VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI, PHÂN HÓA XÃ HỘI Ở MIỀN TRUNG
VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI, PHÂN HÓA XÃ HỘI Ở MIỀN
TRUNG
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC
TẾ
Social stratification in Central region in the
context of international integration
Tóm tắt:
Sau 30 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn về mọi
mặt. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng đã bộc lộc một số hạn chế trong nhận thức các
vấn đề xã hội nói chung, giải quyết vấn đề phân tầng xã hội nói riêng. Do đó, vấn
đề phân tầng xã hội cần phải được nghiên cứu tỉ mỉ để có cách nhìn nhận, nắm bắt
những xu thế và hướng diễn biến của nó, từ đó có những biện pháp khoa học nhằm
từng bước giải quyết hiện tượng phần tầng xã hội (theo hướng không hợp thức),
hướng đến một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và hài hòa lợi ích giữa các
nhóm xã hội. Bài viết chủ yếu phân tích thực trạng phân tầng xã hội về thu nhập
và chi tiêu ở khu vực miền Trung của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
từ đó tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục hiện tượng phân tầng bất hợp thức của
khu vực này trong thời gian đến.
Abstract:
After 30 years of Renovation, my country
has recorded great achievements in many aspects. However, there are some
drawbacks in awareness of social problems in general and solving social
stratification in particular. Therefore, the issue of social stratification
need to be analyzed seriously to grasp its trend. This is the scientific base
to solve illegal social stratification step by step toward to a democratic,
justice and civilized country and harmony of interest between social groups.
This article analyze mainly the fact of social stratification in the aspect of
incomes and spending in Vietnam’s Central region in the context of
international integration to find out the causes and propose solutions for
dealing this issue in coming time.
I.
Vài
nét về khái niệm phân tầng xã hội (PTXH), vấn đề PTXH trong bối cảnh hội nhập
quốc tế
Phân tầng xã hội (social stratification) là một khái niệm
tương đối rộng. Tùy theo cách thức tiếp cận mà PTXH cũng được hiểu theo những
nghĩa có nội hàm không đồng nhất nhau. Theo nhiều nhà xã hội học Việt Nam, “Phân tầng xã hội là sự phân chia, sự sắp xếp
và hình thành cấu trúc gồm các tầng xã hội (bao gồm cả sự phân loại, xếp hạng).
Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền
lực, địa vị xã hội hay uy tín cũng như sự khác nhau về trình độ học vấn, loại
nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt, cách ăn mặc, kiểu nhà ở, nơi cư trú, thị hiếu
nghệ thuật, trình độ tiêu dùng,…”[1].
Như vậy, PTXH cần được hiểu là một khái niệm hết sức rộng với
với hai
dạng thức, ba tính chất, ba chiều cạnh và ba đặc trưng cơ bản. Hai dạng
thức chính là “PTXH hợp thức” và “PTXH không hợp thức”. Ba tính chất đó là:
tính chất “động”, “mở” và “tính lịch sử”; ba chiều cạnh đó là kinh tế (hay tài
sản), địa vị chính trị (hay quyền lực), địa vị xã hội (hay uy tín) (xem sơ đồ
1) và ba đặt trưng gồm: thứ nhất, PTXH là sự phân hóa, sự sắp xếp các cá nhân
thành những tầng lớp, thang bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội (trong hệ thống
phân chia thành những tầng lớp cao và những tầng lớp thấp,…); thứ hai, PTXH
luôn gắn với hiện tượng bất bình đẳng xã hội và sự phân công lao động xã hội.
Nói cách khác, bất bình đẳng xã hội, phân công lao động xã hội là những nguyên
nhân chủ yếu hình thành nên PTXH; thứ ba, phân tầng xã hội có tính chất lịch sử
và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, song nó không phải là bất biến
mà có thể có những sự thay đổi nhất định (sự di chuyển từ tầng lớp này sang tầng
lớp khác trong cơ cấu xã hội hoặc trong từng nội bộ của từng tầng lớp riêng biệt).
![]() |
Sơ đồ 1: PTXH và tính chất, đặc trưng, dạng
thức, chiều cạnh của nó
Sau 30 năm đổi mới và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,… đất
nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng
đã bộc lộc một số hạn chế, vướng mắc trong nhìn nhận, giải quyết các vấn đề xã
hội nói chung, giải quyết vấn đề phân tầng xã hội nói riêng. Theo nhận định của
Trung ương Đảng thì: “Phân hóa giàu nghèo
có xu hướng gia tăng; phân tầng xã hội theo xu hướng không hợp thức diễn biến
phức tạp. Quản lý xã hội còn nhiều bất cập, lúng túng, chồng chéo, thiếu hiệu
quả; tiêu cực, tệ nạn xã hội, tai nạn xã hội, tội phạm xã hội có xu hướng gia
tăng”[2].
Song song với nó là “Giảm nghèo thiếu bền
vững. Chưa hình thành cơ chế đồng bộ về giảm nghèo đa chiều, đa mục tiêu. Nhiều
chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo chồng chéo với các chính sách khác. Đời
sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn,…”[3],
“Bất bình đẳng xã hội về thu nhập, giáo dục,
y tế, văn hóa, an sinh xã hội,… chậm được khắc phục”[4].
Như vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay thì vấn
đề phân tầng xã hội cần phải được nghiên cứu tỉ mỉ để có cách nhìn nhận, nắm bắt
những xu thế và hướng diễn biến của nó, từ đó có những biện pháp tích cực, đúng
lúc, đúng đối tượng; đồng thời đưa ra hệ thống chính sách tương ứng một cách
khoa học, đúng trọng điểm nhằm từng bước giải quyết các vấn đề xã hội nói
chung, giải quyết hiện tượng phần tầng xã hội (theo hướng không hợp thức) nói
riêng, hướng đến một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và hài hòa lợi ích giữa
các nhóm xã hội.
II.Phân tầng xã hội ở miền Trung trong bối cảnh hội nhập quốc tế[5]
Khi nghiên cứu hiện tượng PTXH không thể không đề cập đến các
nguyên nhân nảy sinh ra nó. Hiện tại, nhiều học giả cho rằng có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến PTXH, trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân chính sau:
Sự chấp nhận nền kinh tế thị trường mà cụ thể cải cách thể chế kinh tế là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến PTXH; các chính sách điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ
cấu nghề nghiệp; sự hội nhập kinh tế tế giới và xu thế toàn cầu hóa; tác động từ
những chính sách của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội…;
sự thay đổi trong chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập của Nhà nước;
sự phát triển mất cân đối vùng miền, nông thôn-đô thị làm gia tăng hiện tượng
PTXH,…
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực miền Trung
vừa chịu ảnh hưởng tích cực vừa chịu những chi phối tiêu cực trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Về khía cạnh tích cực, đời sống vật chất và
tinh thần của các tầng lớp nhân dân từng bước được nâng lên, thu nhập được cải
thiện đáng kể, mức hưởng thụ các dịch vụ xã hội, an sinh xã hội không ngừng được
cải thiện; tình trạng nghèo đói cùng cực được đẩy lùi, tỷ lệ nghèo giảm đi rõ rệt
[6] , nhất là đối với các huyện
nghèo, xã nghèo, người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc xã biên giới, bản
đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo. Cùng với thu nhập ngày được
nâng cao và mức thu của đa số người dân được cải thiện thì mức chi tiêu, tỷ lệ
chi tiêu/thu nhập và cơ cấu chi tiêu của các nhóm xã hội cũng được cải thiện
đáng kể (cả về lượng, chất, cơ cấu)[7]. Sở hữu tài sản có giá trị
và nhà ở cũng có mức tăng lên đáng kể [8] .
Thế nhưng, song song với những thành tựu đạt được, một số vấn
đề nảy sinh về phân tầng xã hội cũng đã và đang diễn biến có xu hướng tiêu cực,
ít nhiều tác động đến tâm lý, tư tưởng, niềm tin của xã hội về công bằng xã hội,
tạo ra tâm lý bi quan đối với một số nhóm xã hội, nhất là nhóm yếu thế. Trong
khuôn khổ của bài viết, chúng tôi muốn đi vào phân tích một số chiều cạnh của
PTXH về khía cạnh kinh tế (tài sản) thông qua ba phương diện đó là PTXH về thu
nhập, chi tiêu và sở hữu tài sản có giá trị để làm sáng tỏ vấn đề.
2.1. Phân
tầng xã hội về thu nhập ở miền Trung
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, do nhận thức đúng đắn về tính tất yếu, mục tiêu, bản chất,
đặc trưng, cấu trúc, thể chế và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ
áp dụng cơ chế thị trường tiến đến phát triển kinh tế thị trường, đưa quan niệm
và từng bước cụ thể hóa mô hình và thể chế kinh tế thị trường vào điều kiện của
nước ta, do đó đã từng bước giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản
xuất, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ; nâng cao đời sống nhân
dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng.
Mức sống của các tầng lớp dân cư trong những năm vừa qua ở cả
thành thị và nông thôn, các vùng miền trên phạm vi cả nước tiếp tục được cải
thiện. Thu nhập bình quân đầu người một tháng chung cả nước theo giá cả hiện
hành có xu hướng tăng mạnh qua các năm (xem số liệu bảng 1). Trong đó, đối với
khu vực Bắc trung bộ và duyên hải nam trung Bộ (sau đây gọi là khu vực miền
Trung)[9] thu nhập bình quân đầu người/tháng
năm 2014 so với 2006 tăng gấp 4,16 lần.
Bảng 1: Thu nhập
bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân theo các vùng và nội vùng
Bắc Trung bộ và duyên hải nam trung Bộ[10]
Đvt: Nghìn đồng
|
2006 |
2008 |
2010 |
2012 |
2014 |
Cả nước |
636 |
995 |
1387 |
2000 |
2640 |
Trong đó, chia theo các vùng: |
|
|
|
|
|
Đồng bằng sông Hồng |
666 |
1065 |
1580 |
2351 |
3278 |
Trung du và miền núi phía Bắc |
442 |
657 |
905 |
1258 |
1613 |
Bắc trung bộ và DHMT |
476 |
728 |
1018 |
1505 |
1982 |
Tây Nguyên |
522 |
795 |
1088 |
1643 |
2008 |
Đông Nam bộ |
1146 |
1773 |
2304 |
3173 |
4124 |
ĐBSCL |
628 |
940 |
1247 |
1797 |
2326 |
Số liệu bảng 1 cho thấy, đối với các tỉnh khu vực miền Trung,
thu nhập bình quân đầu người tăng đều và khá qua các năm từ 2006 đến 2014. Nếu
không đề cập đến các yếu tố về mức chênh lệch giá cả, lạm phát,… thì có thể khẳng
định rằng, mức sống nói chung của người dân trong khu vực đã được nâng lên đáng
kể.
Số liệu thống kê trên cũng cho thấy, phân phối thu nhập bình
quân không đồng đều giữa các vùng và khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa
các vùng, các tầng lớp dân cư có xu hướng tăng lên qua các năm. Sự khác nhau này
phản ánh trong thu nhập giữa các nhóm dân cư là thể hiện sự tác động của những
điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội đến phân tầng xã hội, phân hóa
giàu nghèo, và trên bình diện nào đó mà nói đã phản ánh mức độ phân tầng xã hội
trên thực tế.
Dễ nhận thấy rằng, vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là
hai khu vực có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất nước (từ năm 2006 đến
năm 2014 đều cao hơn nhiều so với mức bình quân chung cả nước). Khu vực Bắc
trung Bộ và DHMT khá thấp (chỉ cao hơn vùng Trung du và miền núi phía Bắc). Như
vậy, có thể khẳng định rằng, nếu lấy biến số thu nhập (bình quân đầu người/tháng)
làm căn cứ như một biến phụ thuộc (mà không có biến số trung gian hoặc biến số
cùng tác động) thì hiện tượng PTXH đã và đang tồn tại một cách phổ biến trên phạm
vi toàn quốc cũng như trong khu vực miền Trung.
Để làm rõ hơn mức độ PTXH giữa các nhóm về thu nhập, chúng ta
xem xét khoảng cách thu nhập giữa nhóm thu nhập thấp nhất và thu nhập cao nhất
trong vùng cũng như trong từng địa phương. Số liệu thống kê bảng 2 cho thấy, hệ
số chênh lệch thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp
nhất là 7,8 lần. Hệ số chênh lệch về thu nhập này đã cho thấy phần nào bức
tranh về PTXH thu nhập của khu vực miền Trung. Công bằng mà nói, sự chênh lệch
này đã thể hiện sự phân tầng nhưng không quá cao. Nói cách khác chưa phải là
cách biệt quá lớn giữa nhóm thu nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất để tạo nên
mâu thuẫn về lợi ích, thậm chí sự chênh lệch này còn đang là động lực thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, trong trường hợp này, cần phải khuyến
khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, nhằm giữ khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội về thu nhập trong
giới hạn tối ưu, không để trở thành vấn đề xã hội bức xúc.
Bảng 2: Thu nhập
bình quân đầu người/tháng năm 2014 phân theo 5 nhóm thu nhập (ngũ vị phân)
Đvt: nghìn đồng
|
Bình quân chung |
Nhóm 1 |
Nhóm 2 |
Nhóm 3 |
Nhóm 4 |
Nhóm 5 |
Hệ số chênh lệch (lần)[11] |
Toàn Vùng |
1982 |
560 |
1077 |
1593 |
2284 |
4404 |
7,8 |
Thanh Hóa |
1634 |
538 |
942 |
1352 |
1966 |
3388 |
6,2 |
Nghệ An |
1582 |
434 |
726 |
1236 |
1997 |
3532 |
8,1 |
Hà Tĩnh |
1810 |
555 |
968 |
1497 |
2183 |
3862 |
6,0 |
Quảng Bình |
1837 |
518 |
975 |
1528 |
2189 |
3981 |
7,6 |
Quảng Trị |
1673 |
495 |
909 |
1400 |
2068 |
3509 |
7,0 |
Thừa thiên-Huế |
2174 |
718 |
1297 |
1783 |
2397 |
4685 |
6,5 |
Đà Nẵng |
3611 |
1278 |
2065 |
2758 |
3839 |
8217 |
6,4 |
Quảng Nam |
1784 |
565 |
1013 |
1475 |
2189 |
3687 |
6,5 |
Quảng Ngãi |
1618 |
515 |
997 |
1415 |
1966 |
3218 |
6,2 |
Bình Định |
2345 |
785 |
1426 |
1889 |
2538 |
5115 |
6,5 |
Phú Yên |
1979 |
664 |
1185 |
1571 |
2125 |
4326 |
6,5 |
Khánh Hòa |
2669 |
875 |
1483 |
1993 |
2603 |
6399 |
7,3 |
Ninh Thuận |
2331 |
680 |
1200 |
1725 |
2293 |
5768 |
8,4 |
Bình Thuận |
2395 |
937 |
1465 |
1943 |
2599 |
5068 |
5,4 |
Tuy
nhiên, đối với một số địa phương trong vùng, khoảng cách chênh lệch này không
hoàn toàn giống nhau, thậm chí một số tỉnh/thành khoảng cách này tương đối lớn
(như Quảng Bình là 7,6 lần, Nghệ An là 8,1 lần, Ninh Thuận 8,4 lần). Điều này
cho thấy, PTXH về thu nhập là hiện tượng đang tồn tại phổ biến ở các vùng trong
cả nước và các địa phương trong khu vực miền Trung, đáng chú ý, sự chênh lệch về
thu nhập giữa các nhóm có thu nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất lại
không rơi vào địa phương có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao nhất mà rơi
vào các địa phương khác. Đây là chỉ báo cho thấy, vấn đề thu nhập bình quân và
chênh lệch giàu nghèo không phải là biến tương quan. Nói cách khách, sự phát
triển kinh tế-xã hội, nâng cao thu nhập cho người dân nếu gắn liền với chính
sách an sinh xã hội và hướng vào các nhóm yếu thế thì PTXH về thu nhập sẽ được
khắc phục ngay trong từng chính sách và từng bước phát triển.
2.2. Phân
tầng xã hội về chi tiêu ở miền Trung
Chi tiêu mà cụ thể là cơ cấu chi tiêu, thành phần chi tiêu
(chi cho ăn uống hút/chi cho không phải là ăn,uống hút,…. của các nhóm thuộc
các vùng miền khác nhau cũng phản ánh mức độ PTXH. Nói cách khác, PTXH được thể
hiện thông qua các số liệu về chi tiêu.
Về mức chi tiêu bình quân đầu người/tháng của cả nước (tính
theo giá hiện hành) có xu hướng tăng lên đáng kể: năm 2006 là 511.000đ; năm
2008 là 792.000đ; năm 2010 là 1.211.000đ; năm 2012 là 1.603.000đ và năm 2014 là
1.888.000đ. Vùng có mức chi tiêu cao nhất là Đông Nam Bộ (2.282.000đ/người/tháng)
và thấp nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc (1,440.000đ/người/tháng). Nếu
tính riêng ở khu vực miền Trung thì con số tương ứng của mức chi tiêu trên theo
các năm là: 624.000đ; 1.015.000đ; 1.406.000đ, 1.647.000đ[12]. Như vậy, về con số tuyệt
đối mà nói thì mức chi tiêu trên bình diện cả nước cũng như khu vực miền Trung
đều tăng cao qua các năm. Điều đáng lưu ý là cơ cấu chi tiêu đã phản ánh mức sống
của nhân dân trong toàn quốc cũng như trong khu vực miền Trung[13]: Chi tiêu cho đời sống
chiếm tỷ trọng quá cao trong tổng chi tiêu chứng tỏ mức sống nói chung của cư
dân miền Trung còn thấp; chi cho ăn, uống, hút trong cơ cấu chi tiêu cho đời sống
cũng chiếm một tỷ lệ cao (55,30%) là chỉ báo cho thấy mức sống của cư dân trong
khu vực miền Trung còn thấp (xem bảng 3).
Bảng 3: Cơ cấu chi
tiêu bình quân đầu người của cả nước và miền Trung[14]
|
Tổng chi
tiêu |
Chia ra |
|
|
|||
Chi cho đời sống |
Chia ra |
|
|
||||
Chi cho ăn, uống, hút |
Chi không phải ăn, uống, hút |
Chi tiêu khác |
Hệ số chi tiêu 1 (chi cho đời sống/tổng chi tiêu) |
Hệ số chi tiêu 2 (chi cho ăn, uống, hút/chi cho đời sống) |
|||
Cả nước |
1888 |
1763 |
927 |
836 |
125 |
93,37% |
52,58% |
Miền Trung |
1647 |
1537 |
850 |
687 |
110 |
93,32% |
55,30% |
Điều đáng nói là mức chi tiêu cho đời sống giữa các nhóm
(theo ngũ vị phân) của khu vực là mức chênh lệch đáng kể. Theo số liệu của Tổng
cục thống kê, các mức chi tiêu này ở các nhóm thứ tự là: nhóm 1 là 737.000đ;
nhóm 2 là 1.121.000đ; nhóm 3 là 1.407.000đ; nhóm 4 là 1.810.000đ và nhóm 5 là 2.611.000đ/người/tháng.
Đây là chỉ báo cho thấy sự phân tầng về chi tiêu giữa các nhóm thu nhập của khu
vực miền Trung.
Khoảng cách chênh lệch về mức sống và phân hóa giàu nghèo còn
được thể hiện qua số liệu chi tiêu cho đời sống gia đình. Số liệu điều tra thực
chứng cho thấy[15],
mức chi tiêu không phải là ăn, uống hút của nhóm hộ giàu nhất của Vùng gấp 8,2
lần so với nhóm nghèo nhất. Trong đó chi về nhà ở, vệ sinh, điện nước gấp 9,2 lần;
chi cho thiết bị và đồ dùng lâu bền rtong gia đình gấp 7,7 lần; chi cho chăm
sóc sức khỏe và y tế nói chung gấp 4,2 lần; chi cho đi lạu và bưu điện gấp 15,2
lần; chi cho giáo dục và học tập nói chung gấp 6,8 lần; chi cho các hoạt động
giải trí, văn hóa, thể thể gấp 72,4 lần. Đây là những chỉ báo cho thấy có sự
PTXH trong chi tiêu giữa các nhóm và “hố chênh lệch” chi tiêu này ngày một tăng
lên. Sự chênh lệch này phản ánh mức sống, điều kiện sống cũng như mức hưởng thụ
các dịch vụ xã hội, y tế, giáo dục của các nhóm xã hội khác nhau và cho thấy một
xu thế tất yếu về PTXH trong chi tiêu trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện
nay trên bình diện cả nước cũng như ở khu vực miền Trung: Những hộ thuộc nhóm
giàu nhất có điều kiện nhà ở, phương tiện đi lại, đồ dùng trong sinh hoạt tốt
hơn, có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội chất lượng cao và có mức
hưởng thụ văn hóa tinh thần, mức sống cao hơn so với nhóm hộ nghèo.
Hiện tượng PTXH còn thể hiện trong cơ cấu chi tiêu cho đời sống
giữa hộ giàu nhất và hộ nghèo nhất. Đối với những hộ thuộc nhóm nghèo thường cơ
cấu chi tiêu “nặng” ăn, uống, hút và các nhu cầu thiết yếu khác để đảm bảo cuộc
sống. Khi mức sống được cải thiện mà đặt biệt là thu nhập (về con số tuyệt đối)
tăng lên thì nhu cầu chi tiêu cho ăn uống cũng tăng lên (con số tuyệt đối)
nhưng tỷ trọng chi cho đời sống so với chi tiêu chung sẽ có xu hướng giảm đi.
Lúc này các “chi tiêu không phải là ăn, uống, hút” và “chi tiêu khác” (như mua
sắm, nhà ở, đi lại, du lịch, giám dục, văn hóa,…) sẽ chiếm tỷ trọng cao hơn
trong cơ cấu chi tiêu.
Số liệu bảng 4 cho thấy, nhóm hộ khá giả và giàu nhất chi
tiêu nhiều hơn các nhóm còn lại (về con số tuyệt đối). Điều này đều mang tính
“phổ biến” trong phạm vi toàn quốc và trong các vùng miền của cả nước. Trong
đó, vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng là hai vùng có mức chi cho đời sống
bình quân đầu người cao nhất (trong tất cả các nhóm, đặc biệt là nhóm 5). Điều
đáng lưu ý là, nhóm hộ giàu có nhất ở vùng miền Trung có mức chi cho đời sống
thấp nhất so với cùng nhóm ở các vùng còn lại. Thế nhưng, chênh lệch chi tiêu
cho đời sống giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất của Vùng là 4,36 lần. Những
thông số này cho phép nhận định, so với các khu vực khác trong cả nước thì mức
chi tiêu dành cho đời sống của khu vực miền Trung không cao (trên bình diện nào
đó mà nói là mức sống còn thấp), thế nhưng sự lêch lệch về chi tiêu cho đời sống
giữa nhóm cao nhất và thấp nhất vẫn tương đối cao, cho thấy có sự phân hóa
trong mức sống của các nhóm cư dân trong khu vực. Nói cách khác, đối với khu vực
miều Trung, PTXH trong chi tiêu đang là vấn đề hiện hữu và có xu hướng gia
tăng. Nhóm hộ giàu có xu hướng chi tiêu nhiều (về con số tuyệt đối) nhưng tỷ trọng
chi tiêu hướng vào các lĩnh vực “không phải ăn, uống, hút”. Có thể nói, đây là
xu thế đáng mừng và là nhân tố khẳng định sự phát triển kinh tế-xã hội cả nước
cũng như đối với khu vực miền Trung. Tuy vậy, cũng cần có những chính sách hợp
lý để nâng cao thu nhập cho các nhóm cư dân (nhất là nhóm nghèo, yếu thế) để giảm
thiểu sự chênh lệch quá mức về mức sống.
Bảng 4: Chi tiêu cho
đời sống bình quân đầu người/tháng năm 2014 phân theo 5 nhóm thu nhập và theo
vùng[16]
|
Bình quân chung |
Nhóm 1 |
Nhóm 2 |
Nhóm 3 |
Nhóm 4 |
Nhóm 5 |
Cả nước |
1763 |
828 |
1251 |
1581 |
2006 |
3147 |
Theo vùng |
|
|
|
|
|
|
Đồng bằng sông Hồng |
2082 |
1133 |
1505 |
1781 |
2195 |
3787 |
Trung du và miền núi phía Bắc |
1440 |
650 |
884 |
1189 |
1639 |
2834 |
Bắc Trung bộ và DHNTB |
1537 |
737 |
1121 |
1407 |
1810 |
2611 |
Tây Nguyên |
1538 |
556 |
959 |
1415 |
1794 |
2959 |
Đông Nam Bộ |
2282 |
1253 |
1767 |
2149 |
2549 |
3681 |
ĐBSCL |
1484 |
896 |
1162 |
1422 |
1628 |
2309 |
III.
Một số
kiến nghị mang tính giải pháp nhằm giảm thiểu hiện tượng phần tầng xã hội bất hợp
thức ở miền Trung hiện nay
Từ khi đất nước ta bước sang nền kinh tế thị trường mà đặc biệt
là công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng thì vấn
đề PTXH ngày càng diễn ra gay gắt và có nhiều chuyển biến phức tạp, tiêu cực.
Điều này đòi hỏi cần có những cần có những nghiên cứu nghiêm túc, tỉ mỉ, khoa học,
khịp thời để làm rõ những nguyên nhân, những nhân tố tác động từ đó tìm ra những
mặc tích cực, những hạn chế, tiêu cực của PTXH và hậu quả của nó gây ra nhằm từng
bước có định hướng đúng, chính sách đúng nhằm hạn chế tối ta mặt tích cực, hiện
tượng PTXH không hợp thức nhằm góp phần làm lành mạnh hóa xã hội, phát triển xã
hội một cách đúng hướng, hài hòa giữa các vùng miền, các đối tượng.
Từ những phân tích trên cho thấy, PTXH làm cho khoảng cách
giàu nghèo ngày càng doãng ra, khác biệt giữa các nhóm càng dãn rộng và trên một
mức độ nào đó mà nói, bất bình đẳng xã hội
vượt quá mức giới hạn hợp lý dễ dẫn đến phân cực xã hội, gây nên những bất ổn
và rủi ro xã hội. Để hạn chế vấn đề phân tầng xã hội nói chung, vấn đề phân tầng
về thu nhập và chi tiêu ở khu vực miền Trung nói riêng, theo chúng tôi, cần có
những giải pháp sau:
Một là, do điều kiện
đặc thù về lịch sử, địa lý, tự nhiên cũng như các nguồn lực để phát triển, khu
vực miền Trung cần có cơ chế đặc thù về chính sách phát triển kinh tế-xã hội
nói chung, chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo nói riêng để từng bước thoát
nghèo và vươn lên làm giàu. Trong đó, cần chú trọng đến việc hoàn thiện chính
sách phân phối và phân phối lại các nguồn lực xã hội, kết hợp và lồng ghéo các
chính sách và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, giảm nghèo bền vững,
Chương trình nông thôn mới, Chương trình 30a, Chương trình bãi ngang ven biển,…Từ
đó, tạo điều kiện để các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo, xã vùng sâu, vùng xa,
xã thuộc vùng hải đảo phát huy các điều kiện của mình để nâng cao thu nhập, giảm
khoản cách chênh lệch giàu nghèo.
Hai là, nhanh chóng
hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội và các chính sách liên quan đến giảm nghèo,
tăng cường sự quản lý nhà nước về hoạch định và thực thi các chính sách liên
quan đến giảm nghèo. Thực thế cho thấy, còn thiếu những giải pháp hữu hiệu để
thu hẹp khoảng cách và mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng miền và các địa
phương trung Vùng. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu
quả thấp; sự phối hợp các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ; phân công trách
nhiệm không rõ; thiếu thể chế và thiết chế để tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ,
thống nhất. Công tác thanh tra, kiểm tra thực thi chính sách an sinh xã hội và
giảm nghèo ở nhiều nơi chưa được coi trọng dẫn đến thất thoát trong thực hiện
các chương trình giảm nghèo, gây mất niềm tin trong nhân dân.
Ba là, tạo cơ hội
bình đẳng cho tất cả các tầng lớp dân cư phát triển con người và phát triển
nông thôn. Cộng đồng dân cư miền Trung đã có truyền thống đoàn kết, chịu
thương, chịu khó trong chiến tranh và cần cù trong lao động sản xuất. Do đó,
thiết nghĩ các cấp ủy đảng và chính quyền cần hoàn thiện môi trường pháp lý và thể
chế, tạo cơ hội bình đẳng cho các tầng lớp dân cư được phát huy tiềm năng của
mình, vươn lên làm giàu. Bởi lẽ, không có sự bình đẳng chung chung mà chỉ có sự
bình đẳng trong cơ hội. Đối với người dân miền Trung, đây là cơ hội được tiếp cận
các nguồn lực xã hội, cơ hội được phát huy các tiềm năng vốn có về tự nhiên và
con người của vùng đất này, cơ hội được tiếp cận các chính sách của Đảng và Nhà
nước về an sinh xã hội,…
Bốn là, cần tăng cường
công tác giáo dục, định hướng, tuyên truyền để người dân nhận thức đúng, đầy đủ
về các chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung, các chính sách về an sinh xã
hội và giảm nghèo nói riêng. Thực tế cho thấy, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ
người dân còn tâm lý trông chờ, ỷ lại, phó mặc, thỏa mãn về cuộc sống hiện tại.
Điều này vừa là sức ỳ cho sự phát triển, vừa là nhân tố “níu kéo” một bộ phận
nhân dân rơi vào nhóm nghèo (thậm chí nghèo cùng cực), đây chính là hiện tượng
PTXH bất hợp thức cần được xóa bỏ. Bên cạnh đó, cần phát huy yếu tố dư luận xã
hội; sự thừa nhận, đánh giá và tán thưởng xã hội đối với những người biết làm
giàu, khát vọng làm giàu và làm giàu chính đáng để làm nhân tố tích cực, thúc đẩy
tính tích cực xã hội, phát huy yếu tố PTXH hợp thức.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban
chấp hành Trung ương Đảng, Báo cáo tổng kết
Một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính
trị Quốc gia-Sự thật, H. 2015
2. Nguyễn
Đình Tấn, Cơ cấu xã hội & Phân tầng
xã hội, Nxb Lý luận chính trị. H,2005
3. Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo
trình xã hội học quản lý, Chương trình cao cấp lý luận chính trị, H.2005.
[1]
Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị. H
2005, trang 91, 92.
[2], 2 , 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng, Báo cáo tổng kết
một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb CTQG-ST,
H.2015, trang 114,115.
[5] Như
đã phân tích ở trên, do tính chất “rộng” và “mở” của PTXH, nên trong bài viết
này, tác giả chỉ đi sâu phân tích PTXH từ khía cạnh kinh tế (hay tài sản) gồm
hai bình diện là thu nhập và chi tiêu.
[6]
Theo Tổng cục thống kê, đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm
1,8-2%/năm (từ 7,8% xuống còn 5,8- 6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo
giảm bình quân 5%/năm (từ 38,20% năm 2013 xuống còn 33,20% năm 2014).
[7]
Chi tiêu bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành của cả nước tăng theo
các năm 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014 thứ tự là 397, 511, 792, 1211, 1603,
1888 (đvt: nghìn đồng); trong đó khu vực Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung từ
năm 2008, 2010, 2012 tăng thứ tự là 624, 1015, 1406, 1647 (đvt: nghìn đồng).
Nguồn Cục thống kê, Niên giám thống kê 2014.
[8] Tỷ
lệ hộ có nhà ở theo thứ tự nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố và nhà đơn
sơ trên toàn quốc năm 2014 là: 50,5%, 40,3% , 5,7% và 3,5%; trên phạm vi Bắc
Trung bộ và duyên hải miền Trung lần lược là: 67,3%, 28,3%, 2,50% và 1,9%. Nguồn
Cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2014.
[9] Theo
cách phân chia của Cục thống kê thì khu vực này gồm các tỉnh/thành: Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
[10]
Nguồn: Cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2014
[11] Nguồn:
Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2014. Hệ số chênh lệch giữa nhóm thu
nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất do chính tác giả tính toán.
[12]
Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2014.
[13] Tỷ
trọng chi tiêu cho ăn uống so với tỷ trọng chi tiêu cho đời sống nói chung phản
ánh mức sống của cư dân. Tỷ trọng này càng cao thì mức sống càng thấp và ngược
lại.
[14]
Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2014. Hệ số chênh lệch về chi
tiêu do chính tác giả tính toán.
[15] Số
liệu được khảo sát theo đề tài cấp Nhà nước “Phát triển con người vùng
duyên hải nam trung Bộ hiện nay”, mã số KX.03.20/11-15. Số lượng mẫu
2000 phiếu.
[16]
Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê năm 2014
Nhận xét
Đăng nhận xét