PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC TRÊN CƠ SỞ GIỚI
PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC TRÊN CƠ SỞ GIỚI
I. Khái quát
về bạo lực trên cơ sở giới
1. Khái
niệm
Từ sau Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) được tổ chức tại Cairo năm 1994 và Hội nghị Quốc tế về Phụ nữ lần thứ tư tổ chức tại Bắc Kinh năm 1995, phòng chống
bạo lực đối với phụ nữ đã trở thành
một phần quan
trọng trong nhiệm
vụ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), với luận cứ rằng phòng
chống
bạo lực đối với
phụ nữ có liên quan mật thiết tới việc cải thiện sức khoẻ sinh sản của phụ nữ và vị thế của họ trong xã hội.
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) trong Chương trình
Quốc gia 7 hợp tác với chính phủ Việt Nam (2006 – 2010) hỗ
trợ Chính phủ Việt Nam cải thiện
chất lượng và việc
sử dụng các thông tin
và dịch vụ về sức khoẻ sinh sản mang tính
nhạy cảm giới bao
gồm sức khoẻ tình dục và kế hoạch hoá
gia đình. UNFPA cũng tiếp tục hỗ trợ cho các tổ chức cấp trung
ương và cấp tỉnh giải quyết các vấn đề bình đẳng giới cụ thể là phòng
chống bạo lực gia đình hoặc phòng chống
bạo lực trên cở sở giới. Hướng tới mục tiêu này, một đánh giá định tính đã được tiến hành nhằm mục đích xác định những chương trình phòng chống
bạo lực trên cơ sở giới thành công ở Việt Nam, những thách thức phải đối mặt, và đề xuất những hành động trong tương lai.
Bạo lực đối với phụ nữ, thường
được biết đến như là bạo lực
trên
cơ sở giới (BLG), là một vấn đề sức khỏe cộng đồng và nhân quyền cơ bản. Trên thế giới, cứ ba phụ nữ thì có ít nhất một người đã từng bị đánh đập, cưỡng ép tình dục hoặc lạm dụng trong cuộc đời.1 Bạo lực ảnh hưởng
nghiêm trọng
đến cuộc sống và đời sống tinh thần của người phụ nữ. Bạo lực cũng gây ra những tác động tiêu cực
đối với con cái, gia đình và
các tổn hại về kinh tế. Trong những
năm gần đây, cộng đồng quốc tế đã bắt đầu nhìn nhận tính nghiêm trọng và quy mô của vấn đề này và bắt đầu hành động.
Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về Xoá bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 đã định nghĩa Bạo lực trên cơ sở Giới (BLG) như sau: “Bất kỳ một hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở giới dẫn đến, hoặc có
khả
năng dẫn đến, những tổn thất về thân thể, tình dục, tâm lý hay những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa
có
những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở
nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư” đều gọi là bạo lực trên cơ sở giới”.
Bạo lực trên Cơ sở
Giới được miêu tả tiếp trong Báo cáo Dân số Chấm dứt Bạo lực đối với Phụ nữ (1999), như
sau:
“Nó thường được biết đến như là bạo lực “trên cơ sở giới” bởi
vì xuất phát một phần từ vị trí thấp kém hơn của người phụ nữ trong xã hội.
Phần khác, nhiều nền văn hóa có các niềm tin, chuẩn mực và thể chế xã hội làm chính đáng hóa bạo lực đối với phụ nữ và bởi vậy gây ra bạo lực đối với phụ nữ. Cùng là
những hành động như nhau nhưng nếu chúng xảy ra với người chủ lao động, người hàng xóm hoặc người quen thì sẽ bị trừng phạt, nhưng lại không có vấn đề gì nếu nam giới có các hành động đó đối với phụ nữ, đặc biệt trong phạm vi gia đình.”[1]
2. Các
hình thức của bạo lực trên cơ sở giới
Trong cuộc đời mình, phụ nữ và trẻ em gái có thể trải qua nhiều hình thức BLG khác nhau từ trước khi sinh ra và
trong giai đoạn sơ sinh - ví dụ
như việc nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính hoặc tục giết trẻ sơ sinh gái - trong thời thơ ấu hoặc thời kỳ vị thành niên và những năm tháng của độ tuổi sinh sản, cũng như khi về già. Lori Heise đã nghiên cứu các dữ liệu về các
loại bạo lực khác nhau đối với phụ nữ và đưa ra tổng quan về bạo lực xảy ra trong
cuộc đời của người phụ nữ (xem Hộp 1 dưới
đây).
Giai đoạn |
Loại bạo lực |
Trước khi sinh |
Nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính (Trung Quốc,
Ấn Độ, Hàn Quốc); đánh đập trong quá trình mang thai với các ảnh hưởng về tình cảm và thể chất đối với phụ nữ, ảnh hưởng
đến kết quả sinh đẻ; mang thai ép buộc (ví dụ hiếp dâm hàng
loạt trong chiến
tranh). |
Sơ
sinh |
Tục giết trẻ sơ sinh gái;
lạm dụng tình cảm và thể chất;
sự phân biệt trong chế độ dinh dưỡng
và chăm sóc y tế cho trẻ sơ sinh gái. |
Thời
thơ ấu |
Tảo hôn; cắt bỏ bộ phận kích dục; lạm dụng tình dục bởi các thành viên gia đình và người lạ; sự phân biệt trong chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế đối với trẻ em gái; mại dâm trẻ em. |
Thời niên thiếu
|
Bạo lực trong quá trình hẹn hò và tán tỉnh (tạt a xít ở
Băngladesh, hiếp dâm trong thời gian hò hẹn ở Mỹ; tình dục ép buộc vì lý do
kinh tế ở Châu Phi: phải kết giao với các “ lão già bao gái” (sugar daddies)
để có tiền chi trả học phí); lạm dụng tình dục ở nơi làm việc; hiếp dâm; quấy
rối tình dục; mại dâm ép buộc; buôn bán phụ nữ. |
Tuổi
sinh sản |
Lạm
dụng phụ nữ bởi bạn tình là nam giới; hiếp dâm trong hôn nhân; lạm dụng và giết người vì của hồi môn; giết bạn tình; lạm dụng về tâm lý; lạm dụng tình dục tại nơi làm việc; quấy rối tình dục; hiếp dâm; lạm dụng phụ nữ tàn tật |
Tuổi già |
Lạm
dụng phụ nữ goá; lạm
dụng người già (ở Mỹ - quốc gia duy nhất
có các dữ liệu
này, việc lạm dụng người già phần
lớn xảy ra với phụ nữ cao tuổi). |
3. Hậu quả
3.1. Về mặt
sức khỏe
Bạo lực trên cơ sở giới hay bạo lực giới có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực đối với sức khoẻ và cuộc sống của người phụ nữ, ví dụ bị thương tích về thân thể, hoặc bị chết, đau đớn suốt đời, và các vấn đề sức khoẻ tâm thần ví dụ
như trầm cảm, lạm dụng chất gây nghiện
hoặc tự tử. Bạo lực cũng ảnh hưởng đến đời sống của trẻ em và đời sống kinh tế của xã hội.
3.2 Hậu
quả đối với Sức khỏe Tình dục và Sức khỏe Sinh sản
Phụ nữ, những người sống với bạn tình vũ phu, thường
rất khó khăn trong việc đòi hỏi quyền của họ và bảo vệ họ không có thai ngoài ý muốn, bị nhiễm HIV và STI. Bạo lực có thể dẫn đến các vấn đề sức khoẻ tình dục và sức khoẻ sinh sản: rối loạn phụ khoa, vô sinh, bệnh viêm xương chậu, rối loạn tình dục, STI, HIV/AIDS, nạo hút thai không an toàn, có thai ngoài ý muốn và tử
vong
mẹ. Bạo lực trong quá trình mang thai thường dẫn đến sẩy thai, chăm sóc thai muộn, trẻ chết ngay khi sinh, đau đẻ sớm và đẻ non, động thai,
và
tỉ lệ sinh thấp.
3.3. Hậu
quả đối với trẻ em
Bạo hành giới cũng có hậu quả nghiêm trọng tới gia đình và trẻ em. Những trẻ phải chứng kiến bạo lực trong gia đình sẽ có nguy cơ cao hơn về tình cảm và hành vi cũng như có vấn đề về sức khoẻ10. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những trẻ phải chứng kiến bạo lực thường
có hành vi và tâm lý tương tự như các trẻ bị lạm dụng. Những cậu bé phải chứng kiến bạo lực trong
gia đình cũng có nguy cơ sử dụng bạo lực cao hơn khi lớn.
3.4. Các
hậu quả về kinh tế
Các hậu quả về mặt kinh tế của BLG đối với cá nhân và xã hội là rất
lớn. Đối với nạn nhân và gia đình họ, ngoài các chi phí chăm sóc y tế để chữa trị thương tích và rối loại tâm lý liên quan đến BLG, còn có các chi phí cơ
hội khác về thời gian dành cho việc
chữa trị và các hoạt động pháp lý khác mà lẽ ra thời gian
đó nạn nhân và gia đình họ có thể sử dụng để kiếm thêm thu nhập. Một
nghiên cứu ở Mỹ La Tinh năm 1996-1997 dự tính rằng chỉ riêng chi phí chăm sóc sức
khoẻ do BLG (không bao gồm các chi phí khác) đã là 1,9% GDP ở Bra-xin, 5% ở
Co-lum-bi-a, 4,3% ở En- xa-van-đo, 1,3% ở Mê-hi-cô, 1,5% ở Peru, và 0.3% ở
Venezuela13. BLG có thể gây ra những hậu quả lâu dài làm giảm năng suất của nạn
nhân. Đối với xã hội, BLG đòi hỏi phải có các nguồn lực rất lớn cho các can thiệp
công ví dụ như các dịch vụ về công an, toà án, hỗ trợ xã hội và pháp lý, các dịch
vụ bảo vệ trẻ em và xử lý những kẻ phạm tội. Ví dụ, ở Mỹ dự tính ngân sách quốc
gia hàng năm dành cho việc thực thi Đạo luật năm 1994 về Phòng chống Bạo lực
Gia đình đối với Phụ nữ là 1,6 tỉ USD.
II. Vấn đề
bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam
1. Tính
chất, mức độ
Ở Việt Nam còn
thiếu các thông tin và nghiên cứu về BLG có bằng chứng đáng tin cậy. Cho đến nay, mới chỉ có các nghiên cứu định tính và nghiên
cứu định lượng quy mô nhỏ về BLG ở Việt Nam. Mặc dầu sự phổ biến của BLG ở tầm quốc gia là chưa
được biết đến, tuy nhiên,
các nghiên cứu hiện có cho thấy BLG đang là một vấn đề. Một nghiên cứu năm 1999 ở 6 xã tại Hà Nội, Huế và thành
phố Hồ Chí Minh với mẫu gồm 600 phụ nữ đã lập gia đình cho thấy bạo lực thân thể xảy ra trong 16% các
gia
đình, trong đó 10% là các gia đình có kinh tế khá giả và 25% các gia đình có kinh tế túng thiếu; bạo lực tình
dục (tình dục cưỡng ép) xảy ra ở 18%
các gia đình khá giả về kinh tế và 25% gia đình túng
thiếu về kinh tế. Một nghiên cứu gần đây trên 2000 người đã lập gia đình ở 8 tỉnh/ thành phố của UB VĐXH QH năm 2006 cho thấy 2% những người trả lời cho biết đã từng bị bạo lực thân thể, 25% cho biết đã bị bạo lực tinh thần trong gia đình và 30% cho biết đã bị cưỡng ép tình dục. Các con số này có thể có khả
năng thấp hơn thực tế do những người trả lời thường
ngại nói với người khác về bạo lực trong gia đình của họ do sợ hãi và xấu hổ, hoặc vẫn chịu ảnh hưởng của những tư tưởng lạc hậu.
Các thái độ, chuẩn
mực và hành vi văn hóa đang cản trở sự hiểu biết về
BLG ở Việt Nam. Thuật ngữ “Bạo lực”
trong tiếng Việt là một khái niệm rất mạnh
và người dân thường ngần
ngại sử dụng thuật ngữ này
để nói về các thành viên gia đình mình, trừ phi việc lạm dụng gây ra các hậu quả nghiêm
trọng về sức khỏe và các hậu quả khác. Trong cuộc sống hàng ngày nhiều
hình thức bạo lực ít nghiêm trọng hơn ví dụ như lạm dụng bằng lời
nói, tát, cưỡng ép hoặc ép buộc tình dục trái với mong muốn của người vợ thường không được coi là bạo lực. Rất
cần thiết phải có một cuộc điều tra trên cơ sở số dân cấp quốc gia để hiểu biết đầy
đủ về BLG ở Việt Nam. Mặc dù chưa có số liệu chính
xác về sự phổ biến của BLG ở Việt Nam, BLG vẫn tiếp tục là một vấn đề bởi vì hiện chưa có một khung toàn diện nào nhằm phòng ngừa và quản lý BLG.
2. Các hành vi bạo lực
Ø Đánh đập, hành hạ hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
Ø Cưỡng ép lao động quá sức;
Ø Cưỡng ép quan hệ tình dục hoặc có hành vi khác xâm phạm đến đời sống
tình dục;
Ø Xúc phạm
danh dự, nhân phẩm,
uy tín;
Ø
Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép thựchiện hành vi
khác trái pháp luật;
Ø Cô lập, xua đuổi, quấy
rối hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
Ø Ngăn cản việc thực hiện
quyền hợp pháp giữa ông, bà và cháu; cha, mẹ và con; vợ và chồng; anh chị em với
nhau;
Ø Chiếm đoạt, huỷ hoại,
cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
Ø Có hành vi trái pháp
luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở;
Ø Các hành vị bao lực
khác trong gia đình theo quy định của pháp luật.
III.
Phòng chống bạo trên cơ sở giới
1. Đối với
Nhà nước và cơ quan hữu quan
- Hoàn thiện hệ
thống pháp luật;
- Tăng cường các
chế tài;
- Hoàn thiện đội
ngũ làm công tác bình đẳng giới, Hội liên hiệp phụ nữ, Ban vì sự tiến bộ của phụ
nữ;
- Chú trọng đến
Ngân sách trách nhiệm giới.
2. Đối với
thiết chế giáo dục
- Có kế hoạch
giáo dục vấn đề giới trong từng cấp học;
- Tăng cường ý thức
phòng chống bạo lực trên cơ sở giới;
- Biết cách lên
tiếng đối với hành vi bạo hành trong gia đình, trường học và ngoài xã hội;
3. Đối với
công tác tuyên truyền
- Tăng cường công
tác truyền thông;
- Đa dạng hóa các
kênh truyền thông;
- Phong phú hóa
các phương thức truyền thông;
4. Đối với
cá nhân
- Sống hòa nhã,
yêu thương;
- Phải hiểu rằng,
học là để chung sống;
- Biết bỏ qua lỗi lầm của người khác, nhất là trong mối quan
hệ trong gia đình như vợ - chồng; cha mẹ - con cái;
[1] Heise, L., Ellsberg, M., Gottemoeller, M., Báo cáo Dân số: Chấm dứt Bạo lực đối với Phụ nữ, Tập 27, Số 4, 1999
Nhận xét
Đăng nhận xét