VAI TRÒ, TỐ CHẤT, NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU TRONG VẬN HÀNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ Ở VIỆT NAM
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU TRONG XÂY DỰNG, TỔ CHỨC VẬN HÀNH CHÍNH QUYỀN ĐÔ
THỊ Ở VIỆT NAM
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa ở nước ta phát
triển hết sức nhanh chóng, có thể nói đô thị hóa đã và đang làm cho bộ mặt của
đất nước thay đổi từng ngày. Đô thị hóa trở thành điểm nhấn cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và là yếu tố nội sinh hình thành lối sống văn minh
công nghiệp, lối sống đô thị. Tuy vậy, khác với các nước phát triển, quá trình
đô thị hóa luôn gắn liền với công nghiệp hóa, sự dịch chuyển dân cư từ nông
thôn ra thành thị và sự chuyển dịch từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế
công nghiệp được tiến hành nhịp nhàng, thì ở nước ta, một nước có nền kinh tế
nông nghiệp lâu đời, sự hành thành đô thị mang đặc điểm từ nền văn minh nông
nghiệp theo phương thức sản xuất Châu Á chuyển dần sang văn minh hiện đại, theo
xu thế công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, điều này làm nảy sinh nhiều
nghịch lý và khó khăn, phức tạp trong quá trình đô thị hóa mà cụ thể là quá
trình qui hoạch, cải tạo, chỉnh trang, phát triển đô thị ở nước ta trên bình diện
không gian đô thị và không gian xã hội trong đó có việc nghiên cứu xây dựng một
mô hình[1] về lối sống đô thị vừa
mang tính hiện đại vừa kế thừa những nét truyền thống vốn có của dân tộc Việt
Nam, tức là làm sao cho lối sống đô thị của chúng ta vừa in đậm dấu ấn văn hóa
Việt: vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; vừa mang tính hiện đại, màu sắc
quốc tế nhưng lại phải “không đánh mất mình”; vừa đảm bảo các yếu tố con người,
nhân khẩu, môi trường, sinh thái, yếu tố xã hội, đảm bảo mục tiêu phát triển bền
vững.
Chúng ta thừa hiểu rằng, đô thị hóa không chỉ là xây dựng cơ
sở hạ tầng, phát triển kinh tế, thương mại, dịch vụ mà còn phải xây dựng nền tảng
tinh thần của đô thị trong đó lối sống. Bởi chính cái nền tảng tinh thần này giữ
vai trò trọng yếu, quyết định “cái hồn” cho mỗi đô thị. Tuy vậy, trong quá
trình phát triển đô thị (nhất là tiến trình đô thị hóa nông thôn) chúng ta chỉ
chú trọng đến yếu tố không gian kiến trúc mà không để ý (hay bỏ qua) việc kiến
tạo, xây dựng không gian xã hội đô thị: văn hóa đô thị, lối sống đô thị, sinh
thái đô thị. Tất cả những tồn tại, bất cập ấy có nhiều nguyên nhân nhưng không
thể không nói đến vai trò của người đứng đầu của mỗi thành phố, từ tầm nhìn và
tư duy phát triển đến công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch và cụ thể hơn là
công tác chỉ đạo, điều hành gắn với giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình vận hành đô thị. Tức là tư duy và năng lực của người đứng đầu và đội
ngũ trực tiếp quản trị đô thị. Đó là lý do không ít lãnh đạo và nhà nghiên cứu
đề xuất xây dựng mô hình chính quyền đô thị để quản trị và phát triển đô thị hiệu
quả hơn, bền vững hơn.
2. Nội hàm của “mô hình chính quyền đô thị”
Trong các giai đoạn
phát triển khác nhau của một quốc gia, dân tộc hay một đô thị cụ thể, sự can
thiệp của chính quyền đến toàn bộ nền kinh tế là rất quan trọng nhằm ổn định, định
hướng sự phát triển theo chiến lược đã đặt ra. Tuy nhiên, mức độ, phạm vi, cường
độ, nội dung, phương thức can thiệp ở mỗi thời điểm khác nhau là không giống
nhau. Có lúc chính quyền thành phố đóng vai trò “độc tôn”, bao biện trên hầu hết
các lĩnh vực của đời sống nhưng cũng có lúc chỉ đóng vai “kiến tạo”, phục vụ[2], chú trọng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Thế nhưng, bất luận
trong hoàn cảnh nào, vận hành đô thị kiểu truyền thống hay hiện đại, quy mô đô
thị nhỏ hay lớn, tính chất đô thị có phức tạp hay không thì vai trò chủ chốt của
chính quyền thành phố là không thể khuyết thiếu. Điều này thể hiện ở các bình
diện cụ thể sau:
Thứ nhất, chính quyền đô thị đóng vai trò là nhà cung ứng
(chủ yếu) các dịch vụ công. Đây là vai trò hết sức căn bản của chính quyền thành
phố, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Kinh tế thị trường
tuân thủ theo các quy luật của thị trường (quy luật giá cả, quy luật cạnh
tranh, quy luật cung cầu,...) nhưng các dịch vụ công, với tính chất đặc thù là
phục vụ, ổn định đời sống và giải quyết các nhu cầu của thị dân trong mối quan
hệ với chính quyền thì rõ ràng, đây càng thể hiện vai trò không thể thay thế của
chính quyền đô thị. Thông qua điều tiết đầu tư từ nguồn tài chính công, chính
quyền đô thị chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng, triển khai, cung ứng
các dịch vụ công cho cư dân, doanh nghiệp như hạ tầng giao thông, phương tiện
giao thông công cộng, thông tin liên lạc, truyền thông đại chúng, cấp-thoát nước,
giáo dục, y tế, nhà ở (xã hội), các thiết chế và cơ sở hạ tầng văn hóa,...
Thứ hai, chính quyền đô thị đóng vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của đô thị. Cho đến
thời điểm hiện nay, không ít người vẫn đặt “niềm tin” vào “chìa khóa vạn năng”
của thị trường và tuyệt đối hóa “bàn tay vô hình” mà quên mất những khuyết tật
của thị trường (market defects) như cạnh tranh không lành mạnh, tác dụng ngoại ứng
tiêu cực, bất bình đẳng và phân tầng xã hội quá mức, mất kiểm soát, lợi ích
nhóm,... Do đó, việc can dự của chính quyền vào quá trình vận hành kinh tế đô
thị đúng lúc, đúng nội dung, đúng cường độ, đúng phương pháp chính là liệu pháp
khắc phục các khuyết tật của thị trường, điều chỉnh kinh tế vĩ mô.
Với vai trò quản
lý tổng thể, chính quyền đô thị sẽ điều chỉnh quan hệ cung cầu nhằm giải quyết
các nhu cầu xã hội, ổn định và cân bằng kinh tế đô thị. Thông qua nhiều biện
pháp trong đó có cả các chính sách vĩ mô, trung mô; các chính sách, đề án quy
hoạch để đảm bảo phát triển đô thị bền vững. Bên cạnh đó, để đảm bảo đô thị được
vận hành hiệu quả và “trơn tru”, chính quyền đặt ra và thực thi một số chính
sách cụ thể về việc làm, cơ cấu ngành nghề, cơ chế đầu tư, thu hút nguồn tài
chính bên ngoài,...
Thứ ba, chính quyền đô thị là người đứng đầu phải chịu trách nhiệm chính trong giải
quyết các vấn đề đô thị (vấn đề từ bên trong và tác động tiêu cực từ bên
ngoài). Vấn đề xã hội đô thị là hệ quả của quá trình phát triển và biến đổi xã
hội, trong quá trình phát triển và chuyển biến xã hội, tất yếu xuất hiện sự mất
cân đối trong chức năng, kết cấu và mất cân bằng của một số bộ phận và thành tố
xã hội. Nói cách khác, một vài chức năng nào đó trong hệ thống xã hội bị suy giảm,
bị triệt tiêu hay bị chuyển hóa thường gây nên mất cân bằng trong kết cấu xã hội;
mất đi sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận, thành tố trong hệ thống xã hội,
từ đó làm nảy sinh các vấn đề xã hội[3].
Đối với bất cứ đô
thị nào (hay một đô thị cụ thể), vấn đề xã hội là rất đa dạng, phong phú và có
tính chất, quy mô khác nhau. Tuy nhiên, các vấn đề đô thị chủ yếu hiện nay
chính là vấn đề dân số (bao gồm cả hiện tượng di dân, gây nên quá tải đô thị),
vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị (kể cả môi trường tự nhiên và môi trường nhân
văn), vấn đề tệ nạn xã hội (mại dâm, ma túy, trộm cướp,…), vấn đề đói nghèo đô
thị, vấn đề ngập úng đô thị, vấn đề giao thông đô thị (bao gồm sự thiếu hụt các
nguồn cung giao thông công cộng, ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông,...) và
nhiều vấn đề xã hội khác.
Ngoài ra, đô thị
với tư cách là một hệ thống chỉnh thể, còn chịu tác động bởi các yếu tố ngoại tại
(đương nhiên là cả mặt tích cực và tiêu cực). Chẳng hạn, trong xu thế toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và tác động của cuộc cách mạng lần thứ tư khiến cho “thế
giới phẳng đô thị” cũng chịu tác động tiêu cực nhất định như đánh mất bản sắc của
mình khiến đô thị thiếu đi phần “hồn cốt”, “linh thiên” gắn với văn hóa, lối sống
đặc hữu. Chính lẽ đó, chính quyền đô thị có vai trò “gạn đục khơi trong” để tiến
trình hội nhập vẫn tiến hành nhưng “hội nhập mà không hòa tan” trong dòng chảy
lịch sử của văn minh đô thị.
Thứ tư, chính quyền đô thị và người đứng đầu có vai trò phân phối và tái phân phối
thu nhập, giải quyết các vấn đề an ninh, an toàn và an sinh xã hội đô thị. Mặc
dù kinh tế thị trường là một trong những nhân tố góp phần nâng cao năng xuất
lao động và hiệu suất sản xuất nhưng bản thân nó không thể giải quyết vấn đề
công bằng xã hội. Dưới thể chế kinh tế thị trường (tự do) thì cơ hội không
“chia đều” cho mọi người, và do đó chỉ có một số người biết chớp lấy “cơ may thị
trường” mới có thể làm giàu. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng và
phân tầng xã hội quá mức, cực đoan và hình thành kiểu phân tầng bất hợp thức. Bất
bình đẳng xã hội, đến lượt nó, sẽ là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
bình thường xã hội, đặc biệt là trong điều kiện mà chúng ta đang tiến hành xây
dựng một đất nước hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh; không để ai bỏ lại phía sau; phát triển đô thị thông minh bền vững.
Thông qua việc chế
định và thực thi các chính sách liên quan đến an sinh xã hội, chính quyền thành
phố sẽ kiến lập hệ thống bảo trợ xã hội bằng cách tái phân phối xã hội, hướng đến
các nhóm thu nhập thấp, nhóm yếu thế để nâng cao năng lực và tạo điều kiện phát
triển cho mọi tầng lớp xã hội trong đô thị; giải quyết bất bình đẳng xã hội
(thu nhập, chi tiêu, sở hữu tài sản, tiếp cận dịch vụ,...), điều hòa lợi ích xã
hội nhằm hướng đến một đô thị phát triển hài hòa, bền vững.
Thứ năm, chính quyền đô thị là chủ thể quan trọng trong giữ vững an ninh, trật tự
đô thị, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp sinh sống, học tập,
lao động, kinh doanh, giải trí. Kinh tế thị trường (tự do) dễ dàng dẫn đến sự
lũng đoạn và bất công bằng xã hội (thậm chí phân hóa, phân cực xã hội). Do đó,
thông qua biện pháp hành chính, pháp luật, chính quyền đô thị sẽ đóng vai trò
là một “trọng tài” để “ngăn chặn” và “rút thẻ đỏ” đối với những hành vi thị trường
không phù hợp, tạo môi trường thuận lợi và sân chơi lành mạnh cho các thực thể,
chủ thể trong đô thị có điều kiện để phát triển.
Song song với đó,
để một đô thị vận hành một cách suông sẻ theo hướng bền vững cần phải có môi
trường an ninh, trật tự ổn định; nhân dân và doanh nghiệp đặt niềm tin vào
chính quyền thì vấn đề an ninh cần phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Một đô
thị sẽ đáng sống hơn, nghĩa tình hơn, nhân văn hơn khi các tệ nạn xã hội được
khống chế ở mức thấp nhất, nạn trộm cắp cũng như hiện tượng cướp của, giết người
được giải quyết một cách triệt để,... Tất cả những nhiệm vụ đó thì chính quyền
đô thị phải là chủ thể chủ yếu nhất, then chốt nhất.
3. Điều kiện và nguyên tắc hình
thành mô thức chính quyền đô thị
3.1. Điều kiện
Hình thành “chính
quyền đô thị” gắn với “chế độ thị trưởng” thì không những “chấp nhận tên gọi”
mà còn là sự chấp nhận cách nghĩ, cách làm, các mối quan hệ từ các chủ thể lợi
ích mới các thiết chế mới của đô thị và đặc biệt là tư duy quản lý mới. Khi
đã “hình thành” thể chế quản lý theo kiểu chính quyền đô thị rồi thì bản thân
nó cũng không phải “đứng im” mà luôn “vận động” theo những nhu cầu nội tại của
sự phát triển.
Lấy Hoa Kỳ làm ví
vụ, từ khi thiết lập chính quyền đô thị đến nay, họ cũng đã thay đổi nhiều mô
thức để thích ứng và phù hợp với nhu cầu quản lý mới về đô thị. Ít nhất cho đến
nay họ cũng đã kinh qua (và tồn tại) một số loại mô thức chính quyền đô thị
như: chế độ thị trưởng yếu (The Weak –
Mayor Plan); chế độ thị trưởng mạnh (The
Strong – Mayor Plan); chế độ Ủy ban- Ban chấp hành (The Conmission Plan); chế độ Hội đồng – Quản lý (The Council – Manager Plan)[4].
Như vậy, về bản chất mà nói, không phải muốn có hay không có “chính quyền đô thị”
gắn với chế độ thị trưởng mà phải thấy rằng, sự phát triển xã hội nói chung,
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa cũng như mức sống và đời sống
dân trí của thị dân được nâng lên nói riêng, là những lực đẩy nội tại “cần phải
thay áo mới” cho một cơ thể xã hội - đô thị đang trương đầy cơ bắp mà chính chiếc
áo cũ ấy không thể đáp ứng được nhu cầu hiện hữu. Còn nữa, chính quyền đô thị
ra đời còn cần phải sự đòi hỏi ngoại tại mà trước hết có thể nói đến là sự giao
lưu, giao thương quốc tế theo kiểu thành phố - thành phố (sự tương tác song
hành trực tiếp giữa hai thành phố nào đó) đòi hỏi cần phải có sự “thống nhất
tương đối” về vị trí, địa vị và phương thức quản lý đối trọng. Kế đến và tiên
quyết là sự “đòi hỏi” của thị dân trong chính đô thị đó. Khi đời sống dân trí
được nâng cao đến một mức độ nào đó, nếu bản thân thị dân (một chủ thể trọng yếu
của đô thị) muốn được thể hiện vai trò, vị trí của mình trong tiến trình xây dựng,
quản lý, giám sát, bảo vệ, phát triển chính đô thị họ đang sống, thì họ đòi hỏi
phải có một hình thức quản lý đô thị mới (có thể là chế độ thị trưởng hoặc một
kiểu quản lý nào đó) để họ thể hiện được quyền và nghĩa vụ, vai trò và vị trí của
mình. Thêm nữa, cần phải có sự nhìn nhận, cho phép và “thúc ép” từ chính quyền
trung ương về “tính cần thiết” của “chiếc áo mới” là cấp bách hay không? Bởi
xét đến cùng mục đích tối thượng và xuyên suốt của một chính quyền thành phố,
dù ở bất cứ hình thức nào, tên gọi nào, thì cũng là để quản lý xã hội đô thị tốt
hơn về các mặt văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, tôn
giáo tín ngưỡng,...
Như vậy, có thể
nói, sự ra đời (và cho phép ra đời) của chế độ quản lý thị trưởng không phải là
từ ý chí cá nhân đơn lẻ nào đó mà nó cần hội đủ những điều kiện tiên quyết từ
nhu cầu nội tại ngay trong lòng của đô thị đó với những chủ thể hiện hữu của nó
và đòi hỏi ngoại tại từ những sức kéo bên ngoài. Nó không phải là “sản phẩm” sản
sinh từ tâm lý “họ có mình có”, càng không phải “cầm đèn chạy trước ô tô”. Nên
nhớ một sản phẩm sinh ra không “hợp thời” không những không mang lại những lợi
ích mà đôi khi còn làm tổn thất đến nhân lực, vật lực, tài lực cho xã hội nếu
không muốn nói là kéo lùi sự phát triển. Theo dự đoán của chúng tôi, nếu căn cứ
trên những điều kiện tiên quyết ở trên thì Việt Nam chúng ta ít nhất cũng phải
đến năm 2030 mới có thể đủ điều kiện chín muồi để “sinh hạ” thị trưởng[5].
Theo thông lệ,
chính quyền đô thị gắn với chức danh của người đứng đầu là “thị trường” (dù cả ở
chế độ thủ trưởng-thị trưởng hay chế độ hội đồng thị trưởng). Ưu điểm của “chế
độ thủ trưởng” là quyền lực được tập trung gần như tuyệt đối về tay thị trưởng,
và vì thế khi tiến hành giải quyết một vấn đề nào đó liên quan đến sự phát triển
(thậm chí là vận mệnh của thành phố đó) thì trách nhiệm của người đứng đầu là
cao nhất, hành động nhanh chóng, khoa học, hiệu suất cao. Do đó, đòi hỏi người
đứng đầu thành phố phải có phẩm chất, năng lực thực sự và các kỹ năng lãnh đạo
tương ứng. Thế nhưng, vì cá nhân quyết định hầu hết các vấn đề nên cũng có những
khuyết điểm thường thấy: Dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên dễ dẫn đến sai lầm,
nóng vội, thậm chí dẫn đến sự độc đoán, lạm quyền.
Ngược lại, ưu điểm
của Chế độ hội đồng là tập hợp được tư tưởng, ý chí của Hội đồng, vấn đề được
xem xét thấu đáo, chu toàn… Nhưng khuyết điểm là quyền lực bị phân tán dẫn đến
quyết định hành động chậm trễ, hiệu suất công việc thấp, đôi khi là “trống đánh
xuôi kèn thổi ngược”. Chính sự “bất thập toàn” này nên về hình thức tổ chức
chính quyền đô thị, nhiều quốc gia cũng như đô thị trên thế giới lựa chọn “biện
pháp chiết trung”, nghĩa là trên thực tế là lựa chọn “chế độ thủ trưởng” nhưng
đồng thời đưa ra những qui định về pháp luật tương ứng buộc thị trưởng - người
đứng đầu thành phố - phải tuân theo khi ra một quyết định nào đó có ảnh hưởng đến
lợi ích của đại bộ phận cư dân và các chủ thể lợi ích khác.
Nghĩa là một phần
phải thực hiện theo phương thức “chế độ hội đồng thị trưởng”, xét về bản chất
thì đó là kiểu “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Và hơn thế nữa, hành động
của thị trưởng cũng không thể nằm ngoài những qui phạm của hiến pháp và pháp luật
của nhà nước sở tại.
Tuy nhiên, không
nên ngộ nhận rằng, “thị trưởng” có quyền quyết định tất cả mọi vấn đề liên quan
đến thành phố mà anh ta quản lý bất chấp hiến pháp và pháp luật hiện hành. Ngược
lại, tất cả những hành động của thị trưởng mà cụ thể là vi phạm hành chính và
quyết định hành chính, vi phạm đến hiến pháp và pháp luật hiện hành của Nhà nước
đều bị truy tố trách nhiệm. Điều đó cần phải khẳng định thêm, dù sao đi nữa thì
người đứng đầu thành phố theo mô thức chính quyền đô thị phải tuân thủ luật
pháp và có khả năng ra quyết định.
Chung quy, thị
trưởng không phải là người đứng trên mọi người (hội đồng thị trưởng và thị dân)
mà là người đứng trong, đứng bên mọi người, biết lắng nghe những ý kiến đóng
góp từ thị dân và nhất là của Hội đồng thị trưởng. Điều tiên quyết hơn, thị trưởng
không thể đứng ngoài hiến pháp và pháp luật, ngược lại thị trưởng phải tuân thủ
tất cả những quy định pháp luật của Nhà nước. Tất cả những quyết định của thị
trưởng trước tiên phải là hợp hiến, hợp pháp sau đó là hợp với điều kiện hiện hữu
của đô thị mà anh quản lý, mà tiên quyết hơn là hợp với lòng dân; phù hợp với
nhu cầu phát triển chung của đô thị mà thị trưởng quản lý.
Cũng cần lưu ý rằng,
một khi mà cách quản lý theo tư duy cũ: Quan liêu, bao cấp, bao biện, óc tiểu
nông, bè cánh, vụ lợi…. vẫn còn hiện hữu và “còn đất sống” ở nhiều nơi, nhiều
chỗ, thì xây dựng (và chấp nhận) kiểu quản lý thị trưởng cần được làm thận trọng.
Xây dựng và vận hành chế độ “thị trưởng” phải song song với việc “sửa đổi lối
làm việc”, với “quản lý đô thị theo tư duy mới”.
3.2. Nguyên tắc
Như trên đã phân
tích, cho dù ở tên gọi nào (nhất là là trong điêu kiện của Việt Nam), dù là “chủ
tịch thành phố” hay “thị trưởng” thì người đứng đầu của đô thị đó vẫn là “người
của dân”, lấy lợi ích của dân làm lợi ích chung và phục vụ “tôn chỉ phát triển”,
đảm bảo tư duy quản lý phát triển. Nói khác đi, dù ở tên gọi nào đi nữa, thì
người đứng đầu một thành phố phải tuân thủ theo nguyên tắc “dĩ nhân vi bản”, vì
nhân dân phục vụ. “Thị trưởng” sinh ra là để phục vụ nhân dân, đưa thành phố mà
anh lãnh đạo, quản lý ngày càng hoàn thiện, phát triển trên mọi mặt của đời sống
xã hội, đáp ứng nguyện vọng ngày càng cao về nhu cầu vật chất và tinh thần của
thị dân.
Dưới lăng kính quản
lý xã hội mà nói, mô hình quản lý đô thị của chúng ta hiện nay trong một số đô
thị lớn vẫn còn phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội hiện hữu. Thế nhưng, vấn
đề là ở chỗ, nhận thức và cách điều hành của người đứng đầu đô thị còn mang tư
duy “vừa chạy vừa xếp hàng”, “nóng đâu phủi đó”, thiếu hẳn tầm chiến lược trong
công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý (quản lý không gian vật chất và quản lý cả
không gian xã hội) khiến cho đô thị của chúng ta phát triển một cách lộn xộn, mất
trật tự, không theo một chiều tích định hướng nhất định.
Từ những thực tiễn
về sự bất cập trong tư duy và cách thức vận hành đô thị, thị trưởng ra đời với
sứ mệnh không phải là người trực tiếp “cầm quân dẹp loạn” hay “diễu võ dương
oai” với cái tên mới ấy, mà là người biết tập hợp đội ngũ trí thức, có am hiểu
chuyên môn sâu về quy hoạch, kiến thiết, quản lý, vận hành đô thị tạo nên một hội
đồng cố vấn đắc lực để tham mưu trước khi ra quyết định. Thực tiễn của nhiều đô
thị trên thế giới cho thấy, dù ở bất kỳ hình thức thị trưởng nào (như đã nói ở
trên) thì thị trưởng không phải “đơn thương độc mã”, “chuyên quyền độc đoán” mà
là người phải biết lắng nghe, thấu hiểu, phân tích và đưa ra quyết định đúng, hợp
pháp hợp hiến và đặc biệt là hợp lòng dân.
Nếu vẫn còn mang
tư tưởng quan liêu, độc đoán, bất chấp ý kiến của các nhà khoa học hữu quan và
nhất là ý kiến của thị dân, thì có thể nói ngay rằng, khi chấp nhận chính quyền
đô thị ở Việt Nam thì chưa chắc sẽ mang lại hiệu quả cao trong quản lý đô thị,
chưa chắc có sự đồng thuận từ thị dân, một chủ thể trọng yếu trong đô thị.
Như vậy, dù vận
hành theo mô thức nào, kiểu quản lý nào thì cũng phải hướng đến và tuân thủ các
nguyên tắc: phát triển đô thị bền vững, lấy nhân dân làm chủ thể phục vụ, lấy đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, lấy sự hài lòng
của nhân dân làm thước đo; người lãnh đạo, quản trị đô thị phải cầu thị, nắm bắt
nhu cầu và tạo điều kiện để các tầng lớp trong đô thị thỏa mãn các nhu cầu ngày
càng cao, đảm bảo nguyên tắc “dĩ nhân vi bản”.
4. Vai trò, phẩm chất, năng lực
của người đứng đầu thành phố theo mô hình chính quyền đô thị
4.1. Vị trí, vai trò
Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế như hiện nay, việc lựa chọn và xây dựng phương thức phát triển đô
thị bền vững gắn với mô hình chính quyền đô thị là xu thế tất yếu. Tuy nhiên,
cho đến thời điểm hiện nay, nhiều đô thị trong cả nước vẫn còn tồn tại những yếu
kém về mặt quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, trong đó có cả những yếu kém
về nhận thức, tổ chức thực hiện, giám sát... Đó có thể kể đến là công tác qui
hoạch xây dựng đô thị chưa được quan tâm đúng mức. Việc công bố, công khai qui
hoạch xây dựng theo luật định của Luật xây dựng chưa được thực hiện nghiêm túc ở
một số địa phương. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều nhưng không thể
không nói đến trình độ, năng lực của đội ngũ công chức quản lý qui hoạch xây dựng
đô thị ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Chưa thực hiện đúng vai
trò của mình trong công tác quản lý xây dựng đô thị. Chính điều này là điều kiện
“màu mở” để nảy sinh tình trạng xây dựng không phép, trái phép dẫn đến bộ mặt
kiến trúc của thành phố còn lộn xộn, thiếu mĩ quan. Kế đến có thể nói đến công
tác cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xây dựng đô thị của chúng ta còn
quá chậm và còn nhiều bất cập. Một số chính quyền địa phương vẫn chưa làm tốt
việc thực hiện phân cấp trong việc lập và quản lý qui hoạch xây dựng, cấp giấy
phép xây dựng và giảm bớt các thủ tục hành chính. Có thể nói, chính những yếu tố
này là những thách thức lớn khi tiến hành kiến tạo và xây dựng mô hình chính
quyền đô thị.
Để làm được điều
này, vai trò của người đứng đầu thành phố là vô cùng quan trọng, trước mắt phải
“nhận thấy” được “sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi” của thành phố mà mình
đang quản lý; phải “nhận chân” được các giá trị của một thành phố gắn với “cái
hồn” của nó; phải vừa quy hoạch, phát triển “không gian kiến trúc” nhưng phải vừa
kiến tạo, giữ gìn “không gian xã hội” của đô thị. Nói cách khác, vai trò và
trách nhiệm của người đứng đầu là vô cùng quan trọng: có trách nhiệm về qui hoạch
xây dựng và quản lý đô thị; có cái tầm để “nhìn thấy” được phương hướng phát
triển và phát huy các nguồn lực để thúc đẩy năng lực nội sinh của thành phố.
4.2. Phẩm chất, năng lực
Khi bàn đến tố chất
của người lãnh đạo, quản lý chúng ta thường nói đến “cấu trúc đức - tài”, “tâm
và tầm”, “vừa hồng - vừa chuyên”… điều đó đúng nhưng đôi khi hơi giáo điều. Bởi
khái niệm “đức tài”, “tâm tầm” một khi chưa thể (hay không thể) thao tác hóa
thành những chỉ báo để cân, đo, đong, đếm được thì nó chỉ là những cặp khái niệm
mơ hồ. Do đó, người đứng đầu thành phố (hay thị trưởng) không nhất thiết phải
“văn võ song toàn” mà điều tiên quyết là phải sở hữu tri thức về quản lý nói
chung và về quản lý đô thị nói riêng. Bởi đô thị là một hệ thống phức hợp đa chức
năng về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh,… và là biểu tượng của sự
phát triển, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ. Chính vì thế, người đứng đầu thành phố là người cần phải có năng
lực về quản lý đô thị. Trong đó, kiến thức và tầm nhìn về quản lý đô thị phải được đặt lên hàng đầu trong tiêu chí lựa
chọn thị trưởng. Thực tế nước ta cho thấy, kiến thức về đô thị nói chung, về quản
lý đô thị nói riêng của phần lớn cán bộ lãnh đạo quản lý (kể cả liên quan đến
công tác quản lý đô thị hiện tại) còn sơ sài, nếu không muốn nói là số không.
Chính sự yếu kém về nhận thức dẫn đến sự yếu kém trong công tác chỉ đạo, ra quyết
định.
Điều này được kiểm
chứng ngay trong các đô thị ở nước ta trên các lĩnh vực quy hoạch đô thị, xây dựng
đô thị và quản lý đô thị. Thực tế đã chứng minh sự lúng túng trong công tác quy
hoạch và quản lý đô thị trong các đô thị lớn của nước ta trong thời gian qua. Sự
thiếu thống nhất trong công tác quy hoạch, sự thiếu đồng bộ và quyết đoán trong
công tác xây dựng, kiến thiết, quản lý, vận hành đô thị; sự nhập nhằng và thiếu
quyết đoán trong công tác quản lý đô thị trong thời gian qua đã cho thấy năng lực
về nhận thức và thực hành quản lý đô thị của cán bộ lãnh đạo, quản lý hữu quan
còn hết sức đơn giản. Thiết nghĩ, trước khi “có” chính quyền đô thị thì cần phải
“có” đầu óc về quản lý theo kiểu chính quyền đô thị. Bởi xét cho cùng, thể chế
quản lý chính quyền đô thị là một bộ phận tổ thành trọng yếu trong kiến trúc
thượng tầng xã hội đô thị. Khi chưa hội đủ những điều kiện chín muồi thì không
nên vội vã.
Song song với đó,
là người đứng đầu thành phố phải biết lắng nghe, biết tập hợp sức mạnh khoa học
kỹ thuật từ những nhà chuyên môn về đô thị, về quản lý hành chính, quản lý thị
chính để từ đó xây dựng được những mối quan hệ từ các cơ cấu (mới và phức tạp)
trong “thiết chế thị trưởng” (mối quan hệ giữa cơ cấu tư pháp, cơ cấu hành
chính, cơ cấu các cơ quan đại diện của thành phố; mối quan hệ giữa các đoàn thể
xã hội, tổ chức chính đảng và cơ cấu nhà nước). Bởi khi đã hình thành chế độ thị
trưởng thì không những “chấp nhận tên gọi” mà còn là sự chấp nhận (và thay đổi
hàng loạt) cách nghĩ, cách làm; các mối quan hệ từ các chủ thể lợi ích mới; các
thiết chế mới của đô thị và đặc biệt là tư duy quản lý mới.
5. Kết luận
Xây dựng và vận
hành mô thức chính quyền đô thị hay kiến lập một thể chế quản lý kiểu mới về đô
thị phải vừa phù hợp với tình hình quản lý hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa
lại vừa đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước trong điều kiện hiện hữu (điều kiện
cơ sở hạ tầng, điều kiện về trình độ quản lý, điều kiện về dân số, văn hóa, thể
chế…). Đối với nước ta nói chung, với một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. HCM,
Đà Nẵng, Cần Thơ,… nói riêng có lẽ đây là một vấn đề khá mới mẻ, có tác động lớn
và chưa có tiền lệ trong lịch sử quản lý đô thị. Chính lẽ đó, cần có những bước
đi thận trọng, chắc chắn; cần có những nghiên cứu thật khoa học và tỉ mỉ, trên
cơ sở kế thừa những thành tựu quản lý đô thị từ các mô hình khác nhau trên thế
giới, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và cả điều kiện về thể
chế chính trị của Việt Nam.
Thực tế từ các đô
thị ở nước ta cho thấy, đã và đang tồn tại nhưng mâu thuẫn nội tại như: mâu thuẫn
giữa sự gia tăng dân số và sức chịu tải của hạ tầng đô thị; giữa nhu cầu về nguồn
nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng với sự cung ứng nguồn
nhân lực từ thị trường lao động và biến động dân số; giữa năng lực tổ chức, quản
lý đô thị của đội ngũ quản lý hiện hữu với nhu cầu và đòi hỏi của phương thức
quản lý đô thị kiểu mới; giữa cơ cấu kinh tế-xã hội hiện hữu với năng lực và
trình độ điều hành của đội ngũ quản lý đô thị, giữa trình độ quản lý đô thị lạc
hậu với nhu cầu hiện đại hóa, quốc tế hóa về phương thức quản lý phù hợp với tốc
độ đô thị hóa cao; giữa mong muốn thay đổi mô thức quản lý, vận hành đô thị
theo hướng bền vững với năng lực nội tại về khả năng kiến tạo, phát triển,…Tất
cả những mâu thuẫn đó đã tạo nên một sức ép không nhỏ khi phải tiến hành xây dựng
và vận hành mô hình chính quyền đô thị, điều này buộc nhà lãnh đạo, quản lý cấp
cao và các chuyên gia về đô thị cần phải tính toán, cân. Nhưng từ những yêu cầu
phát triển của đất nước, trong đó có hệ thống đô thị; từ tư duy đổi mới và các
nguồn lực hiện hữu,… chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, kiến tạo và vận
hành mô hình chính quyền đô thị là hoàn toàn khả thi, hoàn toàn đúng đắn, là
yêu cầu tất yếu và đó cũng là phương thức để phát triển đô thị xanh, đô thị
thông minh, đô thị bền vững.
Tài liệu tham khảo
1.
Phạm
Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn,
Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, 2016.
2.
Phạm
Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2018.
3.
Đỗ Hậu,
Xã hội học đô thị, Nxb. Xây dựng. Hà
Nội, 2001.
4.
Lê
Như Hoa, Quản lý văn hóa đô thị trong điều
kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb. Văn hóa-Thông tin. Hà Nội,
2000.
5. Nguyễn Minh Hòa, Đô thị học – Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học quốc
gia TP.HCM, 2012.
6. Nguyễn Đình Hương, Đô thị hóa và quản lý kinh tế đô thị ở Hà Nội. Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000.
7.
Nguyễn
Tố Lăng, Quản lý đô thị ở các nước phát triển. Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 2017.
8.
Trịnh
Duy Luân, Giáo trình xã hội học đô thị,
Nxb, Đại học quốc gia Hà Nội, 2009
9.
Trịnh
Duy Luân, Tác động kinh tế-xã hội của đổi
mới trong lĩnh vực nhà ở đô thị. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,1998.
10.
Nguyễn
Văn Thành, Xây dựng và quản trị thành phố
thông minh, bảo đảm các chỉ số an ninh, an sinh, an toàn trong cách mạng công
nghiệp 4.0. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020
[1]
Trong những trường hợp cụ thể, chúng tôi gọi là “mô hình”, “mô thức”, “phương
thức”, “thể chế” đều có một hàm nghĩa như nhau – kiểu tổ chức quản trị đô thị
trong tình hình mới.
[2] Xem: Phạm Đi, Mô hình “chính phủ kiến tạo, phục vụ” của Trung Quốc và gợi ý đối với
Việt Nam về xây dựng “Chính phủ kiến tạo, vì nhân dân phục vụ”. Tạp chí Khoa
học xã hội miền Trung số 4/2019.
[3] Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, 2018, tr.8
[4] Phạm Đi (2016), Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, tr.6.
[5] Phạm Đi (2016), Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb. Đại
học quốc gia TP.HCM, tr.7
Nhận xét
Đăng nhận xét