QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI: TỪ NHẬN THỨC ĐẾN HÀNH ĐỘNG
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CÁC CHƯỞNG TRÌNH, PHƯƠNG HƯỚNG HÀNH ĐỘNG
1. Tiền đề lý luận về phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội
Xã hội loài người là một hệ thống
động, hệ thống động này không chỉ biểu hiện ở cơ chế vận hành từ nội bộ của các
thành tố, thiết chế xã hội mà còn biểu hiện ở sự biến đổi, phát triển của toàn
hệ thống xã hội. Từ cách tiếp cận đa chiều, cần phải nhìn nhận ở giác độ “tĩnh” và cả chiều hướng “động” để nhìn thấy
sự biến đổi, phát triển trong cơ cấu xã hội.
Lịch sử xã hội loài người không
ngừng phát triển, gia tốc phát triển của nó ngày càng nhanh chóng. Ngày nay,
cái mà chúng ta gọi là “hiện đại hóa” cũng là sản vật của quá trình phát triển
của hệ thống xã hội trên cả trạng thái tĩnh và trạng thái động. Xét về bản chất,
kết quả của quá trình phát triển mà chúng ta gọi là “hiện đại hóa” là một biểu
hiện, hình thức đặc thù của biến đổi xã hội, là tổng hòa những chuyển biến về
thể chế và hệ giá trị. Nói cách khác, hiện đại hóa chỉ là một khái niệm tương đối
để chỉ một quá trình biến chuyển, phát triển xã hội; là kết quả của một quá
trình mà con người sử dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ để cải tạo, thay
đổi môi trường sống của mình. Thông qua hiện đại hóa, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
có kế hoạch tăng trưởng kinh tế, hoàn thiện thể chế để phát triển toàn diện xã
hội theo hướng bền vững[1].
Như vậy, phát triển xã hội theo
hướng hiện đại hóa mà biểu hiện của nó là sự “chuyển động” của hệ thống xã hội
là một tất yếu lịch sử, một xu thế với gia tốc của nó luôn được gia tăng và chịu
tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, quá trình vận hành (chuyển
biến, phát triển) này nhanh hay chậm, gia tốc mạnh hay yếu, các yếu tố tiêu cực
và vấn đề xã hội phát sinh nhiều hay ít, nhân dân và cộng đồng cảm nhận, thụ hưởng
được “thành quả” ở mức độ nào,… còn tùy thuộc vào trình độ quản lý phát triển của
hệ thống chính trị tương ứng. Nói cách khác, “quản lý phát triển xã hội” là hoạt
động song hành cùng với quá trình biến đổi, phát triển xã hội để định hướng chiều
tích phát triển, giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh, đảm bảo tiến bộ và
công bằng xã hội: “Quản lý phát triển xã
hội, một cách chung nhất, là sự tác động có chủ đích của hệ thống quản lý hay
chủ thể quản lý (trực tiếp là Nhà nước, hoặc các tổ chức ngoài nhà nước) lên hệ
thống bị quản lý hay khách thể quản lý (đời sống xã hội), bằng các nguồn lực
trong xã hội và các công cụ, phương thức tác động đa dạng, nhằm hướng sự vận
hành và phát triển của đời sống xã hội theo các mục tiêu đặt ra”[2].
Như vậy, “phát triển xã hội” là
“đạo lý cứng”, vừa là xu thế tất yếu của tiến trình phát triển xã hội, vừa là
“mệnh lệnh” của con tim, trách nhiệm, lương tri của toàn bộ hoạt động quản trị
xã hội của chủ thể lãnh đạo, quản lý; đó không chỉ là sự kết nối phát triển từ
quá khứ, giải quyết các vấn đề nảy sinh ở hiện tại mà còn trách nhiệm với xã hội
tương lai theo hướng bền vững. Muốn vậy, cần phải đảm bảo sự gắn kết giữa phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của các chủ thể quản lý. Bởi lẽ,
quản lý phát triển xã hội là một hoạt động mang tính đặc thù bao gồm nhiều chủ
thể, gồm hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức hội nghề
nghiệp, tổ chức phi chính phủ và đặc biệt là người dân. Đương nhiên, các chủ thể
quản lý cần phải nhận thức đầy đủ về nội dung quản lý phát triển để có những
định hướng đúng đắn, khoa học. Tùy theo cách tiếp cận khác nhau mà nội dung quản
lý phát triển xã hội cũng không hoàn toàn giống nhau như chủ yếu tập trung vào
các lĩnh vực sau[3]: (1) Phát triển
cơ cấu xã hội, bao gồm: Cơ cấu dân số, dân cư và nhân khẩu; Cơ cấu giai cấp,
giai tầng, dân tộc, tôn giáo; Cơ cấu giới tính, thế hệ, nghề nghiệp,.. thích ứng
với cơ cấu kinh tế, đảm bảo xã hội hài hòa, đồng thuận và tiến bộ. (2) Kiểm
soát các biến đổi xã hội, bao gồm: Bất bình đẳng xã hội, phân tầng xã hội, di động
xã hội, an toàn xã hội, xung đột xã hội, bất thường xã hội và bền vững xã hội.
(3) Thực hiện đảm bảo xã hội, bao gồm: An sinh xã hội, hòa nhập và tái hòa nhập
xã hội, ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội, dịch vụ xã hội (việc làm, giáo dục, y tế,
nhà ở,…). (4) Xử lý xác vấn đề xã hội nảy sinh, bao gồm: Vấn đề dân số, vấn đề
thất nghiệp, vấn đề đói nghèo, vấn đề tội phạm, vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn
đề, vấn đề tham nhũng,…[4]. (5) Xây dựng
chính sách xã hội, bao gồm: Chính sách vĩ mô và vi mô gắn với từng phân hệ-lĩnh
vực xã hội mà Nhà nước và các tổ chức nhà nước cần tác động.
2. Một số quan hệ cốt lõi trong quản
lý phát triển xã hội
Quản lý phát triển xã hội nhằm
đảm đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội; đảm bảo định hướng phát triển hài hòa,
bền vững và cuối cùng là hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Muốn thực hiện được mục tiêu và cũng là nguyên tắc ấy, đòi hỏi
chủ thể quản lý phải nhận thức đầy đủ, chính xác, khoa học và giải quyết tốt
các mối quan hệ cốt lõi sau.
2.1. Quan hệ giữa đổi mới và kiên định
Như trên đã phân tích, đổi mới
là xu thế tất yếu. Đổi mới để phát triển và phát triển phải đổi mới. Trong đó đổi
mới phương thức lãnh đạo, đổi mới tư duy lãnh đạo, đổi mới tư duy kinh tế và vận
hành xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, đổi mới nội dung hoạt động của các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội và các chủ thể quản lý xã hội nói
chung, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, vì nhân dân. Tuy nhiên, đổi mới
không đồng nghĩa với “đổi thay” theo kiểu “ngẫu hứng” hay “sáng nắng chiều
mưa”. Nói cách khác, đổi mới cần gắn với mục tiêu và kiên định chủ trương, đường
lối để tránh sa vào “tả khuynh” nóng vội hay “nóng đâu phủi đấy”. Không phải ngẫu
nhiên mà trong bài viết có tiêu đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã đặt vấn đề: “Phải chăng những
mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và
cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân
ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”. Tổng Bí thư tiếp tục
nhấn mạnh: “Và điều hết sức quan trọng là
phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và
quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những
người cách mạng theo đuổi và thực hiện”[5].
2.2. Quan hệ giữa phát triển xã hội và
giải quyết các vấn đề xã hội
Như trên đã đề cập, một trong
những nội dung/lĩnh vực mà quản lý phát triển xã hội cần phải thực hiện/giải
quyết đó là các vấn đề xã hội nảy sinh. Vấn đề xã hội là hệ quả của quá trình
phát triển và biến đổi xã hội. Trong quá trình phát triển và chuyển biến xã hội,
tất yếu xuất hiện sự mất cân đối trong chức năng, kết cấu và mất cân bằng của một
số bộ phận và thành tố xã hội. Nói cách khác, một vài chức năng nào đó trong hệ
thống xã hội bị suy giảm, bị triệt tiêu hay bị chuyển hóa thường gây nên mất
cân bằng trong kết cấu xã hội; mất đi sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận,
thành tố trong hệ thống xã hội, từ đó làm nảy sinh các vấn đề xã hội[6].
Trong các giai đoạn phát triển
mà đặc biệt là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, đất nước “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi
mới”[7].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả to lớn ấy còn nhiều vấn đề bất cập, vướng mắc,
nảy sinh cần được nhìn nhận, nắm bắt, giải quyết. Trong đó, quản lý phát triển
xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa kết
hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế quản
lý xã hội còn nhiều hạn chế, tình trạng gia tăng tôi phạm, tệ nạn, tiêu cực,
mâu thuẫn, xung đột xã hội,... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc
trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để
xử lý vấn đề phân hóa giàu nghèo, giai tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm
soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội[8].
Như vậy, một trong những nội
dung và cũng là nhiệm vụ của quản lý phát triển xã hội là xử lý mối quan hệ giữa
phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh một cách kịp thời, hiệu quả.
Theo đó, người quản lý xã hội phải có tư duy khoa học, tư duy hệ thống trong hoạt
động lãnh đạo, quản lý. Chí ít là nhận thức đúng, đầy đủ về “tính đa diện” và
“tính phức tạp” của vấn đề xã hội; tiến hành nắm bắt, phân loại vấn đề xã hội để
thấy những quan hệ tương hỗ giữa các vấn đề xã hội và các nhân tố xã hội khác
trong xã hội, qua đó chúng ta có thể tìm kiếm một nền tảng nhận thức quan trọng
để đưa ra các chính sách, giải pháp tương ứng nhằm giải quyết vấn đề xã hội một
cách đúng đắn, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, từng đặc trưng,
tính chất xã hội của mỗi vùng miền, địa phương.
2.3. Quan hệ giữa phát triển xã hội với
giải quyết việc làm, thu nhập, an sinh xã hội
Mạng lưới an sinh xã hội nói
chung, vấn đề việc làm, thu nhập cho nhân dân là nhiệm vụ xuyên suốt trong quản
lý phát triển xã hội. Điều cần nhấn mạnh là, không phải lúc nào yếu tố “tăng
trưởng” cũng song hành với “thu nhập” và “việc làm” của người lao động. Nói
cách khác, đây là mối quan hệ vừa có tính tương hỗ (khi xã hội phát triển thường
tạo ra cơ hội việc làm và thu nhập cho người dân và người dân có việc làm, thu
nhập ổn định là điều kiện để thúc đẩy xã hội phát triển) nhưng vừa có tính xung
đột (nếu phát triển không hài hòa, toàn diện sẽ khiến cho một số địa phương,
lĩnh vực có nhiều cơ hội việc làm, thu nhập người lao động cao nhưng cơ nơi lại
diễn ra tình trạng thất nghiệm, mất sinh kế,...). Chính lẽ đó, trong quản lý
phát triển xã hội đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, quản lý cần phải nắm bắt quan điểm
phát triển toàn diện, hệ thống. Không thể nói xã hội phát triển khi mà sinh kế
của người dân bị đe dọa, khi mà tình trạng thất nghiệp còn gia tăng (kể cả cục
diện, phạm vi hẹp), mạng lưới an sinh xã hội chưa được đảm bảo.
3. Vận dụng của Đảng ta nhằm phát triển
xã hội theo hướng toàn diện, hài hòa, bền vững
Trong Báo cáo Chính trị Đại hội
XI của Đảng, tuy chưa sử dụng khái niệm phát triển xã hội những cũng đã đề cập
đến 4 lĩnh vực có liên quan đến nội dung của quản lý phát triển xã hội như
chính sách lao động việc làm, chính sách bảo đảm an sinh xã hội, chính sách
chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách đấu tranh phòng chống có hiệu quả các loại
tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra 4 định
hướng lớn trong lĩnh vực chính sách xã hội và an sinh xã hội, dựa trên cơ sở lý
luận về chức năng, cấu trúc, các trụ cột,... của mô hình quản lý phát triển xã hội: (1) Giải quyết vấn đề lao động,
việc làm, thu nhập cho người lao động và đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều
bền vững. (2) Tiếp tục phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm. (3)
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội. Bốn là, bảo đảm cung
cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu, mức tối thiểu về thu nhập và các dịch
vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo
dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin[9].
Trong Báo cáo chính trị Đại hội
XIII của Đảng đề ra mục tiêu tổng quát và
xác định mục tiêu cụ thể, đưa ra những
định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021 - 2030 bao gồm 12 định hướng tổng quát về các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó có một số định hướng thuộc nội dung của phát triển xã hội là: (1)
Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài; (2) Phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; (3) Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, không ngừng
cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; (4) Về quyền làm chủ và vai trò chủ
thể của nhân dân[10].
3.1. Chủ trương quản lý phát triển an
sinh xã hội, giảm nghèo bền vững
Nghị quyết Đại hội XIII vạch
rõ: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả,
nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn
minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số
với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc
làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải
thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[11].
Như vậy, an sinh xã hội và quản lý phát triển các vấn đề, nội dung về an sinh
xã hội được đề cập xuyên suốt trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng ta,
theo đó, Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục xác
định đây là một lĩnh vực quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Những nội dung liên quan đến quản lý phát
triển an sinh xã hội được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng là:
Thứ nhất, xây dựng
các chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp, nâng cao chất
lượng cuộc sống người dân, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển.
Thực tế đã chứng minh, không thể có an sinh xã hội và phúc lợi xã hội
đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế thiếu hụt, hệ thống chính sách xã hội thiếu bền
vững và phát triển không phù hợp. Ngược lại, không thể có một nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội chưa xây dựng được hệ thống
chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp.
Thứ
hai, hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp và chính sách đối
với người có công. Pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng bên cạnh tính
chính trị, kinh tế, xã hội còn mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống
đạo lý tốt đẹp của dân tộc, giáo dục ý thức cho thế hệ trẻ. Làm tốt chính sách
đối với người có công sẽ góp phần vào sự ổn định xã hội, giữ vững thể chế, góp
phần từng bước nâng cao đời sống người có công và thân nhân của họ. Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ phải hoàn thiện và thực hiện tốt
luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà
nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá
trở lên trong địa bàn cư trú.
Thứ ba, cải
cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả
sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến an sinh xã hội và các cân đối lớn
của nền kinh tế, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương. Trả
lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội.
Thứ tư, chú
trọng nâng cao phúc lợi, an sinh xã hội; tiếp tục bảo đảm những
nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân; đổi mới chính sách lao động, việc làm.
Nhận thức, quan điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống an sin xã hội và
phúc lợi xã hội được hoàn thiện dần qua các kỳ Đại hội của Đảng. Theo đó, chính
sách bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã mang
lại những thành công lớn, nhất là trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh diễn biến
phức tạp. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Giảm
nghèo nhanh, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Hệ thống tổ chức y tế được kiện
toàn, năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện. Thời gian qua, với sự
tham gia của khu vực tư nhân trong cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, đã có sự
cạnh tranh về chất lượng khám chữa bệnh và nhân lực chất lượng cao. Các cơ sở y
tế, giáo dục tăng cường đầu tư thiết bị máy móc, nâng cao chất lượng phục vụ.
Ngành giáo dục cũng đang chứng kiến sự thay đổi lớn về chất, chuyển dịch theo
hướng tích cực. Giáo dục vùng sâu, vùng xa và giáo dục mầm non được quan tâm đầu
tư. Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học đã bám sát nhu cầu thực tế, từng bước
nâng cao chất lượng. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp
của Việt Nam có nhiều đổi mới trong cách tiếp cận và triển khai các chương
trình bao phủ bảo hiểm.
3.2. Chủ trương quản lý phát triển
môi trường bền vững
Quán triệt tinh thần quản
lý phát triển xã hội, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra một số chỉ tiêu
chủ yếu về môi trường[12]
là đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Cụ thể: Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý
đạt 98%; trong đó riêng tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%; tỷ lệ khu
công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập
trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%; tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải
rắn sinh hoạt đạt trên 65%[13].
Với quan điểm phát triển “nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, quản lý phát triển lĩnh vực môi trường cần sự
nhận thức đúng đắn của toàn hệ thống chính trị và từng người dân. Trên thực tế,
tình trạng ô nhiễm môi trường với rất nhiều những biểu hiện khác nhau, vị trí
khác nhau như các khu công nghiệp, khu chế xuất, các làng nghề, các tổ chức, hộ
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... ngày càng phổ biến, thậm chí rất nghiêm trọng ở
các đô thị, các khu dân cư, các con sông, bờ biển, ruộng đồng...Tình trạng này
là nguồn cơn của các xung đột môi trường, xung đột xã hội, mâu thuẫn nội bộ
ngày càng phổ biến và gay gắt. Nếu không ngăn chặn, hòa giải, xử lý dứt điểm
các hiện tượng xung đột môi trường ngay từ cơ sở sẽ diễn ra các “điểm nóng” và
lan tỏa nhiều nơi. Do vậy, các cấp ủy, các cấp chính quyền, các đoàn thể chính
trị - xã hội cần phát hiện kịp thời, phản ánh, xử lý dứt điểm ngay từ cơ sở,
ngăn chặn nguy cơ từ vấn đề môi trường phát triển thành vấn đề ảnh hưởng đến an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần thực hiện chủ trương lớn của
Đảng về vấn đề môi trường.
3.3. Chủ trương quản lý phát triển
giáo dục-đào tạo
Nghị quyết Đại hội XIII đưa ra
nhiệm vụ về giáo dục: “Tạo đột phá trong
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng
dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng,
lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt
lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”[14].
Với quan điểm phát triển, Đại hội XIII đã xem phát triển giáo dục là “nhiệm vụ
đột phá” và được cụ thể trong một số nội dung sau: (1) Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ
trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
là động lực then chốt để phát triển đất nước; (2) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân, đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học, tạo tiền đề
và bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân có cơ hội được thụ hưởng công bằng
thành quả của nền giáo dục; (3) Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát
triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo; (4) Hoàn thiện cơ chế, chính
sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo, cùng với đề cao vị trí, vai
trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt; (5) Nhà nước tiếp tục
tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo gắn với đổi mới cơ chế, chính sách để nâng
cao hiệu quả đầu tư, hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục và đào tạo đúng hướng, hiệu quả. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc
gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của
thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.
Trong đó, các “đột phá chiến
lược” mà Đảng ta xác định thì phát triển giáo dục, nguồn nhân lực được xác định
là một mũi đột phá quan trọng: “Phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở
nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục,
đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo;
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị
văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[15].
Tóm lại, nhìn xuyên suốt chiều dài phát triển của đất nước
mà điểm nhấn là Đại hội XI với “quan điểm phát triển” gắn với công cuộc đổi mới
toàn diện trên các lĩnh vực mà điểm sáng là lĩnh vực kinh tế-xã hội, chúng ta
không khó để nhận ra sự “liền mạch” trong nhận thức và hành động của Đảng ta
trong định hướng, quan điểm về mục tiêu phát triển đất nước. Dưới góc nhìn “quản
lý phát triển xã hội” chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vấn đề này. Phát triển
phải dựa trên những nguyên tắc và giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa đổi mới và kiên định (đổi mới nhưng
không từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội), giữa
kinh tế và môi trường, xã hội (tăng trưởng kinh tế nhưng không đánh đổi môi
trường và bất bình đẳng xã hội), giữa kế
thừa và phát triển (kế thừa các quan điểm, thành quả của các giai đoạn trước
và tiếp tục phát triển để phù hợp với tình hình mới), giữa thực tiễn và lý luận
(đổi mới nhưng không mù quán, chủ quan, nóng vội mà phải gắn với yêu cầu và nhiệm
vụ thực tiễn).
Với tinh thần, rõ ràng Nghị
quyết Đại hội XIII đã kế thừa và phát triển và nhiệm và mục tiêu “quản lý phát
triển xã hội” trong tình hình mới. Quản lý phát triển xã hội là nhiệm vụ rất
quan trọng, thường xuyên nhưng phải nhấn mạnh đến tính “hiệu quả” và “nghiêm
minh” – gắn kết nhiệm vụ “an ninh xã hội” với “an ninh con người”, tiến bộ và
công bằng, phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Trong đó, vấn đề lao động, việc
làm và thu nhập được đề cập như một nhiệm vụ vừa có tính trước mắt vừa có tính
lâu dài, vừa đảm bảo vai trò định hướng trong lãnh đạo quản lý, vừa thể hiện
vai trò của Đảng, Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội trong điều kiện và
tình hình mới.
Tài liệu
tham khảo chính
1. Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc
gia sự thật, H.2021.
2.
Lê Văn Định, Một số vấn đề về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong cộng
đồng ngư dân vùng duyên hải Miền Trung hiện nay, Nxb. Lao động,
3.
Phạm Đi, Vấn đề xã hội – Lý thuyết và vận dụng, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, H.2018.
4.
Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên
trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2016.
5.
Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
6.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Viện Xã hội học và Phát triển, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Những vấn đề mới về quản lý phát triển xã hội
từ văn kiện Đại hội lần thứ XIII”.
[1] Tại Việt Nam, Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (7-1994) đã thông qua đường lối công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta xác định: Trong quá trình phát triển
đất nước theo định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phương tiện,
phương thức để đạt đến mục tiêu vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp, vì sự
giải phóng và phát triển toàn diện của con người. Hiện nay, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được xác định là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của toàn Đảng,
toàn dân; là con đường duy nhất để “rút ngắn” quá trình phát triển, tránh nguy
cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước trên thế giới. Là một nước còn nghèo với
kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam
là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN để
rút ngắn khoảng cách tụt hậu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chắc chắn là mục tiêu mà Việt Nam tiếp
tục phải theo đuổi, vì đó là con đường để đưa nền kinh tế thoát khỏi bẫy thu nhập
trung bình để vươn lên.
[2] Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo
trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 24.
[3] Lê Văn Định, Một số vấn đề về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong cộng
đồng ngư dân vùng duyên hải Miền Trung hiện nay, Nxb. Lao động, H.2018,
tr.20-21
[4] Phạm Đi, Vấn đề xã hội – Lý thuyết và vận dụng, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, H.2018, tr.74-135.
[5] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tham kiến tại địa chỉ: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam
[6] Phạm Đi, Vấn đề xã hội – Lý thuyết và vận dụng, Nxb. Chính trị quốc gia sự
thật, H.2018, tr.8.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.25.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.85
[9] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xã hội học và Phát triển,
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Những vấn đề mới
về quản lý phát triển xã hội từ văn kiện Đại hội lần thứ XIII”, H. 202,
tr.21
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr114-120.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.330
[12] Điều thú vị là, chỉ tính trong nội dung của
Nghị quyết Đại hội XIII (khoảng 11 trang giấy và 5889 từ) đã có đến 9 chữ “bền
vững” và 20 chữ “môi trường”.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.276.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.329.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, tr.338.
Nhận xét
Đăng nhận xét