AN SINH XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
AN SINH XÃ HỘI - MỘT THÀNH TỐ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Đến thời điểm hiện nay, vẫn tồn tại quan điểm cho rằng, an sinh xã hội chỉ có một chức năng như là mạng lưới an toàn xã hội, là công cụ để ổn định xã hội và nó tiếp nhận một cách bị động sự khống chế của trình độ phát triển kinh tế. Theo quan điểm này, cơ sở lí luận chủ yếu của an sinh xã hội chính là lí luận về sự can dự từ chính quyền của trường phái Keynes[1] và kinh tế học phúc lợi. Chúng tôi cho rằng, Chính sách an sinh xã hội không chỉ đơn thuần là chính sách xã hội (Social Policy) mà nó còn là chính sách kinh tế (Economic Policy): nó không chỉ có chức năng như là một công cụ để ổn định xã hội hay mạng lưới an toàn xã hội mà nó còn có vai trò như là một chất xúc tác, lực gia tốc cho phát triển kinh tế; nó không chỉ chịu sự khống chế từ trình độ phát triển kinh tế mà nó còn là yếu tố thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính lẽ đó, nghiên cứu vấn đề về an sinh xã hội không chỉ dựa vào tư tưởng kinh tế học phúc lợi của Keynes mà còn phải nhìn nó qua lăng kính và cách tiếp cận của kinh tế học phát triển, xã hội học kinh tế, khoa học về an sinh xã hội, để từ đó mới có thể “nhìn thấy” được mối quan hệ nội tại giữa phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Có như thế việc kiến lập và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội mới là điều kiện để xúc tiến phát triển bền vững kinh tế, và chỉ như thế, đối tượng của an sinh xã hội mới có thể chia sẻ lợi ích từ phát triển kinh tế mang lại, chính sách an sinh xã hội mới có tiền đề và cơ sở để ổn định và phát triển.
I.
Phát triển
kinh tế cần phải kiện toàn chính sách an sinh xã hội
Một cách
bao quát mà nói, lí luận về kinh tế học phát triển và phát triển kinh tế của
các quốc gia đang phát triển cơ bản đều kinh qua 3 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất
là từ những năm 40 đến những năm 60 của thế kỉ 20, giai đoạn thứ hai là giai đoạn
từ những năm 60 đến những năm 80 và giai đoạn thứ 3 là từ những năm 80 của thế
kỉ 20 về sau. Ở giai đoạn thứ nhất, các quốc gia đang phát triển vấn đề gặp phải
chủ yếu là áp lực về sự gia tăng dân số, nông nghiệp chiếm tỉ trọng trong kinh
tế quốc dân tương đối lớn, thiếu việc làm, sức sản xuất giảm, nghèo đói chiếm tỉ
lệ cao, mậu dịch quốc tế kém… Đối đầu với vấn đề này, những nhà kinh tế học
phát triển cho rằng, cần phải đẩy mạnh phát triển kinh tế bằng phương thức
thoát khỏi kiểu kinh tế truyền thống để bước vào kinh tế hiện đại tức là phải
tiến hành công nghiệp hóa, tức là phải nâng cao tỉ lệ dự trữ, tiến hành đầu tư
với qui mô lớn. Để làm được điều đó thì cần phải phát huy vai trò của nhà nước
và vai trò của kiểu kinh tế kế hoạch. Chính lẽ đó nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
giai đoạn này là “duy công nghiệp hóa luận”, “duy tư bản luận”, “duy kế hoạch
luận”. Tuy nhiên, công bằng mà nói, trong thời kì này nhiều quốc gia đã đạt được
những thành tựu kinh tế-xã hội nhất định. Thế nhưng, những năm 60 của thế kỉ 20
về sau, các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với một vấn đề là giá cả thị
trường bị bóp méo, tài chính bị ức chế, hiệu suất của các xí nghiệp quốc hữu thấp,
chất lượng vận hành của nhà nước kém do qui mô quá lớn. Từ đó làm cho các nhà
kinh tế học phát triển không thể không đánh giá lại những chính sách kinh tế
trước đó. Thời kì này, các nhà kinh tế học cho rằng, công nghiệp hóa không nên
trả cái giá quá đắt vì phải hi sinh nông nghiệp, không chỉ tích lũy về tư bản
mà còn cần phải tích lũy vốn nhân lực (vốn con người). Nhiều học giả cho rằng,
cơ chế trị trường với tư cách là biện pháp cơ bản để giải quyết vấn đề phát triển
cần phải nhìn nhận đúng về vai trò của đầu tư mậu dịch. Chính sự biến chuyển về
nhận thức này được nhiều người cho rằng đó là “sự phục hưng của chủ nghĩa tân cổ
điển”.
Sau những năm 80, ngày càng nhiều
nhà kinh tế học phát triển nhận thức được rằng, một quốc gia muốn thành công
trong chính sách phát triển kinh tế cần phải có sự “ủng hộ” của các chính sách
khác như chính sách văn hóa, chính sách pháp luật, thể chế chính trị. Chẳng hạn,
một chính sách pháp luật hoàn thiện và nghiêm khắc, một chính sách kinh tế
thích đáng và hoàn thiện, một chính sách văn hóa tiên tiến, một chính sách an
sinh xã hội hài hòa sẽ là những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Do vậy, lúc này nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế bước vào giai đoạn kinh tế
học chính trị tân cổ điển. Điểm mấu chốt của kinh tế học chính trị tân cổ điển
là chú ý đến những nhân tố phi kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế, tức
là chế độ, lịch sử, pháp luật, hình thái ý thức.
Sau những
năm 80, các nước đang phát triển bắt đầu
chú trọng đến các yếu tố liên đới là kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.
Quan sát quá trình lịch sử phát triển về lí luận kinh tế học phát triển của một
số quốc gia đang phát triển, chúng ta phát hiện một số triết lí sau:
1) Phát triển kinh tế không đồng nghĩa với tăng
trưởng kinh tế.
Tăng trưởng
kinh tế là chỉ một quốc gia hay một khu vực, trong một thời gian nhất định, có
sự tăng lên về sản phẩm và dịch vụ; phát triển kinh tế là chỉ cùng với sự tăng
trưởng về sản phẩn và dịch vụ mà có sự biến đổi về kết cấu chính trị, xã hội,
kinh tế. Những thay đổi này bao gồm những biến đổi nội tại của các vấn đề như y
tế, giáo dục, phúc lợi xã hội, mô thức tiêu dùng, trạng thái phân phối, tỉ trọng
các ngành nghề, kết cấu đầu tư. Như vậy có thể nói, tăng trưởng kinh tế là
phương tiện, phát triển kinh tế là mục đích, nói khác đi tăng trưởng kinh tế là
cơ sở để phát triển kinh tế, phát triển kinh tế là kết quả của tăng trưởng kinh
tế. Điều đó có nghĩa là không có sự tăng trưởng thì không có sự phát triển, thế
nhưng không phải bất cứ sự tăng trưởng kinh tế nào cũng có có yếu tố phát triển.
2) Phát triển kinh tế cần phải lấy phúc lợi (cá
nhân, xã hội) làm mục tiêu
Phát triển
kinh tế không chỉ là để nâng cao mức độ phúc lợi cho toàn xã hội mà còn, cần phải
thông qua sự thay đổi về kết cấu phân phối nhằm nâng cao mức độ phúc lợi cho mọi
thành viên trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Dwight
H. Perkins[2]
cho rằng, điểm mấu chốt của phát triển kinh tế là có chăng đại đa số người dân
cùng tham gia vào quá trình phát triển, họ không những tham gia vào quá trình sản
xuất ra của cải cho xã hội mà còn là người hưởng thụ những thành quả mà lợi ích
kinh tế mang lại. Theo đó mà nói, nếu sự tăng trưởng kinh tế mà chỉ có lợi cho
một số ít những người giàu có thì cũng đồng nghĩa với chẳng có sự phát triển
kinh tế. Hagen cũng đã nhấn mạnh, mục đích của tăng trưởng kinh tế là để cải
thiện các điều kiện về giáo dục, y tế, giảm tỉ suất chết sơ sinh, cải thiện chế
độ dinh dưỡng cho các gia đình có mức thu nhập thấp, tức là cải thiện quá trình
phân phối lợi ích về vật chất để thỏa mãn các nhu cầu về tinh thần cho các nhóm
xã hội[3].
Theo tinh thần đó, phát triển kinh tế lấy phúc lợi xã hội và phúc lợi cá nhân
làm mục tiêu. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, sự tăng trưởng kinh tế
đơn thuần không đồng nghĩa với việc cải thiện kết cấu phân phối mà ngược lại, sự
mất cân bằng trong kết cấu kinh tế hay tồn tại sự mất đối xứng và hài hòa giữa
chính sách chính trị, chính sách xã hội và chính sách kinh tế, điều đó còn có
thể xuất hiện nhiều vấn đề xã hội (social problems) mà cụ thể là gia tăng khoản
cách giàu nghèo, phân hóa xã hội, phân cực xã hội và bất ổn xã hội. Thực tế nhiều
nước cho thấy, sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, tổng thu nhập quốc dân
ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân đầu người GDP ngày cải thiện, thế nhưng
phân hóa xã hội mà cụ thể là phân hóa giàu nghèo ngày một gia tăng; khoản cách
thu nhập của cư dân thành thị và nông thôn càng khác biệt; sự phân hóa về mức sống
của các nhóm dân cư ngày một rõ nét. Chính những thực tế này sẽ tác động đến sự
ổn định xã hội và thách thức cho phát triển bền vững
3) Phát triển kinh tế là quá trình không ngừng tối
ưu hóa kết cấu và tiến bộ của khoa học kĩ thuật kết hợp với kiện toàn chính
sách an sinh xã hội.
Những niên
đại 60 của thế kỉ 20, một số nhà kinh tế học phát triển nhận thức rằng, sự lớn
mạnh của kinh tế hiện đại thực chất là sự lớn mạnh của các bộ phận tổ thành nền
kinh tế đó, trên tinh thần đó thì sự phát triển kinh tế cần phải ưu tiên bắt đầu
từ quá trình tiên tiến hóa kĩ thuật, nghĩa là áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến
để giảm giá thành sản phẩm và khếch đại thị trường từ đó tăng cường tích lũy lợi
nhuận.
Trung kì của
niên đại 80, những nhà kinh tế học tiêu biểu lúc bấy giờ như Paul M. Romer[4] và
Robert Lucas [5] cổ xúy cho việc lấy vấn đề
sáng tạo khoa học kĩ thuật để nghiên cứu vấn đề tăng trưởng kinh tế, từ đó mà
sáng lập nên mô hình tăng trưởng kinh tế mới có tên gọi “sự biến hóa kĩ thuật nội
sinh”. Đây là lí luận được cho là “dung hợp” giữa lí luận phát triển kinh tế và
lí luận tăng trưởng kinh tế tân cổ điển. Mãi đến những năm gần đây, nhiều người
đã thừa nhận lại tác dụng của vấn để ưu hóa kết cấu và kĩ thuật đối với sự phát
triển kinh tế. Từ thực tiễn của những nước đang phát triển cho thấy, sự tiến bộ
của khoa học kĩ thuật và diễn tiến trong kết cấu đã và đang mang lại sự tăng
trưởng kinh tế khả quan. Tuy nhiên, quan sát cho thấy chỉ dừng lại ở tối ưu hóa
kết cấu và tiến bộ của khoa học kĩ thuật không là chưa đủ, điều kiện tiên quyết
là phải kiện toàn chế độ an sinh xã hội để đảm bảo “bảo toàn sức lao động”. Bởi
nếu một chế độ bảo đảm xã hội èo ụt sẽ là lực cản lớn cho việc tối ưu hóa kết cấu
và cải tiến khoa học kĩ thuật, bởi xét đến cùng yếu tố con người là quan trọng
nhất trong tiến trình phát triển.
4) Phát triển kinh tế tất yếu coi hoàn thiện chế
độ chính sách làm trọng yếu
So với các
nước phát triển, mức độ thu nhập bình quân đầu người của các nước đang pháp triển
là lạc hậu hơn nhiều, và điều quan trọng hơn là về phương diện chính sách và tổ
chức xã hội thì các nước đang phát triển tồn tại quá nhiều sự bất cập. Trên thực
tế chúng ta thấy rằng, sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người chỉ là biểu
hiện bên ngoài, còn căn nguyên của sự lạc hậu về kinh tế chính là yếu tố chính
sách. Bởi chế độ chính sách là một “bộ qui tắc” để điều chỉnh hành vi của con
người, trong đó có hành vi kinh tế. Một chế độ chính sách đúng sẽ là kim chỉ
nam cho cách thức, phương thức tổ chức các hoạt động kinh tế liên quan, thúc đẩy
kinh tế phát triển đúng quĩ đạo. Từ thực tế của nước ta trong nhiều năm qua cho
thấy, có lúc chúng ta chỉ chú trọng đến chính sách “thuần kin tế” mà “quên” đi
(hoặc thiếu chú trọng) đến chính sách an sinh xã hội[6] đã
dẫn đến nhiều hệ quả đáng tiếc. Bởi an sinh xã hội không chỉ có chức năng “bù đắp”
sự vô hiệu trong lĩnh vực phân phối của thị trường, mà nó còn tác động đến trạng
thái tâm lí xã hội trong quá trình sản xuất và dự kì sản xuất. Nếu hình dung rằng,
vấn đề dưỡng lão, y tế, thất nghiệp, tai nạn lao động, sinh đẻ…, không được bảo
đảm thì rõ ràng mang lại tâm lí bất an cho con người và chính đối tượng tham
gia sản xuất, điều đó sẽ kéo theo hàng loạt các vấn đề như hạn chế nhu cầu đầu
tư, tiêu dùng hiện hữu, từ đó ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, ảnh
hưởng đến vấn đề an toàn xã hội, ổn định xã hội. Từ đó có thể khẳng định, một
chế độ an sinh xã hội không hoàn thiện sẽ là lực cản không nhỏ cho quá trình
phát triển kinh tế. Nói khác đi, phát triển kinh tế cần chú trọng đến việc hoàn
thiện chính sách an sinh xã hội, coi an sinh xã hội là một trong những thành tố
của sự phát triển xã hội nói chung, của phát triển kinh tế nói riêng.
5) Phát triển kinh tế cần phải thống nhất hài hòa
giữa còn người và tự nhiên, giữa con người với con người
Quan sát
cho thấy, trong quá trình công nghiệp hóa của nhiều quốc gia, vấn đề bùng nổ
dân số, vấn đề ô nhiễm môi trường và hủy hoại môi trường sinh thái, vấn đề khai
thác quá mức tài nguyên thiên nhiên v.v…, làm cho không những không nâng cao mức
sống cho cư dân mà trái lại nó còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống
của con người, thậm chí nguy cơ đến tính mạng sinh tồn của họ. Nhằm khắc phục những
hệ quả không đáng có đó, nhiều quốc gia đã và đang cam kết chiến lược phát triển
bền vững, trong đó kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái, môi trường nhân văn, với vấn đề nhân khẩu và vấn đề xã hội. Bởi,
nhân khẩu là hạt nhân của hệ thống xã hội và kinh tế, là mục tiêu và động lực của
quá trình phát triển, do đó cần phải có sự hài hòa giữa nhân khẩu với môi trường,
kinh tế, xã hội, nguồn lực xã hội, đó là vấn đề cơ bản then chốt của phát triển
bền vững.
Chúng ta đều
biết, nguồn lực là có hạn và sức “chịu tải” của môi trường không phải là vô hạn,
nếu nhân khẩu bùng nổ thì chắc chắn sẽ tác động đến vấn đề môi trường đồng thời,
chất lượng dân số chắc chắc giảm đi, thu nhập bình quân đầu người thấp, nạn thất
nghiệp tăng và nảy sinh những vấn đề xã hội khác. Và chính điều này sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến nguồn lực về an sinh xã hội (cơ sở kinh tế của an sinh xã hội).
Và đến lược mình, an sinh xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện sứ mệnh của
nó, tạo nên cái vòng luẩn quẩn. Chính lẽ đó, phát triển bền vững chính là mục
tiêu và sự lựa chọn (bắt buộc) trong thời đại ngày nay.
II.
Kiến lập
và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội là điều kiện để xúc tiến phát triển
kinh tế
Xét đến
cùng, an sinh xã hội là vấn đề phân phối, là hình thức tái phân phối thu nhập
quốc dân. Thế nhưng, nếu so với các hình thức phân phối khác, phân phối trong
an sinh xã hội là một hình thức phân phối đặc thù. Nói nó đặc thù bởi đây là
hình thức mà nhà nước và cộng đồng nhắm đến những đối tượng yếu thế, nhóm yếu
thế [7] nhằm
động viên khuyến khích họ vươn lên giải quyết chính vấn đề của mình khi rơi vào
rủi ro, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức, già yếu…
Như vậy, an sinh xã hội và phát triển kinh tế có quan hệ hết sức mật thiết.
Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, từ những bình diện khác nhau mà nói, nó
xúc tiến sự phát triển kinh tế, điều đó thể hiện trên những phương diện sau:
1) Bảo đảm tái sản xuất sức lao động, thúc đẩy
kinh tế phát triển
Tái sản xuất
xã hội bao gồm (và sự thống nhất) giữi hai quá trình tái sản xuất đó là tái sản
xuất vật chất và tái sản xuất sức lao động. Mặc khác tái sản xuất sức lao động
lại là sự bảo đảm cho sự tiến hành thuận lợi quá trình tái sản xuất xã hội, một
khi quá trình tái sản xuất sức lao động gặp phải một sự trở ngại nào đó thì lập
tức ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất xã hội. An sinh xã hội đóng vai trò
quan trọng trong tái sản xuất xã hội nói chung và tái sản xuất sức lao động nói
riêng, bởi nó có vai trò hết sức quan trọng cho việc “hồi phục”, bảo đảm và ổn
định đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Ví dụ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm bệnh tật tai nạn lao động là điều kiện cần thiết
để phục hồi sức khỏe cho người lao động, đồng thời cũng là “kênh” để tái sản xuất
sức lao động; bảo hiểm thất nghiệp có thể là “kênh” duy trì cuộc sống tối thiểu
cho người không may thất nghiệp, tạo điều kiện cho đối tượng thất nghiệp tìm kiếm
việc làm mới; bảo hiểm y tế cũng là điều kiện vật chất để cho người lao động
(và con cái họ) có điều kiện thuận lợi tái sản xuất sức lao động, và như thế là
điều kiện để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
2) Đảm bảo cho sự tiếp diễn của quá trình sản xuất
và tiêu dùng
Như đã
nói, an sinh xã hội như một cơ chế phân phối đặc thù, đóng vai trò như một mắc
xích quan trọng trong quá trình tái sản xuất sức xã hội trong đó có quá trình
tái sản xuất sức lao động và sự tiếp diễn của quá trình sản xuất và tiêu dùng. Cần
nói rằng, trình độ và kết cấu sản xuất quyết định đến trình độ và kết cấu an
sinh xã hội. thông qua phân phối an sinh xã hội bằng những thụ hưởng (vật chất)
về an sinh xã hội sẽ là điều kiện để chuyển biến hành vi tiêu dùng của cá nhân,
nhóm. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội.
3) Hoàn thiện thị trường vốn, thúc đẩy kinh tế
phát triển
Ai cũng biết
rằng, phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần dựa vào vốn (tư bản) thế nhưng
không thể không có vốn. Thông thường mà nói, quá trình phát triển kinh tế đều
phải kinh qua sự chuyển biến là, sự tăng trưởng về lao động làm động lực chủ yếu
sang sự tăng trưởng về tư bản làm động lực chính, sau đó là là sự sáng tạo tri
thức và tiến bộ về khoa học kĩ thuật là động lực chính yếu. Việt Nam là một quốc
gia đang phát triển, từ góc nhìn chiến lược, cần phải từng bước nâng cao tỉ lệ
tri thức và khoa học kĩ thuật trong cấu thành kinh tế. Thế nhưng trước mắt,
chúng ta vẫn phải dựa vào gia tăng đầu tư tư bản để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Do đó, làm thế nào để tăng tỉ lệ tích lũy đồng thời chuyển biến tích lũy thành
tư bản là yếu tố trọng yếu để phát triển kinh tế. Từ kinh nghiệm của các nước
cho thấy, hoàn thiện chế độ an sinh xã hội, chế độ bảo đảm xã hội không những duy
trì giá trị tích lũy mà còn là điều kiện để chuyển hóa tích lũy thành tư bản. Ví
dụ, nhiều quốc gia tăng cường vốn dưỡng lão hằng năm và cho phép sự tích lũy
này chuyển hóa thành thị trường vốn bằng cách đưa lên sàng chứng khoán, từ đó
thiết lập mối quan hệ giữa thị tường vốn và quĩ an sinh xã hội và đạt được cái
gọi là “mục tiêu song trùng” vừa có cơ sở kinh tế cho an sinh xã hội, vừa hoàn
thiện thị trường vốn, thúc đẩy kinh tế phát triển.
4) Góp phần điều chỉnh kết cấu kinh tế, thúc đẩy
kinh tế phát triển
An sinh xã
hội có vai trò điều chỉnh kết cấu kinh tế biểu hiện ở hai phương diện: một mặt,
kiến lập và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội có lợi cho vấn đề điều chỉnh kết
cấu nghề nghiệp thị trường sức lao động, giảm thiểu những trở lực trong điều chỉnh
kết cấu kinh tế. Chức năng cơ bản của chính sách bảo hiểu thất nghiệp là đảm bảo
cuộc sống tối thiểu cho người thất nghiệp nhưng điều quan trọng là điều kiện để
người thất nghiệp để nâng cao tay nghề bằng cách học tập, bồi dưỡng kĩ năng để
tiếp tục tìm kiếm việc làm mới, đó về bản chất là điều chỉnh kết cấu nghề nghiệp
và thị trường sức lao động. Mặt khác, chính tiền hỗ trợ an sinh xã hội lại là
nguồn vốn ổn định để điều chỉnh kết cấu kinh tế, nhất là gặp những biến cố như
khoảng hoảng tài chính. Bởi lúc đó, chính nguồn vốn an sinh xã hội lại là “cứu
tinh” cho vấn đề điều chỉnh kết cấu kinh tế, kết cấu nghề nghiệp và kết cấu sản
xuất.
5) Điều chỉnh chu kì kinh tế, thúc đẩy kinh tế
phát triển
Hệ thống
an sinh xã hội có chức năng như “công cụ đảo chiều” của chu kì kinh tế, chính lẽ
nó nó được coi là “công cụ điều chỉnh tự động” cho tăng trưởng kinh tế. Nhiều
quốc gia có hệ thống an sinh xã hội hoàn thiện, nguồn quĩ về bảo hiểm dưỡng lão
hay quĩ bảo hiểm thất nghiệp được giao nộp theo một tỉ lệ nhất định và lũy tiến
đối với thu nhập của cá nhân. Điều này có 2 mặt, một mặt nó kìm hãm sự tăng trưởng
kinh tế (trong thời kì kinh tế thịnh vượn), nhưng mặt khác nó lại là “cứu tinh”
khi nền kinh tế gặp phải sự suy thoái. Bởi khi khó khăn về kinh tế thì chính
nguồn quĩ này lại lại “cái van an toàn” đảm bảo mức sống cho cư dân, bảo đảm ổn
định trình độ tiêu dùng chung của xã hội, “là bộ giảm sốc” cho nền kinh tế và
cho xã hội nói chung. Không chỉ dừng lại ở đó, chính sách an sinh xã hội còn có
thể thông qua việc dự báo tương lai về nhu cầu xã hội mà điều chỉnh chu kì kinh
tế. Bởi, nếu kiến lập và hoàn thiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp chẳng hạn, sẽ
giảm thiểu sợ lo lắng trong thời kì suy thoái kinh tế cho cư dân, người dân có
thể (và có cơ sở) để tin tưởng vào dự kì của nền kinh tế, kích thích tiêu dùng
xã hội.
6) Khống chế tăng trưởng nhân khẩu, giảm áp lực
già hóa dân số
Khống chế
sự gia tăng dân số trở thành một chính sách thiết yếu của nhiều quốc gia, nhất
là các quốc gia đông dân. Bởi đối với các nước đông dân thì kiện toàn chế độ an
sinh xã hội là một trở lại vì không thể vừa nâng cao thu nhập vừa nâng cao mức
độ phúc lợi xã hội cho mọi thành viên khi nguồn lực xã hội có hạn. Sự gia tăng
dân số quá nhanh và già hóa dân số luôn là vấn đề nan giải và thách thức đối với
an sinh xã hội. Như vậy, một chế độ an sinh xã hội đúng và khoa học, phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia sẽ làm gia tăng (hoặc kìm hãm) sự
tăng trưởng dân số mất kiểm soát và hậu quả là già hóa dân số.
7) Bảo đảm sự công bằng xã hội, thúc đẩy kinh tế
phát triển
Như đã
phân tích, an sinh xã hội là một kiểu tái phân phối xã hội và đối tượng nhắm đến
của nó là các nhóm yếu thế trong xã hội. Các nhóm yếu thế này, do những điều kiện
chủ quan và khách quan nào đó, họ không thể (hoặc chưa thể) tự thân vươn lên
hay đảm bảo cuộc sống của mình mà phải cần một “trợ lực” từ bên ngoài bằng “bàn
tay hữu hình” của nhà nước và cộng đồng xã hội. Chính động thái này là yếu tố đảm
bảo sự công bằng xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm xã hội có điều kiện
đảm bảo cuộc sống, đảm bảo những nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở, đi lại, khám
chữa bệnh, giáo dục. Hơn thế nữa, trên bình diện xã hội mà nói, đảm bảo cho xã
hội vận hành một cách suôn sẻ, đồng thuận, hài hòa, tiến đến thực hiện mục tiêu
chung của xã hội.
Phạm Đi
[1] John
Maynard Keynes(1883-1946),
là một trong những nhà kinh tế học có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế học phương
Tây hiện đại. Trường phái kinh tế học Vĩ
mô của ông được cho là một trong ba cuộc cách mạng về nhận thức của nhân loại của
thế kỉ thứ 20 (ba cuộc cách mạng về tư duy: một là phương pháp phân tích về
tinh thần của nhà phân tâm học Sigmund Freud, hai là thuyết tương đối của
Albert Einstein và ba là trường phái kinh tế của John
Maynard Keynes).
[2] Dwight H. Perkins, nhà kinh tế học người Mỹ, xem
tham khảo: Ecomomics of Development, Nxb Norton & Company, 1987(7)
[3] E.E. Hagen The Econom ics of
Development . Homewood 1986, (9).
[4] Paul M.Romer (1955 - ), Nhà kinh tế học người Mĩ,
người sáng lập trường phái Lí thuyết tăng trưởng mới. Năm 1997, được tạp chí Thời
đại của mình bình bầu là một trong 25 nhânn vật có ảnh hưởng nhất nước Mĩ
[5] Robert Lucas (1973 - ?), thiên
tài kinh tế học người Mĩ. Người sáng lập ra trường phái kinh tế học vĩ mô và dự
kì lí tính. Chính thành quả này mà năm 1995, ông đạt giải Nobel về kinh tế.
[6] Trong thời gian gần đây,
Chính phủ cũng đã có những động thái tích cực trong việc nhìn nhận vai trò của
chính sách An sinh xã hội đối với sự phát triển xã hội mà bằng chứng là Thủ tướng
Chính phủ có Quyết định số 31/2011/Q Đ-TTg qui định việc công khai minh bạch,
kiểm tra giám sát việc thực hiện qui định pháp luật về an sinh xã hội.
[7] Khái niệm “nhóm yếu thế”
trong tiếng Anh là Vulnerability
Nhận xét
Đăng nhận xét