THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY- MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY-
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
Một xã hội được gọi là bình đẳng, tất nhiên và tất
yếu mỗi cá nhân trong đó phải được hưởng thụ những cơ hội và quyền lợi ngang
nhau, và không thể không nói đến vấn đề công bằng xã hội, bình đẳng nam nữ. Đứng
từ giác độ bình đẳng giới mà nói, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội
không thể không bao hàm bình đẳng giới, nói cách khác hai yếu tố này là những
giá trị xã hội cần đạt được và phải đạt được một cách song hành. Bởi công bằng
xã hội sẽ thúc đẩy sự bình đẳng xã hội (bao gồm bình đẳng giới) và ngược lại,
bình đẳng xã xã hội là nguồn năng lượng thúc đẩy công bằng xã hội, phát triển
xã hội.
Việt Nam là một quốc gia sớm nhận thức được vấn đề bình đẳng
giới. Xem bình đẳng giới là động lực cũng là mục tiêu của tiến trình phát triển
xã hội, bởi bình đẳng giới là quyền lợi cơ bản cũng là giá trị hết sức cơ bản của
con người. Tuy vậy, từ nhận thức đến hành động là một quá trình không đơn giản,
nó đòi hỏi phải có một cơ chế vận hành để thúc đẩy, xúc tiến thực thi. Nói cách
khác, cần phải có một hệ thống giải pháp và những nhiệm vụ cần phải tiến hành
và đạt được trong từng giai đoạn nhất, có những bước đi nhất định. Nếu không,
bình đẳng giới chỉ là một khẩu hiệu, một lời “tuyên ngôn” sáo rỗng, và khi đó
bình cái gọi là bình đẳng giới không sẽ phản tác dụng nếu không muốn nói là kìm
hảm sự phát triển xã hội.
Nếu làm một phép tính giản đơn thì chúng ta cũng có thể suy
ra rằng, Việt Nam hiện nay có hơn 40 triệu người là nữ giới, một nữa dân số này
không thể đứng ngoài sự phát triển của xã hội, càng không thể đứng ngoài “tầm
phủ sóng” của các chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung, những chính sách
liên quan đến phụ nữ nói riêng. Như đã nói ở trên, Việt Nam sớm nhận thức được
vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển xã hội, xem đây là nguồn lực to lớn
cần phải phát huy và tôn trọng. Đặc biệt trong những năm gần đây, Chính phủ đã
ban hành nhiều quy định, chính sách pháp luật liên quan đến lĩnh vực bình đẳng
giới mà bằng chứng là ngày 29/10/2006, Quốc Hội đã thông qua và ban hành Luật
bình đẳng giới, Luật này nhằm quy định những nguyên tắc bình đẳng giới trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới,
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện
bình đẳng giới.
Tuy vậy, trong quá trình kiến lập và hoàn thiện chế độ
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phát sinh và tồn tại
những vấn đề liên quan đến sự phát triển của phụ nữ cũng như thực hiện bình đẳng
giới: sự phân tầng xã hội trong các nhóm phụ nữ ngày càng phức tạp, sự đa dạng
hóa trong nhu cầu về đảm bảo lợi ích, quyền lợi, phát triển, sinh tồn của các
nhóm; sự bất bình đẳng (đúng hơn là sự mất cân bằng) dần hiện rõ trong chính những
nhóm phụ nữ khác nhau, khu vực địa lí khác nhau, những giai tầng khác nhau; vẫn
còn tồn tại những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ, phong kiến về trọng nam khi nữ, hiện
tượng xâm hại quyền lợi của phụ nữ vẫn còn tồn tại trên không ít lĩnh vực và khu
vực; nạn bạo hành đối với phụ nữ (nhất là bạo lực gia đình) đang có chiều hướng
gia tăng và biến trướng.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã “nhìn thấy” và chú
trọng giải quyết đến những vấn đề này. Chúng ta không khó để kiểm chứng sự từng
bước khắc phục và giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước ta
trong sự lồng ghép vào các chính sách kinh tế, pháp luật, chính trị và cả dư luận
xã hội, góp phần bảo đảm quyền lợi bình đẳng nam nữ và hưởng thụ quyền lợi này
trong gia đình và ngoài xã hội trên các lĩnh vực như văn hóa, kinh tế, chính trị.
Không ngừng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nữ giới.
Tuy vậy, như đã nói, bình đẳng giới không phải là khẩu hiệu,
một lời tuyên ngôn mà là một giá trị xã hội thực sự, một động lực để phát triển
xã hội. Chính lẽ đó, thực hiện bình đẳng giới không chỉ “gói ngọn” trong nhận
thực mà phải cả trong hành động; không chỉ thực hiện trong một thời gian mà phải
được thực hiện xuyên suốt, lâu dài; không chỉ chuyện lập pháp và cả vấn đề hành
pháp, tư pháp; không chỉ dừng ở tầm vĩ mô mà phải có những hành động và chính
sách hết sức cụ thể trong từng lĩnh vực cụ thể. Cũng như thế, nó không thể “đạt
được” trong một sớm một chiều mà phải trải qua một quá trình lâu dài, có kế hoạch,
có định hướng và có cả sự quyết tâm. Kết quả “đạt được” của bình đẳng giới
không phải là cái gì đó mơ hồ mà phải là những thành tựu lượng giá được, cân đo
đong đếm được, tức là phải “thấy được”. Chẳng hạn như tỉ lệ phụ nữ có việc làm,
mức độ bảo hiểm xã hội đối với phụ nữ, tỉ lệ phụ nữ tham chính, điều kiện hoàn
cảnh việc làm của phụ nữ, quyền lợi hợp pháp của phụ nữ đã được bảo đảm ở mức độ
nào? Kết quả này phải được thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, giáo dục, sức khỏe, pháp luật, môi trường... Để đạt được những chỉ số này,
thiết nghĩ cần phải có những chính sách đúng đắn, những giải pháp khả thi để từng
bước thực thi. Trong bài viết này, chúng tôi muốn bàn đến vấn đề bình đẳng giới
trong các lĩnh vực sau đây:
1.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế là đảm bảo cho phụ
nữ đạt được sự bình đẳng trong việc tham gia vào hoạt động kinh tế cũng như
bình đẳng trong cơ hội, quyền lợi khi thụ hưởng các thành quả kinh tế xã hội;
chống kì thị giới trong việc làm, đảm bảo quyền lợi lao động cho phụ nữ. Để đảm
bảo bình đẳng trong cơ hội việc làm giữa nam và nữ, đảm bảo sự công bằng trong
hưởng thụ những thành quả phát triển xã hội thì phải có hệ thống chính sách
tương ứng thúc đẩy sự phát triển năng lực của phụ nữ, cải thiện và nâng cao địa
vị kinh tế cho người phụ nữ. Làm được điều này, theo chúng tôi cần có những biện
pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, về chính sách việc làm. Nhà nước cần có những chế định
cụ thể để hỗ trợ cho phụ nữ tiềm kiếm việc làm cũng như tự tạo việc làm. Chẳng
hạn hỗ trợ để đào tạo việc làm, miễn giảm thuế khi phụ nữ tự tạo việc làm (tức
là cung cấp những điều kiện có lợi để phụ nữ tự tạo việc làm), đồng thời chính
quyền các cấp phải phải có những động thái tích cực tạo việc làm cho phụ nữ, chẳng
hạn chống kì thị về giới trong nghề nghiệp, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho phụ
nữ, thiết kế những “cửa sổ phụ vụ” về nghề nghiệp, kiến lập và ưu tiên những chỗ
làm có thể cho phụ nữ, giúp đỡ những đối tượng thất nghiệp hoặc khó tìm kiếm việc
làm để họ có được việc làm; chỉ đạo và kết hợp với những tổ chức như phụ nữ,
thanh niên, công đoàn giúp đỡ phụ nữ tìm kiếm việc làm...
Thứ hai, cải thiện kết cấu việc làm của phụ nữ. Trong quá trình
bồi dưỡng, đào tạo, chiêu mộ... cần chú trọng đến vấn đề bình đẳng giới, tạo điều
kiện cho những phụ nữ có năng lực có điệu kiện cống hiến cho xã hội. Trên thực
tế, những ngành nghề có thu nhập cao và được coi là “nghề của nam giới” như điện
lực, viễn thông, bưu chính, điện tử, tài chính, bảo hiểm. Do đó, cần phải tạo
điều kiện cho phụ nữ có điều kiện tham gia vào các công việc nói trên, cải thiện
kết cấu việc làm của phụ nữ như hiện nay.
Thứ ba, nâng cao mức độ bảo hiểm xã hội cho phụ nữ. Trong những
năm gần đây, Việt Nam đã chú ý đến vấn đề bảo hiểm xã hội (bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm cho người già...), tuy vậy chế độ bảo hiểm của chúng ta
còn mang tính “cào bằng” (ngang nhau giữa nam và nữ trong cùng một điều kiện).
Nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng chế độ bảo hiểm “lưỡng cực”, tức là
giữa nữ giới và nam giới có chế độ bảo hiểm khác nhau trong cùng một điều kiện.
Trong những trường hợp cụ thể, phụ nữ vẫn chịu thiệt thòi nhiều hơn nếu được hưởng
chính sách bảo hiểm như nam giới. Chính điều này mới là bất bình đẳng trong hưởng
thụ chính sách bảo hiểm xã hội. Do vậy, chúng ta cũng phải cần xem xét áp dụng
chế độ bảo hiểm “lưỡng cực” để người phụ nữ được thụ hưởng “công bằng” hơn
trong chế độ bảo hiểm xã hội.
Thứ năm, ủng hộ quyền lợi hợp pháp của nhóm phụ nữ di cư đến
thành phố mưu sinh. Trước tiên chúng ta cần phải thừa nhận rằng, những năm trở
lại đây, tỉ lệ phụ nữ di cư đến thành phố ngày một đông (di cư theo mùa vụ hoặc
di cư không xác định thời gian), đây là một thực mà chúng ta không thể ngăn cản
và cần chấp nhận nó như một tất yếu của sự phát triển. Nhóm phụ nữ này thường
có tay nghề thấp, lao động phổ thông. Nhiều trường hợp đến thành phố thường
mang theo cả gia đình và con cái. Đầu tiên, chúng ta phải thừa nhận tính hợp
pháp của nhóm này khi họ di cư đến thành phố và xem đây là nhóm yếu thế cần phải
có sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính quyền (như vấn đề hộ tịch, vấn đề việc làm, vấn
đề học hành của con cái họ...), đồng thời giúp họ nâng cao trình độ nhận thức về
pháp luật, ý thức về quyền lợi hợp pháp cũng như tìm kiếm việc làm ổn định cuộc
sống.
2.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị là một trong những
lĩnh vực hết sức nhạy cảm và mang tính lịch sử. Đối với những quốc gia phát triển
như Na-uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ thì vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
sớm được đưa ra và thực tế đã đạt được những thành tựu hết sức thuyết phục [1]. Việt
Nam cũng đã nhận thức được vấn đề này mà bằng chứng là tỉ lệ phụ nữ tham chính
của chúng ta ngày càng được nâng cao [2]. Tuy
nhiên, khoảng cách giới về chính trị của chúng ta vẫn còn lớn, do đó cần phải
tăng cường sự nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực xã
hội, đặc biệt là lĩnh vực chính trị; từng bước nâng cao tỉ lệ phụ nữ tham
chính, tham gia vào đội ngũ lãnh đạo quản lí nhà nước và nhất là tham gia vào
quá trình ra quyết định. Để làm được điều này, cần phải:
Thứ nhất, quán triệt nguyên tắc “công khai, công bằng, cạnh
tranh, ưu tiên” trong quá trình tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ. Tuyển chọn,
sử dụng, đề bạt cán bộ cần phải tuân thủ nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng nhưng
cũng chú ý đến nguyên tắc ưu tiên cho cán bộ nữ, nhất là những đối tượng ưu tú,
tài năng, suất sắc tham gia vào đội ngũ lãnh đạo. Tạo điều kiện và môi trường tốt
nhất để phát huy năng lực của phụ nữ, dần từng bước xóa bỏ “khoảng cách giới”
trong lĩnh vực chính trị.
Thứ hai, bồi dưỡng nâng cao tố chất nghiệp vụ chính trị của đội
ngũ cán bộ nữ. Có kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ nữ về học tập lí luận,
nghiệp vụ thực tiễn, luân lưu cán bộ nữ ở các cấp. Các cấp ủy đảng và chính quyền
cần có kế hoạch nâng cao tỉ lệ phụ nữ trong đội ngũ của mình.
Thứ ba, trong quá trình biên soạn và chế định những chính sách
pháp luật có liên quan đến lợi ích, quyền lợi thiết thân của phụ nữ, cần phải lắng
nghe những góp ý của đại biểu nữ từ các cấp, đồng thời nếu cần thiết thì phải lấy
ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp phụ nữ.
Thứ tư, tăng cường ý thức cạnh tranh, năng lực của phụ nữ khi
tham gia và nguồn máy quản lí xã hội. Động viên, khích lệ phụ nữ tham gia thảo
luận đưa ra những quyết sách về các lĩnh vực xã hội, đảm bảo quyền lợi dân chủ
trực tiếp và gián tiếp của phụ nữ. Từng bước nâng cao tỉ lệ phụ nữ trong các cơ
quan đơn vị hành chính.
3.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hiện nay có sự bất bình
đẳng về giới trong giáo dục ở nước ta. Tỉ lệ trẻ em gái vào các trường THPT
luôn thấp hơn tỉ lệ các em nam, tỉ lệ em giá từ 15 tuổi trở lên thụ hưởng giáo
dục (số năm học) ít hơn nam, tỉ lệ giáo viên nữ cấp 3 trở lên luôn thấp hơn
giáo viên nam… Chung qui là tỉ lệ trẻ em gái thụ giáo thấp hơn tỉ lệ nam giới đồng
lứa tuổi. Đó là thực trạng về bất bình đẳng giới trong giáo dục ở Việt Nam. Từ
thực trạng đó, chúng ta cần phải từng bước thực hiện bình đẳng giới trong giáo
dục. Để làm được điều này thiết nghĩ cần phải:
Thứ nhất, trong chiến lược phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng con người
nói chung, bồi dưỡng nhân tài nói riêng, Nhà Nước cần phải có cái nhìn về bình
đẳng giới, song song với nó cần tránh những “khuôn mẫu giới” trong giáo dục (nhất
là giáo dục nhà trường), chính lối tiếp cận khuôn mẫu giới sẽ là nguyên nhân
làm sâu sắc thêm khoản cảnh giới trong giáo dục. Thêm nữa, trong qui hoạch tổng
thể về phát triển giáo dục của từng địa phương cũng như của quốc gia cần phải
chú ý đến vấn đề bất bình đẳng trong thụ giáo (tiếp nhận giáo dục) giữa nam và
nữ, dần từng bước thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục, đảm bảo quyền
lợi và cơ hội tiếp nhận giáo dục ngang nhau giữa hai giới.
Thứ hai, chế định và hoàn thiện chính sách pháp luật tương quan
về giáo dục theo hướng bình đẳng về giới để nữ giới có điều kiện như nam giới
trong việc tiếp cận giáo dục. Tạo môi trường giáo dục có lợi hơn cho phụ nữ (nhất
là trẻ em nữ), nghiêm cấm việc kì thị giới trong giáo dục
Thứ
ba, đối với phổ cập giáo dục đảm bảo 100% trẻ em
gái được đến trường, chú ý đến các em vùng vùng vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
(vì chính những nơi này khoảng cách giới càng hiện rõ).
4.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe
Có thể nói rằng, Việt Nam hiện nay đã có những bước tiến
đáng kể trong lĩnh vực y tế, mạng lưới y tế dần hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu
khám chữa bệnh cho người dân nói chung, nam nữ đều có cơ hội như nhau khi tiếp
cận các dịch vụ y tế. Tuy nhiên, đó chưa phải là hoàn hảo càng chưa đạt được
“bình đẳng” nếu nhìn dưới lăng kính giới. Nói cách khác, về lĩnh vực bảo đảm vấn
đề chăm sóc y tế, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ chúng ta chưa đạt được. Nhiều quốc
gia trên thế giới đã nhận thức được rằng, bảo bảo về chăm sóc y tế, chăm sóc sức
khỏe cho phụ nữ là lĩnh vực ưu tiên để cho phụ nữ phát triển và thực hiện bình
đẳng giới. Có thể nói ngay rằng, Việt Nam chúng ta chưa có cái nhìn đúng về vấn
đề này. Xét về mặt nhu cầu giới mà nói, nhu cầu khám chữa bệnh của phụ nữ không
hoàn toàn giống nhu cầu khám chữa bệnh của nam giới, cũng có nghĩa rằng cơ cở vật
chất kĩ thuật để phục vụ khám chữa bệnh cho nữ giới phải mang tính đặc thù và
tính phổ biến. Đặc biệt là công tác dự phòng còn có ý nghĩa đối với phụ nữ. Nhiều
nước trên thế giới đưa công tác dự phòng bệnh cho nữ giới đến từng trường học,
cộng đồng nhằm tuyên tuyền về các bệnh về giới, HIV/AIDS, nâng cao tầm hiểu biết
của phụ nữ (nhất là nữ thanh thiếu niên) về kiến thức sức khỏe giới tính, tăng
cường năng lực tự bảo vệ của chính nhóm phụ nữ này. Đối với những phụ nữ lớn tuổi
thì lựa chọn nhiều kênh tuyên tuyền khác nhau, nhiều phương thức khác nhau, có
những trung tâm tư vấn chuyên khoa để phục vụ nhu cầu tư vấn, khám chữa bệnh của
họ. Từ đó đề cao chất lượng sống của nhóm phụ nữ này. Việc chăm sóc y tế cho phụ
nữ còn chú ý đến nhóm đối tượng thai sản, đặc biệt là phụ nữ nghèo, vùng sâu
vùng xa. Tuyên truyền nâng cao kiến thức về chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và thai
nhi trong thời kì thai sản, giảm thiểu tỉ lệ trẻ em tử vong trước, trong và sau
khi sinh. Do vậy, để thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế cần phải:
Thứ nhất, trong việc bảo đảm quyền lợi được chăm sóc tế thì phụ nữ
và trẻ em phải được đặc ở vị trí trọng yếu. Điều này được cụ thể hóa bằng sự đầu
tư các dịch vụ khám chữa bệnh cho phụ nữ. Trong quá trình thực hiện chính sách
bình đẳng giới trong y tế, nhiều nước trên thế giới thực hiện chính sách “bất
bình đẳng”, nghĩa là ưu tiên đầu tư cho phụ nữ nhiều hơn, chẳng hạn chính sách
đầu tư về y tế sẽ tính đến tỉ lệ phụ nữ trên 18 tuổi và tăng nguồn kinh phí đầu
tư, đảm bảo nhu cầu đặc thù của phụ nữ trong việc chăm sóc y tế.
Thứ
hai, kiện toàn mạng lưới phụ vụ y tế cho phụ nữ
nhất là những đối tượng thai sản, nâng cao chất lượng bệnh viện phụ khoa. Xây dựng
quỹ chuyên dụng về bảo đảm sức khỏe cho phụ nữ, từ quỹ này có thể đầu tư thiết
bị máy móc, cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu đặc thù của phụ nữ mà cụ thể là
công tác phục vụ sức khỏe sinh sản.
Thứ
ba, tăng cường công tác giáo dục sức khỏe sinh sản
cho phụ nữ (nhất là những đối tượng trong độ tuổi sinh sản), bao gồm biện pháp
phòng tránh thai, sức khỏe sinh sản, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Từng bước
nâng cao nhận thức của phụ nữ về tự ý thức trong công tác chăm sóc sức khỏe, tự
chủ trong kế hoạch hóa gia đình, có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến
lĩnh vực sức khỏe bản thân và gia đình.
Thứ
tư, về lĩnh vực chăm sóc y tế tâm lí [3] cho phụ
nữ, từng bước nâng cao sức khỏe về sinh lí, sức khỏe tâm lí cho phụ nữ, đặc biệt
chú ý đến việc dự phòng những trở ngại tâm lí mà tạo thành những nguy cơ. Từng
bước hình thành và hoàn thiện mạng lưới tư vấn tâm lí cho phụ nữ mà cụ thể là
những trung tâm tư vấn “sức khỏe tâm lí” cho phụ nữ.
5.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực pháp luật
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đó là điều hiển
nhiên, giới tính không là ngoại lệ. Bình đẳng giới trong lĩnh vực pháp luật
không phải là thiên vị pháp luật mà xuất phát từ thực tế: năng lực và ý thức nhận
thức pháp luật của phụ nữ “lạc hậu” hơn so với nam giới; những hành vi tội phạm
nhắm vào phụ nữ ngày càng nhiều hơn, quyết liệt hơn, tinh vi hơn (nhất là nạn lợi
dụng tình dụng, hiếp dâm, buôn bán phụ nữ…). Trong khi đó thì số lượng (và chất
lượng) của phụ nữ là hội thẩm nhân dân, thẩm phán, tòa án (nói chung là trong
lĩnh vực tư pháp và hành pháp) còn quá khiêm tốn, điều đó đã tạo nên một bất
bình đẳng về giới trong lĩnh vực pháp luật. Để khắc phụ tình trạng này cần phải
có những biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường năng lực và ý thức về nhận thức pháp luật
cho phụ nữ bằng cách thông qua các phương tiện truyền thông tuyên truyền giáo dục
pháp luật, giúp họ nhận thức được quyền lợi hợp pháp của bản thân. Trong quá
trình lập pháp, chấp pháp và tư pháp cần đảm bảo thực hiện quyền lợi cho người
phụ nữ và có ý thức đến vấn đề bình đẳng giới.
Thứ
hai, tăng cường công tác giám sát thực thi pháp
luật trong lĩnh vực chấp pháp cũng như tư pháp. Có chế tài đủ mạnh đối với những hành vi xâm hại
đến quyền lợi của phụ nữ
như xâm hại tình dục, hiếp dâm, mua bán phụ nữ, tổ chức mua bán dâm.
Thứ
ba, kiến lập và hoàn thiện hệ thống trợ giúp
pháp lí nhằm hỗ trợ pháp lí và trợ giúp xã hội cho phụ nữ bị hại. Phát huy vai
trò của các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Công đoàn, các tổ
chức này là người đại diện pháp lí cho đương sự nếu thấy cần thiết.
Thứ
tư, phát hiện và ngăn chặn hiện tượng bạo lực
gia đình đối với phụ nữ, thiết lập các đường dây nóng để phụ nữ có thể liên hệ
nếu cần (nên chăng mỗi UBND các phường, xã có một đường dây nóng) . Cần thiết lập
những mô hình như “gia đình bình an”, “gia đình hạnh phúc”, “cộng đồng không bạo
lực” đến từng khu phố, thôn ấp. Bên cạnh đó thành lập những trung tâm giám định
(nhiều nước đặc các trung tâm giám định này ngay trong bệnh viện địa phương) tổn
thương khi bị hành hung làm cơ sở pháp lí cho việc khởi tố bị can. Có những trợ
giúp hữu hiệu và thiết thực cho những trường hợp bị bạo lực cần có sự trợ giúp
(nhất là các đối tượng phụ nữ di dân đến đô thị, phụ nữ nghèo, trình độ văn hóa
thấp)
Thứ
năm, bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình phải được đảm bảo bằng luật pháp.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành luật bình đẳng giới, Việt
Nam chúng ta cũng nằm trong số này. Luật quy định “Bình đẳng giới là việc nam,
nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó” (khoản 3 điều 5 Luật bình đẳng giới Việt Nam).
Tuy vậy việc cụ thể hóa luật bằng những việc làm cụ thể vẫn chưa được tiến
hành. Đơn giản, nhiều quốc gia trên thế giới đã cụ thể hóa việc bình đẳng giới
trong hôn nhân và gia đình như sau: giấy đăng kí kết hôn luôn được in ra 2 bản
mỗi bên đương sự một bản; giấy tờ liên quan đến tài sản nhất là nhà đất thì một
mặt ghi tên của hai người nhưng đồng thời cũng gồm có 2 bản cho mỗi bên một bản;
khi người vợ sinh đẻ thì người chồng cũng có quyền “nghỉ sinh” để chăm sóc, phục
vụ vợ con (nhưng vẫn hưởng nguyên lương trong vòng 1 tháng, 80% lương trong
tháng thứ 2). Nói như thế để thấy rằng, việc ban hành luật là cần thiết, việc
thực thi pháp luật là cần thiết hơn. Hơn thế nữa, luật pháp không thể qui định
hết sức chung chung mà không có những “chỉ báo” để thực hiện và đo lường nó thì
khó có thể thực hiện, việc bình đẳng giới chỉ là khẩu hiệu, một lời hô hào mà
thôi.
6.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực môi trường [4]
Cần tạo ra một môi trường xã hội có lợi cho sự phát triển
toàn diện mà đặc biệt là môi trường làm việc và môi trường sống thích hợp cho sự
phát triển cũng như sáng tạo cho phụ nữ, từng bước nâng cao mức độ phúc lợi xã
hội cho nhóm đối tượng này. Trong những năm gần đây, chúng ta đã nhìn nhận vấn
đề này và từng bước cải thiện môi trường thuận lợi cho sự phát triển của phụ nữ,
tuy vậy vẫn còn những khiếm khuyết chưa đạt được, nhất là điều kiện làm việc,
sinh hoạt, học tập, vui chơi giải trí của nữ công nhân, nữ nông dân và nhóm phụ
nữ nghèo. Để giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực môi trường, cần phải có những
chính sách căn cơ, lâu dài và có tính khả thi.
Thứ nhất, cần có những nghiên cứu bài bản để nắm bắt thực trạng về
môi trường làm việc, môi trường sống… của phụ nữ hiện nay, nhất là nữ công nhân,
nữ lao động nghèo, vùng sâu vùng xa từ đó tăng cường giáo dục và tuyên truyền về
bình đẳng giới[5],
tăng cường nhận thức giới, từng bước xóa bỏ định kiến xã hội, kì thị xã hội về
giới. Tạo ra một môi trường xã hội tốt cho sự phát triển, sáng tạo và cống hiến
của phụ nữ.
Thứ hai, biểu dương những tấm gương phụ nữ điển hình tiên tiến,
khẳng định sự cống hiến của phụ nữ cho sự tiến bộ và phát triển xã hội, thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng, nhân rộng các tấm gương phụ nữ suất
sắc, điển hình, hình thành sự tôn trọng xã hội đối với phụ nữ.
Thứ
ba, kiến lập cơ cấu phúc lợi xã hội để đảm bảo
cuộc sống cho nhóm phụ nữ nghèo, nhóm phụ nữ có thu nhập thấp, nhóm phụ nữ môi
trường làm việc có ảnh hưởng (hoặc có nguy cơ ảnh hưởng) đến sức khỏe. Có chế độ
đãi ngộ cho cho các nhóm phụ nữ này về y tế, dưỡng lão, thất nghiệp; đảm bảo lợi
ích cơ bản khi phụ nữ trong thời kì thai nghén và sinh đẻ.
Thứ
tư, xây dựng môi trường gia đình lành mạnh không
bạo lực, không khói thuốc, dân chủ, bình đẳng; phụ nữ được tôn trọng; quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình được bảo đảm dân chủ và bình đẳng. Môi trường
gia đình lành mạnh sẽ là yếu tố làm cho môi trường xã hội lành mạnh, có lợi cho
sự phát triển của phụ nữ và cũng có lợi cho sự phát triển xã hội nói chung.
7.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là mục tiêu chung quốc gia. Thời gian
qua chúng ta đã được được những thành tựu to lớn trong vấn đề xóa đói giảm
nghèo, chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp, nhiều kênh khác nhau để tiến hành
xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, trong quá trình ban hành và thực thi chính sách
chúng ta ít (khoặc không) chú trọng lắm đến vấn đề giới trong lĩnh vực này. Nói
khác đi, chúng ta không có “chính sách riêng” cho nhóm phụ nữ (nhất là phụ nữ
nông thôn vùng sâu vùng xa, phụ nữ nghèo đô thị..). Bởi về bản chất, họ là
“nhóm yếu thế trong nhóm yếu thế” cần được bảo vệ và có chính sách hỗ trợ để họ
thoát nghèo. Để làm được điều này, theo chúng tôi cần phải có chính sách ưu ái
cho nhóm này, cụ thể là.
Thứ nhất, chế định chính sách có lợi cho phụ nữ nghèo để họ thoát
nghèo. Như đã nói, trong chính sách xóa đói giảm nghèo chúng ta không “phân biệt”
là nhóm nghèo nào miễn là có thu nhập dưới mức qui định (dưới đường nghèo đói
Poverty Line) thì cho là nghèo. Đây là chỉ báo nói rằng, chúng ta chưa có cái
nhìn về giới khi ban hành (và thực thi) chính sách. Do vậy, cần có chính sách
có lợi hơn cho phụ nữ nghèo để họ có thể tự thoát nghèo bằng chính năng lực của
mình. Nói khác đi, chính sách xóa đói giảm nghèo phải được đặc trên nguyên tắc
ưu tiên.
Thứ hai, kêu gọi và ủng hộ các tổ chức phi chính phủ giúp đỡ phụ
nữ (nhất là phụ nữ nghèo nông thôn) thoát nghèo và làm giàu. Hiện nay, các tổ
chức phi chính phủ (nhất là các tổ chức đến từ các nước phát triển) họ rất chú
ý quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới trong xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là nhóm
phụ nữ nghèo. Được biết, thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương đã
nhận được sự ủng hộ đáng kể từ phía các tổ chức này. Các tổ chức này thường lấy
tiêu chí “ thoát nghèo bền vững” làm mục tiên và sự tác động của họ thường mang
lại những hiệu quả bền vững giúp cho nhóm phụ nữ nghèo thoát nghèo bền vững.
Thiết nghĩ, chúng ta cần phải có chính sách hợp lí, thông thoáng để nhận được sự
hỗ trợ của các tổ chức này, bởi trên thực tế chúng ta, nhiều lúc, còn hành
chính hóa, “chính trị hóa” lĩnh vực này khiến nhiều tổ chức “ngại” hỗ trợ cho
Việt Nam. Đây cũng là điều mà chúng ta cần phải suy nghĩ.
Như đã nói ở trên bình đẳng giới không phải là một khẩu hiệu, một lời tuyên
ngôn mà là một phương thức sống, lối sống, một phương thức tư duy, một giá trị
xã hội thực sự. Thúc đẩy sự bình đẳng giới chính là thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Bình đẳng giới không phải là một ý đồ chiến thuật hay một giải pháp tình thế mà
nó là một chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển và bình ổn xã hội.
Chính vì thế thực hiện bình đẳng giới không thể là công việc ngày một ngày hai,
nhất thời mà là xuyên suốt trong các lĩnh vực, quá trình; trong quá trình lập
pháp, tư pháp và hành pháp. Để thực hiện bình đẳng giới ngoài công tác tuyên
tuyền, giáo dục, truyền thông thì công tác luật pháp hóa cũng cần được đề ra và
thực hiện. Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới
phải được lồng ghép vào trong các chính sách pháp luật, phải được đưa vào trong
giáo dục nhà trường xem đây là kiến thức cơ bản và đồng thời phải được các cơ
quan, tổ chức, ban ngành, cộng đồng hưởng ứng, thực hiện. Song song với nó là
công tác giám sát việc thực thi bình đẳng giới, có chế tài đủ mạnh đối với hành
vi vi phạm Luật bình đẳng giới… Có như thế, nhận thức về giới và thực hiện bình
đẳng giới mới đạt được những kết quả như mong muốn, bình đẳng giới mới thực sự
là động lực phát triển xã hội.
PHẠM
ĐI
[1] Đến thời điểm hiện nay, tỉ lệ phụ nữ tham chính
các cấp của Thụy Điển là 45%.
[2] Theo PGS.TS Lê Thị Quý, Giám đốc
Trung Tâm nghiên cứu Giới và phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) tỉ lệ phụ nữ
là đại biểu tỉ lệ phụ nữ là đại biểu
quốc hội từ nhiệm kì 9 đến nhiệm kì 11 đã tăng thêm 8,7% nâng tỷ lệ phụ nữ tham
gia chính quyền lên 27,3% - tỉ lệ cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Tỉ lệ phụ
nữ tham gia hội đồng nhân dân ba cấp: xã, phường; quận, huyện và tỉnh thành đều
tăng.
[3] Tổ chức y tế thế giới cho rằng, tình trạng
bệnh tật bao gồm cả vấn đề tâm lí. Một người được cho là khỏe mạnh thì phải có
một cơ thể khỏe mạnh và cả một trạng thái tâm lí khỏe mạnh. Do đó, việc chăm
sóc y tế về tâm lí được đặc ra. Đối với nước ta, vấn đề này còn mới mẽ, tuy vậy
cũng cần phải từng bước thực hiện.
[4] Môi trường ở đây được hiểu là môi trường
xã hội (social environment)
[5] Nhiều quốc gia trên thế giới thành lập
các trung tâm nghiên cứu giới và phát triển để nghiên cứu nắm bắt tình trạng bất
bình đẳng giới, từ đó có kế hoạch tuyên truyền chính sách về bình đẳng giới đến
sâu rộng trong quần chúng nhân dân cũng như đến các cấp lãnh đạo.
Nhận xét
Đăng nhận xét