MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ THÀNH PHỐ THÔNG MINH Ở VIỆT NAM
MỘT SỐ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ THÀNH PHỐ THÔNG MINH Ở VIỆT NAM
Cùng với tốc độ
và tiến trình đô thị hóa trên thế giới gia tăng một cách mạnh mẽ, đô thị và mạng
lưới đô thị của Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng về quy mô, số
lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong vài năm trở lại đây, với chủ trương phát
triển thành phố theo hướng thông minh bền vững, chúng ta đã gặt hái được nhiều
thành tựu to lớn trong số hóa, thông tin hóa và thông minh hóa, trí tuệ hóa hầu
hết các lĩnh vực của đời sống đô thị[1].
Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhiều vấn đề đô thị cũng nảy sinh (ô nhiễm môi trường,
giao thông tắc nghẽn, ngập úng,...) cần được nhanh chóng giải quyết một cách hiệu
quả, triệt để. Tuy vậy, với phương thức và mô thức truyền thông sẽ khó có thể
thực hiện nhiệm vụ đó một cách nhanh chóng, hiệu quả như mong đợi. Có nghĩa là
cần có phương thức mới, biện pháp mới, công cụ mới và cả tư duy mới, triết lý mới
để tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản trị đô thị: thành phố
thông minh là một giải pháp.
Quan sát thực tiễn
tại các đô thị Việt Nam, nhất là một số đô thị đang tiến hành triển khai thí điểm
mô hình đô thị thông minh, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề bất cập cần được
khắc phục trong thời gian đến. Đó là:
Thứ nhất, chậm đổi mới quan
niệm, đổi mới tư duy, đổi mới công nghệ
Như đã phân tích ở
trên, thành phố thông minh là ứng dụng tổng hợp thành tựu phát triển khoa học
công nghệ để “chạm khảm” vào các khía cạnh của đời sống đô thị và do đó, thể hiện
trình độ phát triển, tiến bộ, văn minh của nhân loại. Đó là xu thế tất yếu của
sự phát triển. Với Việt Nam, chúng ta đang trong quá trình kiến tạo, xây dựng
thành phố thông minh theo mô thức của mình trên cơ sở học hỏi, vận dụng thành tựu
của thế giới. Rõ ràng, mức độ nắm bắt, sáng tạo và làm chủ công nghệ, kỹ thuật
mới, tân tiến để xây dựng đô thị thông minh của chúng ta còn chưa hoàn thiện, cần
tiếp tục khắc phục và bổ sung.
Đành rằng, sự “đi
trước” của nhiều đô thị trên thế giới đến hoàn thiện “thành phố thông minh” và “thành
phố thông minh hơn” là bài học kinh nghiệm quý giá cho chúng ta, người đi sau. Đi
sau, theo lý thuyết, có “lợi thế của người đi sau” nhưng không phải bao giờ “người
đi sau” cũng biết tận dụng, phát huy lợi thế này. Bởi lẽ, “người đi sau” có cả
cơ hội, lợi thế nhưng cũng có những thách thức, khó khăn. Điều này đòi hỏi
chính quyền đô thị và những nhà quản lý đô thị phải năng động, tạo xung lực mạnh
mẽ và không ngừng học hỏi mới nâng tầng “thông minh” trong hoạt động lãnh đạo,
quản lý, trong sử dụng con người, trong đổi mới cơ chế chính sách, trong phá bỏ
những tư duy cũ kỹ, trì trệ, bảo thủ,… mới “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc”
trên con đường kiến tạo, quản trị thành phố thông minh. Như vậy, không chịu đổi
mới, chậm đổi mới; chậm áp dụng thành tựu ICT vào hoạt động quản trị đô thị sẽ là một vấn đề lớn, lực cản lớn trong
tiến trình xây dựng đô thị thông minh.
Thứ hai, tư tưởng chủ quan,
nóng vội hay bất chấp mọi giá để xây dựng thành phố thông minh khi các điều kiện
cần thiết chưa hội đủ
Thành phố thông
minh không phải là một “phong trào”, thông qua vài hoạt động hay thay đổi nhỏ
thì tức khắc hình thành. Thực tiễn đã cho thấy, thời gian qua chúng ta đã đạt
được không ít thành tựu trong xây dựng thành phố thông minh với mô hình thí điểm,
thế nhưng, thật bình tĩnh mà nói, còn nhiều vấn đề bất cập, nảy sinh. Chẳng hạn,
hạ tầng ICT chưa hoàn bị; kết hợp liên đới giữa dữ liệu lớn và quản trị đô thị
chưa cao; mất cân bằng giữa khu vực đô thị (nhất là vùng lõi) với khu vực vùng
ven và nông thôn; một số vấn đề sinh thái đô thị nảy sinh; thiếu bền vững trong
phát triển,...
Bên cạnh đó, tình
hình dịch bệnh COVID-19 cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập trong quản lý rủi
ro đô thị, nhất là quản lý bằng công nghệ thông minh,... Do đó, không nên “dàn
hàng ngang thẳng tiến” mà phải thận trọng, từng bước vững chắc. Tránh đầu tư
tràn lan gây lãng phí, nhất là các đô thị chưa hội đủ các điều kiện cần thiết.
Tức là người người bàn đến đô thị thông minh, đâu đâu cũng muốn xây dựng thành
phố thông minh trong khi các điều kiện hạ tầng kỹ thuật, con người, nguồn lực
còn nhiều bất cập.
Xây dụng thành phố
thông minh là nhiều điều kiện mang tính tổng hợp, cần có chương trình, kế hoạch,
nguồn lực, sự quyết tâm và sự tham gia của cộng đồng. Do vậy, đầu tiên phải có
kế hoạch, chiến lược rõ ràng, thống nhất của Trung ương với địa phương, giữa tỉnh
và thành phố, giữa thành phố với cấp cơ sở. Không nóng vội hay mù quán để sau
này “ra sức khắc phục” những hậu quả của nó. Nói cách khác, cần có lộ trình, bước
đi vững chắc.
Thứ ba, thiếu tính hệ thống, khoa học,
liên kiết trong tập hợp và sử dụng hệ thống dữ liệu và dữ liệu lớn
Từ
phương diện quản trị nhìn nhận, thể chế/chính sách chưa được kiện toàn, tiêu
chuẩn kỹ thuật và mô thức đánh giá chưa thống nhất, ranh giới quản lý giữa các
chủ thể/bộ phận không rõ ràng tạo nên những khe hở, “khoảng trống” trong thu thập,
xử lý, phân tích, quản lý, điều tiết, sử dụng hệ thống dữ liệu có liên quan. Ví dụ: Trong giao dịch dịch vụ công, có
trường hợp đã nhận mã xác minh trực tuyến nhưng phải xếp hàng chờ theo hình thức
ngoại tuyến; Một người bị mất giấy phép lái xe phải chờ đợi thời gian khá dài
(có thể đến vài tháng, kể từ ngày nộp đầy đủ các hồ sơ theo quy định), trong đó
có việc xác minh đương sự có hành vi vi phạm hay không (giấy phép lái xe đang bị
cơ quan thẩm quyền thu giữ, xử lý,...)[2]; trong thời gian phòng chống
COVID-19, nhiều trường hợp khai báo y tế nhiều lần, trùng lắp và không “tương
thích” với các dữ liệu trước đó bởi địa phương còn sử dụng phương pháp khai báo
và lưu trữ kiểu truyền thống,... Tất cả những ví dụ đó có một điểm chung: Áp dụng
công nghệ ICT chưa hoàn thiện và số liệu giữa các cơ quan hữu quan chưa được
liên thông.
Thứ tư, thiếu tính đồng bộ
giữa quy hoạch và xây dựng, giữa sự quyết tâm với nguồn lực hiện hữu, giữa chủ
thể nhà nước với các chủ thể khác
Công tác quy hoạch
và quản lý quy hoạch chính là “kim chỉ nam” cho việc kiến tạo thành phố thông
minh. Dù là hình thức nào đi nữa (truyền thống hay hiện đại, thông minh hay
không thông minh) thì công tác quy hoạch là hết sức quan trọng. Như đã phân
tích ở trên, việc “nặng về xây dựng, nhẹ về quy hoạch” hay “xây dựng trước, quy hoạch sau” sẽ không
thể chấp nhận trong tiến trình hình thành đô thị thông minh. Thành phố thông
minh thì quy hoạch và quản lý quy hoạch phải đi trước và đảm bảo nguyên tắc
khoa học, hệ thống, thực tiễn. Xây một khu dân cư thiếu định hướng quy hoạch có
thể “tái định cư”, hình thành một con đường tồn tại nhiều bất cập có thể “phá bỏ”,
một vòng xoay (bùng binh) có thể thu hẹp hoặc dỡ bỏ bởi xung đột giao thông giữa
thiết kế và thực tiễn,... nhưng một hệ thống dữ liệu lớn không biết cách bảo
lưu, xử lý, phân tích, khai thác sẽ hoàn toàn vô giá trị; một hệ thống hạ tầng
công nghệ thông tin và truyền thông đã đầu tư với nguồn kinh phí lớn nếu không
đồng bộ, tương thích với các “đầu nối” của thiết bị thông minh thì cũng không
thể vứt bỏ một cách tùy tiện. Hơn thế nữa, dù thành phố tồn tại với hình thức
nào đi nữa thì cư dân, thị dân, cộng đồng vẫn là “hồn cốt” của đô thị. Do đó, sự
tham gia và “cộng đồng hóa trách nhiệm” chính là nhân tố quyết định đến sự
thành bại của mô hình thành phố thông minh.
Thứ năm, hiểu nhầm thành phố
thông minh là mục tiêu cuối cùng nhưng thực chất việc kiến tạo đô thị thông
minh hay mạng lưới đô thị thông minh chỉ là phương tiện, hướng đến chất lượng sống
con người gắn với yếu tố công bằng xã hội và hài hòa với môi trường
“Thông minh, thông
minh hơn và thông minh hơn nữa” chính là “khẩu hiệu” của quá trình xây dựng
thành phố thông minh. Thế nhưng, bản thân sự “thông minh” đó không phải là mục
tiêu mà là phương tiện để phát triển bền vững, cạnh tranh, thịnh vượng và cuộc
sống có chất lượng. Thông minh và thông minh hơn là một quá trình diễn tiến
không ngừng, không phải mới bắt đầu và không kết thúc với sự sáng tạo rộng rãi
của xã hội là nền tảng. Thông minh hơn không chỉ dựa vào công nghệ kết nối và
tính toán hay kiểm soát, mà còn cả hệ thống quản trị với sự tương tác của các
bên tham gia với mục tiêu cao nhất là phục vụ con người. Trách nhiệm của hệ thống
quản trị là xây dựng nền tảng cho sự sáng tạo và thông minh hơn.
Nền tảng của
“thông minh” ở cấp độ đô thị là cách thức chia sẻ và hợp tác hữu hiệu, do đó
chúng ta có thể bắt đầu bằng việc mở các kho dữ liệu ra để chia sẻ. Công nghệ
điện toán đám mây và kết nối diện rộng sẽ giúp các bên tham gia tối ưu hóa các
lựa chọn cả ở phía sản xuất và tiêu thụ. Trong “thế giới nhanh”, thông tin càng
chia sẻ càng có giá trị nên hệ thống quản trị cần tạo đột phá bằng việc kết nối
các dữ liệu, từ không gian và môi trường cho tới chính sách đầu tư phát triển,
dịch vụ hành chính và các thông tin xã hội giúp tìm kiếm cơ hội phát triển và
điều chỉnh hành vi. Về lâu dài, cần phát triển năng lực quản trị để chuyển sang
hệ thống quản trị có tính liên minh và tận dụng nguồn lực xã hội trong phát triển.
Đồng thời, chúng ta cần nâng tầm công nghệ “thông minh” từ cấp độ công trình và
lĩnh vực lên phạm vi cấp thành phố. Điều này đòi hỏi sự chủ động của chính quyền
trong kết nối theo khu vực (Area Based Development) thay vì dự án (Project
Based).
Vấn đề cơ chế ra
quyết định cũng cần được chú ý. Hệ thống ra quyết định cần tạo nền tảng để sự
thông minh vừa đạt được qua cơ chế tập trung cao độ để tối ưu hóa nguồn lực, nhưng
cũng phải đủ linh hoạt để các lựa chọn của cơ chế nguồn lực với người trả tiền
‘phân tán’ phản ánh được sự đa dạng của thị trường và đặc biệt cần phát huy sự
sáng tạo trong phát triển[3].
Thứ sáu, trong tiến trình
xây dựng thành phố thông minh sẽ nảy sinh những vấn đề mới, cần phải thực sự
bình tĩnh, sáng suốt đưa ra quyết sách giải quyết
Thành phố, bản
thân nó cũng hàm chứa nhiều biến số, trong đó có những vấn đề xã hội, rủi ro xã
hội. Đương nhiên, thành phố thông minh (dù ở trình độ và tính chất ra sao) thì
các vấn đề xã hội, rủi ro xã hội cũng không tự mất đi, thậm chí còn nảy sinh
nhiều vấn đề mới phức tạp hơn, bất xác định, khó dự báo hơn. Điều đó cũng có
nghĩa là, quản trị đô thị thông minh khó khăn hơn nhiều. Điều tuyệt vời là, sức
sống của một đô thị được tôi luyện thông qua những khó khăn, rủi ro bằng năng lực
quản trị của nhà lãnh đạo, quản lý.
Thừa nhận rằng,
khi áp dụng sự tiến bộ của khoa học công nghệ vào hoạt động quản trị đô thị thì
sẽ tạo điều kiện tốt hơn, thời gian xử lý, phân tích, ra quyết định nhanh hơn;
tiếp cận các thông tin thuận lợi hơn,... Nhưng không có nghĩa rằng, các vấn đề
rủi ro xã hội không nảy sinh, vấn đề xã hội tự nó sẽ “tan biến”. Ngược lại, nó
còn diễn biến phức tạp hơn, khó đoán định hơn. Chẳng hạn, vấn đề an ninh, an
toàn trong bảo mật thông tin; vấn đề tiếp cận thông tin đối với nhóm yếu thế và
nhóm dễ tổn thương trong đô thị; vấn đề tội phạm công nghệ cao; vấn đề đạo đức
con người trong môi trường và không gian ảo; vấn đề rủi ro công nghệ và hệ thống
vận hành đô thị thông minh,...
TS. Phạm Đi
[1] Một số thành phố như Hà Nội, Đà Nẵng,
thành phố Hồ Chí Minh đã nhanh chóng áp dụng thành quả của ICT vào quản trị đô
thị, hầu hết đã ban hành các chính sách khuyến khích, thúc đẩy xây dựng hạ tầng
thông minh. Chẳng hạn, Đà Nẵng đã cho ra mắt và ứng dụng phần mềm đa tiện ích
Da Nang Smart City. Vừa qua, Ban tổ chức giải thưởng Thành phố thông minh
(Smart City Award - Vietnam 2020), đã trao tặng cho thành phố Đà Nẵng 3 giải
thưởng: “Thành phố dịch vụ công thông minh”; “Thành phố hạ tầng số thông
minh” và “Thành phố hấp dẫn khởi nghiệp sáng tạo” năm 2020.
[2] Theo tinh thần của Thông tư 12/2017/TT-BGTVT ngày 15 tháng 4 năm 2017 về Quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép
lái xe cơ giới đường bộ.
[3] TS.
Nguyễn Ngọc Hiếu, ThS. Đào Thị Bích Vân, Thành phố thông minh và vấn
đề quản trị đô thị. Tham kiến: https://baoxaydung.com.vn/thanh-pho-thong-minh-va-van-de-quan-tri-do-thi-194861.html
Nhận xét
Đăng nhận xét