tích trên có thấy, thiết lập để đi đến “đòi độc lập” giữa không gian mạng (không gian ảo) và không gian xã hội (không gian thật); tách bạch không gian truyền thống (vùng đất, vùng trời, vùng biển, vùng hải đảo,...) với không gian phi truyền thống[6] (không gian mạng) là hoàn toàn phi lý và không có sở sở. Nói cách khác, tách “không gian mạng” ra khỏi phạm vi quản lý của Nhà nước và Chính phủ là hoàn toàn thiếu căn cứ lý luận và thực tiễn[7]. Bởi dù “xã hội ảo”, “thế giới ảo” thì cũng là các hành động, hành vi “có thật” trong “xã hội hiện thực” của một “hiện thực xã hội” trong một thời gian thật. Do đó, cần phải được xác lập và chịu chi phối bởi các quy tắc, chuẩn mực, chuẩn tắc của luật pháp. Không gian mạng không thể (và không bao giờ) sẽ trở thành một “xã hội độc lập”, “vương quốc độc lập” như một số “chủ thuyết” đã rêu rao và “hợp thức hóa” cho các hành vi tội phạm mạng, tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng,... mà (và chắc chắn phải là) luôn bị giới hạn và chế ước bởi một nhà nước, một chính phủ nhất định gắn với quy định, luật pháp, chế tài và hình thành một thứ chủ quyền được xác lập và thừa nhận: chủ quyền quốc gia trên không gian mạng để xử lý các tình huống nguy hiểm về an ninh mạng, bảo vệ không gian mạng quốc gia[8].

3. Nhận diện quan điểm thiên lệch, méo mó nhằm phủ nhận chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Chúng ta thừa nhận một điều hiển nhiên là, chủ quyền và quyền chủ quyền, quyền tài phán là quyền lực tối cao của một quốc gia. Trong đó, quyền độc lập (Right of Independence) là một trong những “quyền tối cao” mà mỗi quốc gia có được để tự giải quyết các vấn đề nảy sinh mà không chịu sự chi phối, khống chế, can dự của bất cứ thế lực nào. Trong không gian mạng, quyền này được biểu hiện: (1) Hệ thống mạng (bao gồm cả các nền tảng ICT) của mỗi quốc gia có thể hoạt động độc lập mà không bị các quốc gia khác kiểm soát, can thiệp; (2) Mỗi quốc gia, tùy theo tình hình thực tiễn và các quy định hiện hữu của thể chế, có thể quyết định một cách độc lập việc duy trì kết nối với mạng quốc tế (hay không) mà không bị hạn chế bởi bất cứ thế lực khác; (3) Trên cơ sở không ảnh hưởng đến kết nối quốc tế, các quốc gia có quyền xây dựng, hình thành các chính sách an ninh mạng một cách độc lập; cho phép hoặc không cho phép (cấm) những hành vi thực hiện trên không gian mạng (ví dụ cấm tổ chức, hoạt động, xúi dục, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện, người hay tổ chức chống lại Nhà nước; đưa thông tin sai sự thật gây hoang mang trong công chúng, gây thiệt hại về kinh tế-xã hội, gây suy giảm niềm tin xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,...).

Thực tế cho thấy, thời gian qua các thế lực thù địch đã vi phạm một cách nghiêm trọng về “quyền độc lập” của quốc gia trên không gian mạng. Khi chúng ta xây dựng và ban hành Luật An ninh mạng thì không ít bài viết, luận điệu chống phá, cản trở thậm chí “bôi đen”, vu khống nhằm tạo ra nhận thức sai lệch, “diễn  biến” tình hình không có tự do nói chung, tự do trên không gian mạng nói riêng[9] và tự cho phép cho các phần tử xấu “hợp thức hóa” những hành vi sai trái của mình như tấn công mạng, khủng bố mạng,...

Song song với đó, các thế lực thù địch không ngừng vu khoát rằng, Việt Nam không tôn trọng quyền tự do con người, quyền tự do phát ngôn trên không gian mạng và hình thành “luật chơi riêng”[10]. Họ đã quên (và cố tình quên) rằng, quyền “độc lập” cho phép các quốc gia chế định các chính sách nhằm đảm bảo an ninh mạng, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Đương nhiên, các chính sách này gắn với các quy định, chế ước của luật pháp và Luật An ninh mạng chỉ là một trong nhiều biện pháp mà thôi.

Bên cạnh đó, chúng ta không khó để nhận ra rằng, với quan điểm không gian mạng là “sản vật chung mang tính toàn cầu” (tài sản chung) mà tất cả những người sử dụng sẽ hình thành một cộng đồng mạng toàn cầu, từ đó hình thành khái niệm (thậm chí là học thuyết) về “Công dân toàn cầu”, “Cộng đồng toàn cầu” (Global Commons)[11] và nhấn mạnh đến tính “tự do” (một cách tuyệt đối) trên không gian mạng. Quan điểm “cộng đồng toàn cầu” cho rằng, không gian mạng cũng giống như đại dương, vũ trụ nên là “của chung”; nhà nước và chính phủ của mỗi quốc gia không có quyền can thiệp vào các hoạt động trên không gian mạng (tức không có “chủ quyền trên không gian mạng”). Rõ ràng, “cái lý” trên không có giá trị và cơ sở để tồn tại. Vì sao”? Trước hết, không gian mạng và tất cả hạ tầng mạng gắn với ICT là do con người nghiên cứu, phát minh, sáng tạo và sử dụng để phục vụ cho tiến trình phát triển của nhân loại, nó không phải là “tài sản chung” hay di sản mang tính quốc tế (common heritage or international patrimony); thứ hai, do điều kiện và trình độ phát triển của khoa học, kỹ thuật gắn với nền tảng ICT tiên tiến, một số quốc gia phát triển có tính ưu trội trong kiểm soát không gian mạng quốc tế, nhưng không phải vì thế mà không gian mạng không thuộc quyền tài phán của mỗi quốc gia có chủ quyền. Thậm chí, trên phạm vi thế giới, đa số mạng toàn cầu do các công ty tư nhân kiểm soát đi chăng nữa thì cũng không phải là cơ sở pháp lý để phủ nhận quyền lực nhà nước trong việc điều hành không gian mạng, phủ nhận chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Chỉ có những thế lực đi rêu rao và tự cho mình sử dụng cái “tài sản chung” đó luôn muốn quốc gia khác là “thuộc địa số” (Digital colony) của mình, nếu không nắm được chủ quyền quốc gia trên không gian mạng cũng có thể mất kiểm soát trên một số lĩnh vực khác. Hơn thế nữa, do tính chất phức tạp của hoạt động kiểm soát không gian mạng (kể cả khách quan và chủ quan; tính chất và quy mô; trình độ và năng lực; luật pháp và đạo đức,...) nên các thế lực thù địch không ngần ngại “khuyên” các quốc gia từ bỏ quyền tài phán của mình trên không gian mạng.

Một mặt phủ nhận vai trò, quyền hành xử của mỗi quốc gia trên không gian mạng với lý luận “tài sản chung” nhưng đồng thời cũng tiến hành xác lập hệ thống luật pháp để quản lý và tuyên bố chủ quyền trên không gian mạng, tuyên bố “Chiến lược an ninh mạng” và mở rộng quyền “bá chủ địa lý” không gian mạng để biến nhiều quốc gia trở thành thuộc địa mạng và mất chủ quyền số[12]. Đó là điều hết sức nguy hiểm và là một kiểu “diễn biến” phức tạp, tinh xảo.

4. Một số biện pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

4.1. Quan điểm, căn cứ  về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Tất cả các nước (không tính đến quy mô lãnh thổ, quy mô dân số hay chế độ xã hội) đều có chủ quyền quốc gia. Theo đó, trong thời đại công nghệ số và mạng lưới Internet phủ sóng toàn cầu như hiện nay, mọi quốc gia đều có chủ quyền của mình trên không gian mạng và được các quốc gia khác tôn trọng. Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bao gồm nhiều quyền khác nhau nhưng chủ yếu tập trung vào các quyền cơ bản là: quyền độc lập (Right of Independence); quyền bình đẳng (Right of Equality); quyền tài phán (Right of Jurisdiction) và quyền tự vệ (Right of Self-defence).

Thứ nhất, quyền độc lập xác lập quyền tự quyết đối với các vấn đề đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia mà không bị bất kỳ sự kiểm soát và can thiệp nào từ các thế lực bên ngoài. Mạng Internet của quốc gia có thể được vận hành một cách độc lập và thậm chí tự quyết có kết nối với mạng quốc tế hay không. Quốc gia có quyền hình thành hệ thống phòng vệ nội bộ để kiểm soát an ninh trên toàn bộ không gian mạng. Kể cả các hoạt động kinh tế đến văn hóa, giải trí hay chính trị mà không chịu chi phối bởi bất kỳ thế lực nào.

Thứ hai, quyền bình đẳng xác lập mỗi quốc gia có đủ tư cách, vị thế trong quan hệ quốc tế một cách bình đẳng và đồng thời được thụ hưởng quyền bình đẳng theo quy định của luật pháp quốc tế. Trên một phương diện nào đó nhìn nhận, quyền bình đẳng là sự “mở rộng” của quyền độc lập dân tộc và là biểu hiện trực tiếp của chủ quyền quốc gia. Trên không gian mạng, quyền bình đẳng quốc gia được thể hiện: (1) Tất cả các quốc gia đều bình đẳng trên không gian mạng. Quốc gia này có quyền chế định chính sách, luật pháp để đảm bảo an ninh mạng thì không thể phủ nhận vai trò, vị thế của quốc gia khác về vấn đề tương tự; (2) Tất cả các quốc gia trên thế giới không có quyền “quản lý” mạng lưới Innernet toàn cầu và buộc quốc gia khác phải phục tùng. Ngược lại, các quốc gia đều bình đẳng trong quản trị quốc tế về không gian mạng (kể cả tội phạm mạng mang tính quốc tế) và thực hiện quyền quản lý của mình để bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình.

Thứ ba, quyền tài phán đảm bảo cho quốc gia thông qua các biện pháp khác nhau như lập pháp, hành pháp, tư pháp để kiểm soát và xử lý các hành vi của cá nhân, nhóm, tổ chức (trong và ngoài lãnh thổ quốc gia) khi xâm hại đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của quốc gia trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Đương nhiên, bao gồm cả các hoạt động trên không gian mạng có nguy cơ đe dọa đến an ninh mạng, an ninh con người, an ninh quốc gia.

Thứ tư, quyền tự vệ xác lập quyền chống lại các cuộc tấn công làm tổn hại đến sự an toàn, an ninh quốc gia. Thực hiện quyền tự vệ trên không gian mạng là quốc gia có quyền đưa ra các biện pháp, công cụ để chống lại các cuộc tấn công nhằm vào mạng lưới Internet và hạ tầng mạng của mình; lực lượng an ninh mạng có quyền tự vệ, phòng thủ và hóa giải các “cuộc tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia”[13].

Như vậy, việc xác lập chủ quyền quốc gia trên không gian mạng vừa thể hiện các quyền “tự nhiên” được thế giới công nhận, đồng thời thể hiện tính tự chủ, tính chính đáng, tính tất yếu, tính thực tiễn, tính khả dụng, tính thông lệ và không có rào cản hay thế lực nào có thể ngăn cản, chi phối.

Không phải ngẫu nhiên mà các thế lực thù địch luôn lợi dụng không gian mạng để bôi nhọ, nói xấu, bóp méo thậm chí công kích, chống phá nhằm từng bước phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành quả đổi mới và phát triển, phủ nhận con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Bởi lẽ, chỉ cần phủ nhận chủ quyền quốc gia trên không gian mạng thì họ có thể phủ nhận vai trò, vị trí và quyền kiểm soát của chúng ta về các phát ngôn, hành xử trên nền tảng truyền thông số; phủ nhận quyền độc lập, tự chủ, quyền tài phán của quốc gia về “không gian thứ năm” và từng bước biến quốc gia khác trở thành “thuộc địa số” cho các cường quốc về công nghệ. Trong bối cảnh hiện nay, việc xác lập chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là rất cần thiết và mang tính cấp bách, tính sống còn để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

4.2. Một số biện pháp xác lập và bảo vệ quyền quốc gia trên không gian mạng

Xác lập, tuyên bố và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là một quá trình hết sức khó khăn nhưng dù khó mấy cũng phải tiến hành. Bởi trong thời đại công nghệ số, xã hội số và kinh tế số như hiện nay thì an minh mạng, với tư cách là dạng an ninh phi truyền thống, là lĩnh vực rất quan trọng. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch[14]. Điều đó có nghĩa là, để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch thì cần phải đảm bảo an ninh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có an ninh mạng. Muốn đảm bảo an ninh mạng thì chắc chắn phải xác lập, củng cố, tuyên bố, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Để làm được điều đó, trước mắt cần tiến hành một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục kiện toàn và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường quản lý không gian mạng. Muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng thì trước hết phải kiện toàn cơ sở chính trị-pháp lý. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông thì bài toán quản lý cần phải xác lập và kiện toàn. Vấn đề là, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn và bảo đảm hài hòa lợi ích kinh tế với quốc phòng, an ninh; giữa lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, lợi ích của doanh nghiệp và những ngành nghề có liên quan mà tiến hành chế định hệ thống luật pháp tương ứng[15],… Với nước ta, mặc dù Luật An ninh mạng đã được ban hành nhưng chưa phải đã “phủ sóng” toàn bộ các hành vi trên không gian mạng. Đặc biệt, đó chưa phải là “bản tuyên ngôn” về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng[16] mà ít nhất là phải khẳng định tính tự chủ, tính bình đẳng; đảm bảo nguyên tắc về quyền độc lập, quyền tài phán, quyền tự vệ trên không gian mạng[17]. Bên cạnh “công cụ chính trị” thì “công cụ hành chính” cũng rất quan trọng đối với quản lý không gian mạng. Cơ quan nhà nước tiến hành ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết tốt các vấn đề xã hội diễn ra trên không gian mạng (lừa đảo, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy; xâm hại đến đạo đức, sức khỏe cộng đồng; làm sai lệch các kết quả và thành quả phòng chống Covid-19 của chúng ta; tổ chức hoạt động cấu kết, xúi giục, lôi kéo cá nhân, tổ chức chống phá Nhà nước,…). Tất cả những hành vi đó, có thể điều chỉnh bằng công cụ hành chính. Nói cách khác, hoạt động lập pháp và các biện pháp hành chính tương ứng là bộ phận không thể thiếu trong xây dựng, kiện toàn hệ thống pháp luật nói chung, luật pháp về không gian mạng nói riêng.

Hai là, tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm mạng một cách hiệu quả. Cần phải lưu ý và ý thức rằng, một trong những biện pháp để “tuyên bố chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” là hợp tác quốc tế. Như đã phân tích, không gian mạng có tính “xuyên biên giới” và như vậy, nếu chỉ “khu trú” trong nội tại của một quốc gia thì khó có thể thực hiện quyền tài phán một cách đầy đủ. Chẳng hạn, tội phạm mạng có đặc điểm không giống với các loại tội phạm xuyên quốc gia truyền thống nên nếu không có biện pháp đặc thù và hợp tác quốc tế thì khó có thể ngăn chặn, xử lý một cách kịp thời, hiệu quả.

Song song với việc tăng cường hợp tác quốc tế cần phải điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong nước về an ninh mạng từng bước phù hợp, tương thích với các tuyên bố quốc tế về phòng chống tội phạm mạng. Nói cách khác, tăng cường hợp tác quốc tế, ngoài việc tiến hành xây dựng cơ chế, chính sách để đẩy mạnh hợp tác giữa tổ chức, cá nhân Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài, các tổ chức quốc tế về an ninh mạng,… thì cũng cần nghiên cứu hình thành các cơ quan tư pháp tương ứng (thậm chí đề xuất tham gia vào các tổ chức quốc tế về phòng chống tội phạm mạng) để xử lý các hành vi xâm phạm an ninh mạng quốc gia. Động thái đó cũng góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia trên “không gian thứ năm” của một quốc gia độc lập như Việt Nam.

Ba là, xác lập và thực hiện quyền tài phán quốc gia đối với nguồn thông tin, không gian số và nguồn tài nguyên số. Thời đại số gắn với các khái niệm mới như “dữ liệu lớn”, “thành phố thông minh”, “trí tuệ nhân tạo”, “thương mại điện tử”, “Internet kết nối vạn vật”, “kết nối thực tế-ảo”,… Tất cả những lĩnh vực này có nhiều điểm khác nhau nhưng mẫu số chung là “thông tin” (được mã hóa coding). “Thông tin” được ví như “chất dầu nhớt” bôi trơn toàn bộ “cỗ máy số”, do đó, vấn đề an ninh, an toàn thông tin đã thực sự trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong an ninh quốc gia. Thực tế cho thấy, một sự “rò rỉ” về thông tin trên mạng có thể kéo theo sự sụp đỗ của cả hệ thống tài chính, có thể gây nên sự bất ổn xã hội, thậm chí làm suy yếu khả năng phòng vệ quốc phòng của của một quốc gia. Do đó, xác lập và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng cần phải, một mặt, Nhà nước tiến hành quản lý chặt chẽ thông tin, nguồn tài nguyên số để đảm bảo an toàn, an ninh số nhưng đồng thời, phải khẳng định quyền tài phán quốc gia đối với nguồn tài nguyên này. Bất kỳ thế lực nào, xâm hại đến “tài nguyên số” quốc gia như gây ra những sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển; làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ; phá hoại, xóa bỏ hệ thống thông tin, dữ liệu quốc gia đều phải xử lý một cách nghiêm khắc. Bởi đó là nguồn “tài nguyên” đã được tuyên bố chủ quyền; quốc gia hoàn toàn có quyền quản lý, quyền định đoạt và quyền tài phán.

Thứ tư, giới định rõ giữa hành vi “tấn công mạng” với “tấn công vũ trang” để làm căn cứ phòng, chống và xử lý. Hành vi tấn công mạng được xác định là: “Hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để phá hoại, gây gián đoạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử[18] nhưng chưa đưa ra các chế tài tương ứng cho hành vi này ở từng cấp độ tác động. Nếu dừng ở biện pháp “ngăn chặn, loại trừ” sẽ chưa đủ tính răn đe và chưa nhìn nhận được mức độ nguy hiểm đối với hành vi xâm phạm “chủ quyền thứ năm”. Do đó, thiết nghĩ cần nghiên cứu đưa vào luật hành vi “tấn công mạng” nếu xâm hại, làm tổn hại đến tài sản, sức khỏe của nhiều người; tổn hại đến văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng; gây tổn hại đến trật tự, an toàn xã hội; đến chủ quyền, lợi ích, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia thì quy đến hành vi “tấn công vũ trang”.

Thực tế cho thấy, có những cuộc “tấn công mạng” nhưng không mang tính chất của cuộc “tấn công vũ trang”, ngược lại, không phải cuộc “tấn công vũ trang” nào cũng sử dụng phương thức “tấn công mạng”. Thế nhưng, trong kỷ nguyên số, xã hội số như hiện nay cũng không loại trừ tội phạm mạng (và các thế lực thù địch) sử dụng “phương tiện mạng” để đạt được mục đích “tấn công vũ trang” hay “tấn công mạng” như một thành phần, biện pháp hỗ trợ để tiến hành tấn công vũ trang. Lúc đó “tấn công mạng” đã trở thành “tấn công vũ trang”. Như vậy, đối với các cuộc “tấn công mạng” nhưng mang tính chất, mục tiêu, động cơ “vũ trang” thì cũng cần phải được dự báo, xác định một cách rõ ràng và có chế tài tương ứng, chí ít là hình thành các “điều kiện tự vệ” trước các cuộc tấn công mạng, khủng bố mạng. Điều đó cho thấy, việc giới định hành vi “tấn công mạng” và “tấn công vũ trang” cũng là biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc gia từ xa một cách chủ động.

5. Kết luận

Cùng với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay thì vấn đề thiết lập mạng lưới toàn cầu với kết nối Internet, sử dụng sự tiến bộ của khoa học công nghệ thông tin và truyền thông trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống là một xu thế không thể đi ngược. Chúng ta đang tận dụng tối đa thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chúng ta cũng đang tiến hành các bước đi thận trọng để chuyển đổi số hướng đến thực hiện “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” theo tinh thần của Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ. Điều đó đã đặt ra vấn đề mang tính chiến lược là vừa phát huy được lợi thế của kinh tế số, xã hội số với những dư địa vô cùng lớn nhưng vừa phải bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nói chung, quản lý các rủi ro trong quá trình “hội nhập số” ở “không gian thứ năm”. Cơ hội luôn đi đôi với thách thức, các yếu tố tích cực có thể đi liền với nhân tố tiêu cực, cái mới tạo điều kiện và động lực cho sự phát triển nhưng thường xuất hiện những nguy cơ, rủi ro. Với sự nhận thức đúng đắn và hành động quyết liệt nhưng thận trọng, có tính hệ thống của toàn hệ thống chính trị như hiện nay, chúng ta tin tưởng và và cơ sở để đặt niềm tin vào vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện chủ quyền quốc gia gắn với “chủ quyền số”, chủ quyền trên không gian mạng.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1)     Ban tuyên giáo Trung ương (2021), Tài liệu hỏi - đáp về các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

2)     Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

3)     Hội đồng Lý luận Trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện Đại Hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

4)     Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật An ninh mạng (2018)

5)     Lê Thế Cương, Luận điệu “diễn biến” để chống phá Luật An ninh mạng.  Tham kiến: http://cand.com.vn/Van-de-hom-nay-thoi-su/Luan-dieu-dien-bien-de-chong-pha-Luat-An-ninh-mang-519532/ (cập nhật ngày 5 tháng 7 năm 2021).

6)     Phạm Đi (2018), Vấn đề xã hội – Lý thuyết và vận dụng. Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

7)     TS Hà Sơn Thái, Nhận diện và đập tan những luận điệu xuyên tạc Luật An ninh mạng. Tham kiến: https://dangcongsan.vn/tieu-diem/nhan-dien-va-dap-tan-nhung-luan-dieu-xuyen-tac-luat-an-ninh-mang---489084.html  (cập nhật ngày 5 tháng 7 năm 2021).

8)     Báo Tuổi trẻ,  Ai kiểm soát Internet? (Số ra ngày 12 tháng 03 năm 2019.  Tham kiến: https://tuoitre.vn/ai-kiem-soat-internet-1488399.htm (cập nhật ngày 6 tháng 7 năm 2021).

 

TS. Phạm Đi



[1] Sau đây gọi tắt là “tương tác”

[2] Luật An ninh mạng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018). Sau đây gọi là “Luật An ninh mạng”.

[3] Cũng theo Luật An ninh mạng, “Không gian mạng quốc gia là không gian mạng do Chính phủ xác lập, quản lý và kiểm soát”

[4] Thời gian gần đây, nhiều quốc gia phát triển đã có động thái chạy đua vào không gian vũ trụ và đã tuyên bố chủ quyền trên không gian vũ trụ, do đó, “không gian vũ trụ” đã thực sự trở thành mục tiêu xác lập chủ quyền.

[5] Việt Nam có Luật an ninh mạng

[6] Gọi là “không gian phi truyền thống” để có cơ sở gắn với khái niệm “an ninh phi truyền thống”

[7] Đây cũng là lĩnh vực/vấn đề mà các chế lực thù địch luôn tìm cách “khẳng định”, làm mờ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đối với an ninh mạng, không gian mạng.

[8] Xác lập và áp dụng các biện pháp phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh, chủ quyền quốc gia; trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng.

[9] TS. Lê Thế Cương, Luận điệu “diễn biến” để chống phá Luật An ninh mạng.  Tham kiến: http://cand.com.vn/Van-de-hom-nay-thoi-su/Luan-dieu-dien-bien-de-chong-pha-Luat-An-ninh-mang-519532/ (cập nhật ngày 5 tháng 7 năm 2021).

[10] TS Hà Sơn Thái, Nhận diện và đập tan những luận điệu xuyên tạc Luật An ninh mạng. Tham kiến: https://dangcongsan.vn/tieu-diem/nhan-dien-va-dap-tan-nhung-luan-dieu-xuyen-tac-luat-an-ninh-mang---489084.html  (cập nhật ngày 5 tháng 7 năm 2021).

[11] Trong Báo cáo Chiến lược An ninh quốc gia của Hoa Kỳ năm 2010 (National Security Strategy) hay Bộ quy tắc ứng xử quốc tế về bảo mật thông tin 2015 của Hoa Kỳ (International Code of Conduct for Information Security, 2015) đều sử dụng thuật ngữ này.

[12] Xem: Ai kiểm soát Internet? Báo Tuổi trẻ số ra ngày 12 tháng 03 năm 2019.  Tham kiến: https://tuoitre.vn/ai-kiem-soat-internet-1488399.htm (cập nhật ngày 6 tháng 7 năm 2021).

[13] Luật An ninh mạng

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr331.

[15] Chẳng hạn, Singapore thì tiến hành phân loại các nội dung để chế định chính sách, quy định và chế tài tương ứng để quản lý; Một số quốc gia EU thì sử dụng công cụ kiểm soát ngôn ngữ thông qua các bài viết, phát ngôn trên nền tảng truyền thông số để chế định chính sách và bảo vệ chủ quyền văn hóa quốc gia.

[16] Mặc dù cụm từ “chủ quyền” xuất hiện 6 lần trong Luật an ninh mạng nhưng chủ yếu chỉ là những quy đinh về hợp tác quốc tế, các hành vi nghiêm cấm lợi dụng an ninh mạng để xâm hại chủ quyền; các hoạt động phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và phòng, chống tội phạm mạng,…

[17] Thiết nghĩ nên bổ sung các nguyên tắc này vào Điều 4 (Các nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng) của Luật An ninh mạng để khẳng định dứt khoát và rành mạch với quốc tế về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

[18] Luật An ninh mạng

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ