VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CÁC VẤN ĐỀ
XÃ HỘI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
1. Một số khái niệm liên quan
1.1. Vấn đề xã hội
Vấn đề xã hội (hay còn gọi là “bệnh tật xã hội”, “mất cân
bằng xã hội”, “bất thường xã hội”, “vấn nạn xã hội”…) là một hiện tượng biểu
hiện sự mất cân bằng nghiêm trọng hoặc xung đột trong các mối quan hệ giữa con
người và con người, con người và xã hội, con người và tự nhiên. Vấn đề xã hội không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các thành viên trong xã hội; ảnh hưởng
đến sự vận hành bình thường của xã hội, mà còn là một trong những nhân tố gây
nên những trở ngại, tác động và đe dọa đến sự phát triển hài hòa của xã hội.
Vấn đề xã hội là chủ đề quan trọng và là một trong những đối
tượng nghiên cứu của xã hội học. Khi tiến hành nghiên cứu các vấn đề xã hội, xã
hội học nắm bắt những nguyên nhân nảy sinh, những nhân tố tác động, quá trình
hình thành và đưa ra những giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần
xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển bền vững. Chương này chúng tôi sẽ làm
rõ nội hàm của vấn đề xã hội, phân tích các đặc trưng và kiểu loại của các vấn
đề xã hội; giới thiệu một số lý thuyết và cách tiếp cận chủ yếu của xã hội học
khi nghiên cứu các vấn đề xã hội.
Vấn đề xã hội là hệ quả của quá trình phát triển và biến đổi
xã hội. Trong quá trình phát triển và chuyển biến xã hội, tất yếu xuất hiện sự
mất cân đối trong chức năng, kết cấu và mất cân bằng của một số bộ phận và
thành tố xã hội. Nói cách khác, một vài chức năng nào đó trong hệ thống xã hội
bị suy giảm, bị triệt tiêu hay bị chuyển hóa thường gây nên mất cân bằng trong
kết cấu xã hội; mất đi sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận, thành tố trong
hệ thống xã hội, từ đó làm nảy sinh các vấn đề xã hội.
Cần phải hiểu rằng, vấn đề xã hội có tính hai mặt, tức là
vừa tính tiêu cực, vừa có tính tích cực: một mặt, trong quá trình phát triển xã
hội ở một trình độ nhất định và một thời gian nhất định, xuất hiện sự “mất cân
đối tạm thời” trong hệ thống xã hội từ thể chế và kết cấu của nó nhưng, sự mất
cân đối tạm thời này là điều kiện để xã hội tự điều chỉnh và hoàn thiện. Chính
sự tự điều chỉnh và hoàn thiện này làm cho hệ thống xã hội hoàn chỉnh hơn, phát
triển hơn; mặt khác, vấn đề xã hội mang tính chất nghiêm trọng có tác động tiêu
cực và cản trở sự phát triển bình thường của xã hội, thậm chí gây nên những rối
loạn xã hội, bất ổn xã hội. Chính vì thế, khi nghiên cứu các vấn đề xã hội, các
nhà nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc nhận thức nó mà còn cần phải “bốc ra
những toa thuốc” hữu hiệu, phù hợp, kịp thời để “chữa trị” cho các căn bệnh xã
hội, giải quyết các vấn đề xã hội.
Vì tính chất phức tạp của vấn đề xã hội nên các nhà khoa
học, với những cách tiếp cận khác nhau, đã đưa ra những giới định khác nhau,
thậm chí đối lập nhau về nội hàm của vấn đề xã hội. Do đó, “cho đến nay người
ta vẫn chưa nhất trí được về một định nghĩa chính xác của cái tạo nên vấn đề xã
hội, mặc dù cuộc tranh luận về nó đã kéo dài gần 40 năm nay. Những cố gắng đi
đến một định nghĩa xuất phát từ Full/Myer (1941), những người định nghĩa về vấn
đề xã hội như là tình trạng ‘được một số đáng kể những người đánh giá là sự
lệch lạc với những chuẩn mực bắt buộc’ và qua thử nghiệm của Meton (“Bộ phận
cấu thành đầu tiên và làm nền tảng của một vấn đề xã hội nằm trong sự khác biệt
căn bản giữa chuẩn mực được chấp nhận về xã hội và những điều kiện xã hội đang
tồn tại thực tế”, 1971)[1].
Theo các tác giả J. Shepard và H. Voss thì: “Đại bộ phận các
thành viên trong một xã hội và một bộ phận nhân vật có ảnh hưởng đối với xã hội
ấy cho rằng một số tình huống xã hội không lý tưởng, không thể chấp nhận và cần
có sự chú ý của xã hội đồng thời có những biện pháp để cải thiện nó thì đó
chính là vấn đề xã hội”[2].
Như vậy, vấn đề xã hội có hai tầng nghĩa khác nhau. Ở tầng
nghĩa rộng dùng để chỉ toàn bộ những vấn đề liên quan đến đời sống xã hội, có
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các khía cạnh của đời sống xã hội và được
con người quan tâm; ở phạm vi hẹp, dùng để chỉ sự mất cân đối và trạng thái
bệnh tật xã hội, tức là trong quá trình vận hành xã hội, vì một hay nhiều lý do
nào đó mà phát sinh những nhân tố gây nên những trở ngại hay làm mất cân bằng
trong kết cấu xã hội, môi trường xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động sống bình
thường của một bộ phận hoặc toàn bộ xã hội; tác động đến trật tự vốn có của xã
hội, thậm chí uy hiếp đến sự vận hành bình thường của xã hội. Tất nhiên, khi
nói đến vấn đề xã hội tức hàm chỉ đến khía cạnh về tính chất, quy mô, phương
diện tác động của nó đến một xã hội nhất định trong một khoảng thời gian xác
định và phải được nhiều người chú ý, quan tâm.
Tóm lại, từ những
phân tích trên cho thấy, vấn đề xã hội là một hiện tượng xã hội gây nên những
xung đột hoặc mất cân bằng trong các quan hệ xã hội giữa con người với con
người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Khi nghiên cứu các vấn
đề xã hội, nhiệm vụ của chúng ta cần phải làm rõ một số khía cạnh sau[3]:
-
Nghiên cứu nguyên nhân gây nên tình trạng “có vấn đề”
và “có thể có vấn đề”
-
Khảo sát các điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến các vấn đề xã
hội
-
Tìm ra các biến số có tác động (trực tiếp và gián tiếp;
độc lập và trung gian) đến quá trình hình thành các vấn đề xã hội
-
Đưa ra các giải pháp nhằm chấn chỉnh, khắc phục, hạn
chế các vấn đề xã hội.
1.2. Quản lý xã hội
Hiện nay, khi nghiên cứu hoạt động quản lý xã hội nói chung,
nhiều người thường đưa ra và phân biệt các khái niệm liên quan như kiểm soát xã
hội (social control), quản trị xã hội (social governance), quản lý xã hội (social
management). Ở đây, chúng ta chỉ xem xét khía cạnh quản lý xã hội như một hoạt
động có chủ đích của các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước nhằm duy trì
trạng thái bình thường cho xã hội và giúp hệ thống xã hội vận hành theo một
trật tự nhất định, theo một định hướng nhất định.
Mục đích của hoạt động quản lý là nhằm bảo vệ và duy trì
trật tự xã hội. Tuy nhiên, muốn quản lý xã hội tốt thì cần phải dự báo, nắm bắt
các vấn đề xã hội có thể nảy sinh trong quá trình vận hành xã hội, đảm bảo sự
phát triển bình thường của xã hội. Do đó, từ cách tiếp cận xã hội học quản lý,
tác giả Vũ Hào Quang cho rằng: “Quản lý
xã hội là việc quản lý từng khía cạnh hay từng mặt của đời sống xã hội, là việc
quản lý các thiết chế xã hội cũng như xã hội nói chung nhằm duy trì trạng thái
năng động và vận hành hệ thống xã hội một cách bình thường”[4].
Nếu xem xét trong mối tương quan với vấn đề xã hội thì người
quản lý xã hội giống như hoạt động của một bác sĩ mà nhiệm vụ chủ yếu của bác
sĩ này là “khám bệnh” cho cơ thể xã hội, tìm hiểu tình trạng bệnh tật, á bệnh
tật hay khỏe mạnh của xã hội để từ đó đưa ra phác đồ điều trị (hay dự phòng)
các căn bệnh tương ứng. Trong trường hợp này, các vấn đề xã hội chính là tình
trạng sức khỏe của cơ thể xã hội được biểu hiện bằng những triệu chứng “tiền
lâm sàn” hay “lâm sàn”. Cái khó của “bác sĩ xã hội” là không đợi đến “có bệnh”
mới tiến hành khám, mà ở khía cạnh quản lý xã hội mà nói, cần phải tiến hành cả
công tác “dự phòng”. Trong mối tương quan này thì, quản lý xã hội là sự tác động một cách liên tục, có tổ chức, có kế
hoạch và có mục đích của chủ thể quản lý lên các nhóm xã hội theo một qui trình
nhất định nhằm đảm bảo sự phát triển xã hội.
Các nội dung, lĩnh vực cụ thể trong quản lý xã hội rất rộng,
bao trùm lên toàn bộ các thiết chế xã hội, các hoạt động xã hội, các nhóm xã
hội. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, quản lý xã hội là quản lý con người với
các mối quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội và các lợi ích khác nhau, do vậy, đây
là hoạt động khó khăn nhất, phức tạp nhất; quản lý xã hội quyết định đến sự tồn
tại, phát triển của quốc gia, dân tộc, địa phương, cơ quan, tổ chức nên hoạt
động này có tính phổ quát cao; quản lý xã hội là sự điều chỉnh các quan hệ về
lợi ích giữa các chủ thể xã hội nên đây là hoạt động vô cùng nhạy cảm và dễ nảy
sinh ra các vấn đề xã hội nếu lợi ích không hài hòa; quản lý xã hội điều tiết
những mối quan hệ xã hội, vai trò xã hội, chống các hành vi lệch lạc xã hội,
giải quyết các xung đột về lợi ích giữa các nhóm, đây là nhiệm vụ vừa mang tính
lý luận vừa có tính thực tiễn, vừa có tính trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài.
2. Mối quan hệ giữa vấn đề xã hội và quản lý xã hội
Với tư cách là một hiện tượng xã hội mang tính phổ biến, vấn
đề xã hội tác động trực tiếp đến sự vận hành bình thường của cơ thể xã hội,
thậm chí có tác động phát sinh đến các lĩnh vực khác của xã hội. Do đó, một
trong những nhiệm vụ của quản lý xã hội phát hiện một cách kịp thời và đưa ra
những biện pháp thích hợp để giải quyết các vấn đề xã hội đã, đang, sẽ nảy
sinh. Nói cách khác, thực chất của quản lý xã hội là kiểm soát và khống chế các
vấn đề xã hội. Với tư cách là một thiết chế, cơ chế để duy trì trật tự và phát
triển xã hội theo định hướng, hoạt động quản lý xã hội có trách nhiệm dự báo xu
hướng, ngăn chặn và giải quyết các vấn đề xã hội.
Quản lý xã hội, kiểm soát xã hội một cách hợp lý đối với các
vấn đề xã hội thể hiện chủ yếu ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, về
phương diện dự báo các vấn đề xã hội. Thông qua hệ thống chính sách và các công
cụ quản lý, nhà quản lý xã hội sẽ tiến hành kiểm soát và dự báo các vấn đề xã
hội có thể nảy sinh. Dự báo các vấn đề xã hội chủ yếu bằng các phương tiện sau:
một là thông qua các chuẩn tắc, quy phạm xã hội và dư luận xã hội để kiến tạo
những cơ chế định hướng cho xã hội, cung cấp và định hướng cho các thành viên
trong xã hội hệ thống niềm tin, lý tưởng, quan niệm giá trị và phương thức hành
vi phù hợp với giá trị, chuẩn mực xã hội; các định hướng này sẽ là kim chỉ nam
cho hành động, chế ước các hành động lệch lạc, các hành vi vi phạm pháp luật;
giúp cho các cá nhân trong xã hội hành động theo khuôn mẫu xã hội, giúp xã hội
vận hành một cách cân bằng. Hai là, thông qua việc hình thành các kênh giao
tiếp xã hội, giúp cho cá nhân, gia đình, nhóm có một môi trường giao tiếp lành
mạnh, cùng nhau hợp tác, giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột hay đối lập về tư
tưởng. Ba là, xây dựng cơ chế dự báo, cảnh báo, giám sát những nhân tố có thể
làm trở ngại hay tác động đến cơ cấu xã hội, làm mất cân bằng môi trường xã
hội. Bốn là, thông qua các cơ chế chỉnh hợp xã hội nhằm điều tiết và chế ước
các quan hệ xã hội, hóa giải các mâu thuẫn, xung đột xã hội, kiểm soát những
tác động tiêu cực đối với các thành viên xã hội, hạn chế tối đa những vấn đề xã
hội phát sinh. Năm là, tăng cường cơ chế khích lệ, động viên đối với những hành
vi tôn trọng các chuẩn mực, khuôn mẫu xã hội, đồng thời có chế tài nghiêm khắc
đối với những hành vi đi ngược lại với các chuẩn mực xã hội, kịp thời ngăn chặn
các hành vi có thể phát sinh vấn đề xã hội.
Thứ hai, về phương
diện ngăn chặn và khống chế vấn đề xã hội. Khi làm tốt công tác dự báo chắc
chắn sẽ ngăn chặn được một số vấn đề xã hội nảy sinh. Thế nhưng, như trên đã đề
cập, vấn đề xã hội mang tính phổ biến nên nó tồn tại ở khắp mọi nơi, trên nhiều
lĩnh vực, ở những thời điểm khác nhau. Cố nhiên, không phải vì thế mà vấn đề xã
hội không thể không dự báo hay không thể ngăn chặn được. Để ngăn chặn, khống
chế vấn đề xã hội có thể thông qua các biện pháp sau: một là, có thể làm thay
đổi môi trường xã hội hay cơ cấu xã hội có nguy cơ hình thành vấn đề xã hội
tương ứng, làm giảm các áp lực xã hội, triệt tiêu các biểu hiện vấn đề xã hội
“từ trong trứng nước”; Hai là, kiến lập cơ chế phản ứng thích hợp và kịp thời,
nhanh chóng triệt tiêu những tác động tiêu cực đối với môi trường xã hội và cơ
cấu xã hội; kịp thời định hướng tư tưởng, tâm lý của công chúng trước một vấn
đề mới có thể dẫn đến khủng hoảng tinh thần, tâm lý bất mãn…
Thứ ba, về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Có thể thông
qua các biện pháp sau: một là, tiến hành định hướng và dẫn dắt các hành vi của
cộng đồng nhất là các hành vi tập thể (khiếu kiện, khiến nại đông người), không
để các hành vi này trở thành những điểm nóng, có tính đông người. Hai là, thông
qua các biện pháp như thuyết phục, phê bình, cách ly, lắng nghe ý kiến để tìm
cách ngăn chặn hành vi lệch lạc; có thể hóa giải vấn đề bằng cách “thương
lượng” tạm thời hay hiệp thương để đáp ứng một số yêu cầu mà chủ thể mong muốn[5] và hơn
thế nữa, tránh những tác động tiêu cực của vấn đề đối với đời sống xã hội. Bốn
là, thông qua hệ thống pháp luật để giải quyết và xử lý các vấn đề xã hội có
tính chất nghiêm trọng[6], có thể
dùng những chế tài tương ứng và thích hợp đối với các hành vi lệch lạc nghiêm
trọng, vi phạm pháp luật nhằm răn đe và lập lại trật tự xã hội.
3. Đặc điểm tình hình và bối cảnh hiện nay
Trong các văn bản chính
thức của Đảng, Nhà nước cũng như thực tiễn đã xác lập mô hình mục tiêu phát
triển tổng quát của Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh. Trong
đó mục tiêu cốt lõi hướng đến là: con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Song để thực
hiện thành công, một trong những điều kiện tiên quyết là phải tính đến sự quy định
của bối cảnh xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nhận
định. Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn,
thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn
đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc[7].
Qủa thực, thế giới ngày nay đã và đang diễn
ra đồng thời nhiều quá trình vận động, đan xen rất phức tạp, vừa hợp tác vừa
đấu tranh, có ảnh hướng quyết định đến sự phát triển của nhân loại và từng quốc
gia dân tộc, như: biến đổi khí hậu, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, vai trò của
các nước lớn, xung đột tranh chấp lãnh thổ, khủng bố và cách mạng công nghiệp
lần thứ tư…Có thể nói, các quá trình này đã và đang tác động khôn lường, bất
định theo cả hai chiều cạnh: thuận lợi và khó khan, trước mắt và lâu dài đối
với tiến trình đổi mới và phát triển của Việt Nam trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI. Chẳng hạn, thế giới đang bắt đầu đi vào cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư là cơ hội để Việt Nam có bước phát triển mới, tuy nhiên cũng là thách
thức, làm bộc lộ nhiều bất cập khi mà không ít vấn đề chúng ta đang ở trình độ
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai. Rõ ràng, đây là một
khoảng cách khá lớn so với yêu cầu chung cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Hoặc liên quan đến biến đổi khí hậu, dự báo Việt Nam là một trong những quốc
gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu, điều này đặt ra nhiều khó
khăn; song cũng là cơ hội, nếu chúng quyết tâm để thúc đẩy sự phát triển đất
nước với cách thức, mục tiêu phù hợp hơn, hiệu quả và bền vững hơn…
Với 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới để phát triển đất nước, mà nội hàm cụ thể là thực hiện quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa; phát triển kinh tế thị
trường; xây dựng nhà nước pháp quyền; hội nhập quốc tế; đẩy mạnh dân chủ hóa xã
hội; tái cấu trúc nền kinh tế…Trong một chiều cạnh khác, các vấn đề này chính
là nhân tố tác động mạnh mẽ đến nội dung, phương thức, nhiệm vụ và mục
tiêu xây dựng đất nước, xã hội và con người Việt Nam trong toàn bộ tiến trình
đổi mới. Có thể khẳng định Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp
theo. Song, bên cạnh đó, có rất nhiều khó khăn, hạn chế và bất cập đòi hỏi phải
có giải pháp kịp thời, đồng bộ, khoa học và thực hiện quyết liệt nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội: nhanh, hài hòa và bền vững hơn. Chẳng hạn,
chúng ta đang cùng lúc phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt ngân sách và nợ
công, năng suất lao động thấp, tham nhũng, phân tầng xã hội và xung đột xã hội
gia tăng; đồng thời lại phải ứng phó với nhiều khó khăn mới chưa lường trước
được, như: nạn hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt chưa từng có; sự cố ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên...
Việc đề cập nghiên cứu,
phân tích các quá trình mang tính bối cảnh quốc tế và trong nước như vừa nêu có
ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề quản lý xã hội ở Việt Nam. Chẳng hạn, các chủ
thể tham gia quản lý xã hội còn phải đặt trong mối quan hệ tương tác và chịu áp
lực chi phối của bối cảnh quốc tế liên quan đến nhu cầu, trách nhiệm, năng lực
và phẩm chất của các chủ thể quản lý; đến mục tiêu phát triển về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội và môi trường. Từ đó có những căn cứ để giải thích
quy mô rộng lớn, hệ thống và tính chất phức tạp của những biến đổi xã hội, phát
triển xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, đòi hỏi phải có năng lực quản lý xã
hội tốt hơn để phát triển dân tộc và hiện đại hoá xã hội Việt Nam. Hay, bối
cảnh biến đổi khí hậu đặt ra yêu cầu bức
thiết cho hoạt động quản lý xã hội của Việt Nam. Bởi vì, quá trình này đang làm
giảm hoặc mất đi các nguồn lực, điều kiện để phát triển một cách bình thường;
là nguyên nhân gia tăng xung đột xã hội, thúc đẩy biến đổi xã hội theo chiều
hướng tiêu cực, gia tăng nhiều vấn đề xã hội…Do vậy, quá trình biến đổi khí
hậu, suy thoái môi trường ở Việt Nam cần phải trở thành một chủ đề, mục tiêu
quan trọng của quản lý xã hội. Và để đạt được hiệu quả, chúng không thể chỉ
được giải quyết bằng những hành động đơn lẻ, cục bộ.
Từ bối cảnh thế giới và
trong nước đặt ra yêu cầu của hoạt động quản lý xã hội trong điều kiện toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, tức là phải tuân thủ những thông lệ và chuẩn mực quốc
tế; tính tới mối quan hệ và những tác động của thế giới, nhất là các nước lớn
và khu vực ASEAN. Hay, nếu đặt quản lý xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, tức là quản lý xã hội ở Việt Nam phải tính đến việc
tiếp cận, ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học-công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin, sự tích hợp dữ liệu khổng lồ và kết nối chia sẻ thông tin.
Đồng thời, nếu lấy bối cảnh đất nước là
phát triển kinh tế thị trường,
xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế làm nền tảng cốt lõi, rõ ràng Việt Nam cần
phải xây dựng mô hình tổ chức, phương thức quản lý xã hội và
mục tiêu của quản lý xã hội một cách tương thích. Về mặt đường lối định hướng,
những vấn đề này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận diện thông qua việc xác
lập các mục tiêu của phát triển đất nước. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định: (1) Nhận thức sâu sắc vị trí,
tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối
với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (2) Xây dựng, thực hiện các chính sách
phù hợp với các giai tầng xã hội; (3) Có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải
quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn
đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội[8]. Như vậy,
có thể khẳng định, quản lý xã hội tốt tức là góp phần đảm bảo tính định hướng, mục
tiêu xây dựng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn
đề đặt ra là làm thế nào để có thể hiện thực hóa chúng một cách kịp thời, sáng
tạo và hiệu quả nhất.
4. Một số vấn đề đặt ra đối với hoạt động quản lý
- Nghiên
cứu quản lý xã hội ở Việt Nam chủ yếu dừng lại ở việc đưa ra các định hướng vĩ
mô. Trong khi đó, các cấp độ của hoạt động quản
lý xã hội: quản lý biến đổi xã hội, quản lý phát triển xã hội, quản lý các vấn đề xã hội…thường bị tách rời, đơn lẻ, mà chưa
xây dựng được hệ thống lý luận vững chắc, cùng các phạm trù và khái niệm cơ bản cho lĩnh vực xã hội chỉnh thể. Đối
tượng của quản lý xã hội thường bị phân chia, tách rời thành từng vấn đề cụ thể nên không cho phép xem xét các vấn đề xã hội như một chỉnh thể trong sự phát triển.
Đây là điều còn “để ngỏ” và thiếu hụt trong 30 năm đổi mới, đất
nước, do vậy dẫn đến việc điều hành, quản lý xã hội thiếu hiệu quả và chưa đạt
tới tầm vĩ mô của nó. Bên cạnh đó, phương pháp tiếp cận quản lý xã hội theo
hướng tổng thể, hệ thống xã hội chưa được chú trọng.
- Mặc dù đã có những nỗ lực đổi mới tư duy,
tuy nhiên Đảng vẫn chưa nhận thức thực sự rõ ràng về phương thức lãnh đạo của Đảng, về phân định giữa vai trò “lãnh đạo” và “quản
lý” trong thực hiện mục tiêu phát triển xã hội hài hòa, bền vững. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội hướng đến mục tiêu quản lý xã hội
tốt/hiệu quả/hiệu lực còn chưa rõ. Bên cạnh đó, trong các chiến lược và cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước, Đảng chưa xác định được mô hình và phương thức quản lý xã hội cụ thể trong thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa mà trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa ba cơ chế: nhà nước, thị trường và cộng đồng.
Trong thực tế, ba cơ chế này luôn tồn tại một cách chính thức hoặc không chính thức trong mọi mặt đời sống xã hội, nhưng một mô hình kết hợp hài hòa giữa ba cơ chế mới phát huy được tối đa nguồn lực xã hội, hạn chế những tác động tiêu cực, lạc hậu mâu thuẫn…
- Quản lý xã hội vẫn được nhìn nhận chủ yếu vẫn là vai trò của
các cơ quan thuộc quyền lực nhà nước, mang tính chất
chính thức, từ trên xuống dưới, pháp quy và bị động. Trong khi đó, vai trò của cộng đồng tham gia quản lý xã hội, mang tính
chất phi chính thức, từ dưới lên trên, chủ động, tự quản…chưa được chú ý đúng mức.
Chưa nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của việc xây dựng cơ chế quản lý xã hội/cộng đồng hiện đại (nhất là ở thành thị), thay thế cho cơ chế quản lý mang tính làng xã truyền thống. Điều này phần nhiều là hậu quả của việc thiếu mô hình quản lý xã hội có sự kết hợp hài hòa giữa ba cơ chế (Nhà nước, thị trường và cộng đồng).
Cũng như chưa nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của
các thiết chế xã hội trong tổ chức và quản lý xã hội. Trong khi đó, những rào cản của truyền thống vẫn
đang tác động tiêu cực đến hiệu quả quản lý xã hội hiện đại một
cách khá phổ biến…Đây chính là những lý do dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong việc triển khai hệ thống luật pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Bên cạnh đó, do chưa có nhận thức thống nhất về mô hình cụ thể, phát triển xã hội ở Việt Nam đã được ghi nhận ở nhiều khía cạnh/chỉ
báo, nhưng mang tính rời rạc, chắp vá, chứ chưa thực sự là phát triển bền vững, hài hòa của cả hệ thống.
- Quyền tự do dân chủ của người dân nhiều khi chưa được đảm
bảo. Cơ chế giám sát, phản biện chính
sách và hoạt động của Đảng/Nhà
nước chưa hiệu quả, còn nặng về hình thức.
Chưa phát huy hiệu quả vai trò và sự tham gia của các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội thường có xu hướng bị nhà nước hóa, chính trị hóa, hoặc thị trường hóa.
Mặc dù đã có những thay đổi nhất định, tuy nhiên thực tế cho thấy chưa có nhận thức đủ sự về cần thiết phải phát huy chức năng, vai trò của các tổ chức xã hội trong
quản lý xã hội. Chẳng hạn, trạng thái xã hội e ngại đáng kể về sự tham gia quản lý xã hội của các tổ chức xã hội có thể làm ảnh hưởng đến đến sự ổn định xã hội hay ví trí lãnh đạo của Đảng. Điều này cũng tương tự như sự lo ngại về kinh tế tư nhân sẽ chệch hướng chủ nghĩa xã hội như
quan niệm những năm trước đây. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng được cơ chế phù hợp phát huy mọi lực lượng, nguồn lực tham gia quản lý xã hội...
- Mặc dù đã
có nhiều đổi mới, tuy nhiên tư duy và hành động máy móc, sự thiếu linh hoạt trong tổ chức và quản lý xã hội
vẫn đang là một rào cản lớn ở Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, ở tầm vĩ mô, có sự
đồng nhất giữa mục tiêu và phương thức
quản lý xã hội. Ngược lại, ở tầm trung mô và vi mô, hoạt động quản lý xã hội có xu hướng quá nặng về mục tiêu, thành
tích, thi đua, phòng trào,
trong khi những nguyên tắc và đạo lý nhân văn cơ bản không được chú trọng đúng mức. Việc chỉ tập trung vào những động lực bên ngoài (phấn đấu để đạt chỉ tiêu, thành tích, khen thưởng, bằng cấp, chức vụ, thu nhập...)
hơn là những động lực thực chất bên trong, tức là các động lực tinh thần và đạo đức có thể dễ dẫn đến hành vi và ứng xử lệch chuẩn, miễn sao đạt được mục tiêu.
Cơ chế quản lý xã hội tuy đã có một số đổi mới, nhưng vẫn còn những tư duy thời bao cấp (quản lý dân số bằng hộ khẩu, hạn chế quyền công dân…)[9].
- Mặc dù đã có những chuyển biến, tuy nhiên năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu; bộ
máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu, thiếu hiệu quả;
cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao; cải
cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra;
phân cấp chức năng, nhiệm vụ chưa rành mạch giữa các cơ quan Đảng với Nhà nước và doanh nghiệp, giữa trung ương và địa phương. Chất lượng của
một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu[10]...Chính vì vậy,
nhiều vấn đề biến đổi xã hội, phát triển xã hội chưa được nhận diện và đưa vào
đối tượng quản lý xã hội. Các vấn đề xã hội bức xúc vẫn
tồn tại một cách khá phổ biến,
đang có xu hướng gia tăng hoặc mới nảy sinh. Bên cạnh đó, các hành vi sai lệch xã
hội theo chiều hướng tiêu cực, các tình huống bất thường ngày càng xuất hiện
nhiều, để lại hệ quả xã hội nặng nề, trong khi đó các biện pháp ứng phó chưa
kịp thời và hiệu quả.
- Thực tế cho thấy tư tưởng/đường lối, chính sách pháp luật của Đảng,
Nhà nước về quản lý xã hội chưa thực sự “quán triệt” giữa trong một bộ phận tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể
chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các giai tầng xã hội. Trong khi đó, sự phản hồi và phản biện của
các tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể
chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các giai tầng xã hội đối với đường lối, chính sách pháp luật của Đảng,
Nhà nước còn khá hạn chế.
Trong khi đó, các chuẩn mực quốc tế, các thành quả nghiên cứu khoa học liên
quan đến quản lý xã hội trên thế giới …vì nhiều lý do khác nhau vẫn chưa được
tính đến hay áp dụng kịp thời, hiệu quả.
5. Một số nội dung chủ yếu trong quản lý xã hội hiện nay
5.1. Quản lý biến đổi xã hội
Có thể hiểu quản lý biến đổi xã hội là việc sử dụng hệ thống giá trị, chuẩn
mực xã hội, chính sách và các thể chế, thiết chế xã hội…Thông qua đó các chủ
thể tham gia vào hoạt động quản lý biến đổi xã hội. Qúa trình này diễn ra trong
môi trường tương tác xã hội giữa chủ thể thuộc hệ thống chính trị và khu vực
bên ngoài hệ thống chính trị. Chẳng hạn, nhà nước ban hành các quy tắc, quy
định cho biến đổi xã hội; trong khi xã hội xác định rõ lợi ích và hành động tập
thể để thúc đẩy biến đổi xã hội theo hướng tích cực. Như vậy, quản lý biến đổi
xã hội là đem những tác động của thể chế chính sách, của các nhân tố điều kiện
vào đối tượng sao cho đủ sức kích thích tích cực, phát triển đồng thời ngăn
chặn hoặc ít ra cũng làm giảm thiểu mặt tiêu cực, thoái triển[11]. Nếu như vào giữa thế kỷ XIX, A.Comte cho
rằng, biến đổi xã hội là: chắc
chắn xảy ra; sẽ theo một con
đường phát triển; những tiến bộ đương nhiên hướng tới một xã hội tốt hơn. Tuy
nhiên, hiện nay sự đồng nhất biến đổi xã hội với tiến bộ xã hội không còn
đúng nữa. Với sự xuất hiện của quá trình "hiện đại hóa tự phát" của
các xã hội công nghiệp tiên tiến đang ngày càng được đặc trưng bởi sự không
chắc chắn hoặc rủi ro thường xuyên phát sinh. Điều này vẫn còn là một câu hỏi
lớn cho đến khi nào các nhà xã hội học có thể khởi động hoặc kiểm soát một cách
vững chắc sự biến đổi xã hội theo những định hướng mà toàn bộ xã hội mong đợi[12]. Ngày nay quá trình hiện đại hóa là xu hướng thống
lĩnh xã hội đã và đang làm thay đổi thang bậc giá trị, chuẩn mực trong xã hội,
nhiều giá trị và quy tắc được định hướng và xác lập trong quá khứ nhưng không
còn được chấp nhận trong thời kỳ hiện đại và ngược lại. Xã hội Việt Nam đang diễn ra quá trình biến đổi xã
hội nhanh chóng và sự vận động phức tạp khó lường. Điều này đặt ra yêu cầu phải
chuyển đổi mô hình, phương thức quản lý xã hội từ truyền thống sang hiện đại. Để đảm bảo sự biến đổi đúng định hướng cần
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của mọi
giai tầng xã hội một cách chủ động, sáng tạo, dựa trên nền tảng tri thức khoa
học và nhìn thẳng vào sự thật xã hội. Có thể dễ nhận thấy ở cấp độ vi mô, có
nhiều biến đổi tích cực hơn là ở cấp độ trung và vĩ mô; biến đổi xã hội ở tầm
ngắn hạn có nhiều biểu hiện tích cực hơn là nhìn biến đổi xã hội trong chiều
cạnh dài hạn; so sánh sự biến đổi xã hội trước 1986 so với giai đoạn hiện nay
có nhiều thay đổi nhanh chóng, tích cực nhưng so với yêu cầu của thực tiễn và
so với các quốc gia có cùng điều kiện tương tự thì chúng ta lại thấy sự biến
đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn đề[13]. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường các hoạt
động quản lý biến đổi xã hội.
Để tăng cường
tính chủ động, hiệu quả và hiệu lực của quản lý biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện
nay, cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, hoạch định và thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
phải hết sức chú ý tới vấn đề biến đổi xã hội, hướng tới quản lý biến đổi xã
hội. Do biến đổi xã hội luôn có tầm quan trọng chiến lược, làm thay đổi nhận
thức từ chủ thể lãnh đạo, quản lý, có thẩm quyền ra các quyết sách, đường lối
và chính sách. Biến đổi xã hội có ý nghĩa sâu xa và to lớn hơn, ở chỗ, mọi
chính sách phải hướng tới phục vụ lợi ích và phát triển các tiềm năng sáng tạo
của con người, coi con người là mục tiêu và động lực của đổi mới và phát triển,
do đó con người trở thành tiêu điểm của mọi chính sách. Vì vậy, trong hoạt động
quản lý biến đổi xã hội cần chú trọng tới lợi ích và nhu cầu của xã hội. Tức là
chú trọng tới nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất và của phát
triển xã hội nói chung. Muốn vậy, trước hết cần phải có sự thay đổi trong nhận
thức việc hoạch định đường lối của Đảng,
xây dựng và điều chỉnh chính sách, luật pháp, cơ chế quản lý của Nhà nước phải
hướng tới phát triển, theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững.
Hai là, quản lý biến đổi xã
hội được thực hiện đồng bộ bởi hệ thống chính trị và bên ngoài hệ thống chính
trị. Muốn hoạt động quản lý biến đổi xã hội tốt cần đảm bảo các yêu cầu:1)Tầm
nhìn; 2) Những giá trị cốt lõi (mục tiêu); 3) Hành động và chương trình hành
động; 4) Chủ thể tổ chức thực hiện; 5) Lực lượng xã hội tham gia (đó là cộng
đồng xã hội); 6) Những điều kiện thúc đẩy hỗ trợ phát triển; 7) Hiệu ứng xã
hội, hiệu quả, kết quả để thụ hưởng, để tiếp tục tái sinh sự phát triển theo
hướng tiến bộ, tích cực[14].
Ba là, đẩy mạnh việc hoàn thiện các công cụ quản lý biến đổi xã hội phù hợp với
đối tượng chịu sự tác động của biến đổi xã hội. Công cụ tác động tới quản lý
biến đổi xã hội là thể chế, thiết chế, chính sách…Còn đối tượng tiếp nhận biến
đổi, hoặc được thụ hưởng lợi ích từ những biến đổi xã hội tích cực hoặc phải
chịu những thiệt hại từ những biến đổi xã hội tiêu cực là con người, nhóm xã hội,
cộng đồng hoặc toàn bộ xã hội. Một yêu cầu đặt ra để xử lý tốt mối quan hệ này
là cần xem xét những biến đổi xã hội từ phương diện con người - hoạt động và
chính sách là xem xét sự vận động, tác động qua lại giữa chủ thể - đối tượng và
đối tượng - chủ thể[15]. Trên cơ sở đó, tập trung vào xây dựng khuôn khổ
pháp lý để bảo vệ quyền của các nhóm xã hội; phát triển khuôn khổ pháp lý; thúc
đẩy tiếng nói và trách nhiệm giải trình; tiếp cận công lý, bảo trợ xã hội, phát
triển ngành; phân tầng xã
hội, cơ động xã hội, di chuyển dân cư, dịch chuyển lao động...
Bốn là, biến
đổi xã hội theo nghĩa lành mạnh, tích cực không thể không diễn ra tự phát mà
phải được chủ động kiến tạo và phải thực sự là đối tượng của quản lý xã hội. Vì
vậy, quản lý biến đổi xã hội
cần được thực hiện thông qua hệ thống kiểm soát biến đổi xã hội trên tất cả các
cấp độ, lĩnh vực; quản lý sự biến đổi xã hội ở từng thành phần của hệ thống xã
hội và mối quan hệ giữa các thành phần; trong điều kiện bình thường và không
bình thường. Cụ thể, hệ thống kiểm soát biến đổi xã hội bao gồm: hệ thống
kiểm soát biến đổi dân số, biến đổi môi trường tự nhiên, biến đổi về chính trị,
kinh tế, tư tưởng, văn hóa, công nghệ và kỹ thuật, tôn giáo…
Năm là, quản lý biến đổi xã hội là một đòi hỏi tất yếu khách quan, nhằm đưa sự
biến đổi xã hội đi vào quỹ đạo tiến bộ xã hội, tích cực, công bằng. Trong đó
con người được giải phóng được phát triển toàn diện. Trình độ quản lý biến đổi
xã hội phản ánh trình độ phát triển xã hội của một quốc gia dân tộc. Do đó, phải quản lý biến đổi
xã hội dựa trên nguyên tắc vì con người, vì sự phát triển xã hội hài hòa, bền
vững.
Tóm lại, biến đổi xã hội ở Việt Nam sẽ vận động theo hướng tích cực nếu như được
hiện thực hóa thành công những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và
môi trường. Đồng thời, tạo ra được một cơ chế dân chủ để mọi chủ thể trong xã
hội có thể tham gia kiểm soát được quá trình biến đổi xã hội, xây dựng hệ thống
tiêu chí khách quan và toàn diện trong đánh giá biến đổi xã hội. Biến đổi xã
hội chỉ diễn ra theo hướng tích cực nếu như thực hiện được tính toàn diện và
tính đồng bộ, do lực lượng xã hội tiến bộ tác động, cùng với những điều kiện
tích cực cho sự phát triển.
5.2. Quản
lý phát triển xã hội
Tổng kết cho thấy hiện nay trên thế giới có 5 mô hình phát triển xấu, đó là:
1) Tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ xã hội; 2)Tăng trưởng kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa nhưng lại dẫn đến sự tàn lụi của nông
nghiệp và nông thôn; 3) Tăng trưởng kinh tế nhưng quần chúng lao động không có
quyền làm chủ; 4) Tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức suy đồi; 5) Tăng
trưởng kinh tế nhưng môi trường suy thoái, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ[16]. Điều này đặt ra yêu
cầu là cần phải thực hiện tốt quá trình quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam.
Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của
chủ thể quản lý đến các khách thể (con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội,
hoạt động xã hội,...) nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững[17]. Có thể hiểu quản lý phát triển xã hội là sự tác động và tương tác có
định hướng, có tổ chức giữa chủ thể quản lý (Đảng, Nhà nước, tổ chức chính
trị-xã hội; tổ chức xã hội; cộng đồng, người dân) đến khách thể (con người,
nhóm xã hội, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, cấu trúc xã hội,
chức năng xã hội, thiết chế xã hội...) nhằm mục tiêu phát triển xã hội nhanh,
hài hòa và bền vững. Thực chất là quản lý
phát triển xã hội là quản lý xã hội hướng tới sự phát triển, vì các giá trị
con người, do con người. Quản lý phát triển xã hội là nhằm hướng
đến sự tác động tích cực đời sống xã hội, điều tiết các quan hệ xã hội, hoàn
thiện các thiết chế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm cho
con người phát triển toàn diện. Quản lý phát triển xã hội lấy con người làm
điểm xuất phát, dựa trên quyền con người, vì sự giải phóng và phát triển toàn
diện của con người, vì sự phát triển hài hòa và bền vững của xã hội.
Khái niệm “quản
lý phát triển xã hội” lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào Văn kiện Đại
hội XI, thể hiện cách tiếp cận mới trong quản trị đất nước. Điều này
xuất phát từ nhu cầu quản lý phát triển xã hội chưa đồng bộ với quản
lý phát triển các phân hệ - lĩnh vực khác của đời sống; xuất phát từ
tính đặc thù của lĩnh vực xã hội không hoàn toàn áp dụng các phương pháp quản
lý hành chính hay tuân theo quy luật của thị trường đầy đủ, mà bị chi phối rất
lớn của các thể chế phi chính thức. Quản lý phát triển xã hội là một
cấu trúc đa dạng, ở chiều cạnh này có khi bị điều chỉnh bởi thể chế chính
thức, còn ở chiều cạnh khác lại chịu điều chỉnh bởi các thể chế phi chính
thức; có chiều cạnh mang nội dung kinh tế, chịu điều chỉnh bởi quan hệ thị
trường không đầy đủ, nhưng nội dung khác lại mang tính phi kinh tế chịu điều
chỉnh bởi giá trị văn hóa, đạo đức[18].
Chủ thể quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, gồm: nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, tổ chức cộng
đồng và nhân dân. Trong đó, nhà nước
là chủ thể quan trọng của quản lý phát triển xã hội có trách
nhiệm hoạch định thể chế, chiến lược, kế hoạch cho phát triển xã hội; bảo
đảm cho mọi thành viên xã hội bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực và phát huy
cao nhất năng lực của mình; điều tiết các mất cân đối do thị trường tạo ra;
trực tiếp chăm lo và dẫn dắt ở những khâu mà thị trường không làm;
hỗ trợ phát triển các đối tượng, cộng đồng, vùng, miền thua thiệt
về cơ hội phát triển; khuyến khích tư nhân và cộng đồng tham gia phát
triển xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp
và tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng đa dạng khác là chủ thể nòng cốt của quản
lý phát triển xã hội. Nhân
dân là chủ thể quyết định của quản lý phát triển xã hội. Đối tác của các chủ thể quản lý phát
triển xã hội là doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch
vụ xã hội và gia đình[19].
Về phương
thức, quản lý phát triển xã hội là đa dạng linh hoạt phù hợp với nhu cầu, mục tiêu và thực tiễn của
quản lý xã hội. Do tính đa dạng của chủ thể và đối tác tham gia đã dẫn
tới sự đa dạng hóa nguồn lực
tài chính cho quản lý phát triển xã hội. Và từ sự đa dạng hóa
chủ thể, đối tác tham dự và nguồn lực tài chính tất yếu phải đa dạng hóa phương thức tổ chức quản lý phát
triển xã hội.
Về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải
thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là
chủ thể phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng và bảo vệ; gia
đình là tế bào xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an
toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng
thụ thành quả của sự phát triển.
Về mục tiêu, quản lý phát triển xã hội phải thể hiện được
tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển; theo dõi biến đổi cấu
trúc giai tầng xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải
pháp đối thoại, thương lượng; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật; đề
cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội là nền tảng để thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Về chức năng, quản lý phát
triển xã hội bao gồm 5 điểm: hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra
và điều chỉnh.
c). Các giải pháp
thúc đẩy quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam:
Một là, kiên trì thực hiện các nguyên tắc chính trị của quản lý phát triển xã hội:
1. Cán bộ công
chức và cơ quan công quyền có tinh thần trách nhiệm công vụ, tính đại diện và
có trách nhiệm giải trình.
2.Đòi hỏi một xã
hội có sự hiện diện của các tổ chức xã hội, thực sự đại diện cho tiếng nói và
lợi ích của mọi giai tầng xã hội.
3. Đòi hỏi các
thể chế/thiết chế xã hội tốt - bộ các quy tắc quy định hành động của các cá
nhân, nhóm xã hội và các tổ chức; cũng như sự đàm phán, thỏa thuận trong việc
giải quyết các khác biệt, xung đột giữa họ với nhau.
4. Đòi hỏi việc
tuân thủ pháp luật là tối cao, mọi quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp
luật, quyền lực thật sự được giám sát. Duy trì hệ thống pháp luật đồng bộ, kịp
thời, hiệu quả, nghiêm minh và công bằng.
5. Đòi hỏi mức độ
minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền. Cơ quan công
quyền ngày càng ít dung quyền lực để giải quyết các mâu thuẫn xung đột xã hôi.
Nhấn mạnh cách tiếp cận có sự tham gia rộng rãi đối với việc cung cấp dịch vụ
công.
Hai là, kiên trì thực hiện các nguyên tắc kinh tế của quản lý phát triển xã hội:
1. Quản lý sự
phát triển xã hội tốt đòi hỏi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có cơ
sở rộng, khu vực tư nhân năng động và các chính sách xã hội giúp cho việc xóa
đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế sẽ là tốt nhất trong một nền kinh tế dựa
trên thị trường, công bằng bình đẳng và hiệu quả.
2. Tập trung đầu tư vào con người
là ưu tiên cao nhất thông qua các chính sách và thể chế giúp tăng khả năng tiếp
cận giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội cơ bản khác là nền tảng
phát huy vai trò nguồn lực con người của đất nước.
3. Hoàn thiện các thể chế/thiết
chế xã hội hướng tới hiệu quả và quản trị xã hội tốt là điều rất cần thiết để
hỗ trợ sự phát triển khu vực tư nhân có tính cạnh tranh cao. Đặc biệt, để thị
trường vận hành tốt cần có các giá trị, chuẩn mực xã hội tôn trọng hợp đồng và
quyền sở hữu tài sản.
4. Quản lý có trách nhiệm, hiệu
quả nền kinh tế quốc dân có tính chất sống còn nhằm tối đa hóa tiến bộ về kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Ba là, kiên trì định hướng phát triển xã hội theo hướng nhân văn, lấy con người
làm trung tâm, xem phát triển con người vừa là mục tiêu cao nhất vừa là động
lực to lớn nhất của tiến trình đổi mới ở nước ta. Xây dựng một cấu trúc xã hội
thống nhất trong đa dạng dựa trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã
hội. Phát huy quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân trong phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội.
Bốn là, thường xuyên đổi mới tư duy lý luận
về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp với
yêu cầu phát triển của đất nước. Thực hiện cấu trúc hóa hệ thống
phát triển xã hội thích ứng với điều kiện một nước bước vào
ngưỡng thu nhập mức trung bình. Đồng thời, cấu trúc lại mô hình tăng
trưởng kinh tế, phát triển chính trị và văn hóa với chức năng tạo
động lực cho phát triển xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chức năng xã hội
của Nhà nước phù hợp với điều kiện thể chế kinh tế thị trường. Nhận
diện kịp thời những giới hạn của thị trường và khả năng vận dụng quy
luật thị trường vào quản lý phát triển xã hội.
Năm là, thực hiện đa dạng hóa các chủ thể tham gia quản lý phát triển xã hội.
Tạo cơ hội tiếp cận công bằng và nâng cao năng lực cho mọi tầng lớp nhân dân,
nhất là các nhóm yếu thế có tiếng nói thực sự trong hoạt động quản lý phát
triển xã hội.
Sáu là, thực hiện phương pháp tổng tích
hợp trong quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển
xã hội và phát triển kinh tế; thống nhất giữa môi trường tự nhiên với phát triển xã hội; thống nhất giữa thể
chế chính trị với phát triển xã hội…là những vấn đề mấu chốt của việc
đảm bảo tính hiệu quả quản lý phát triển xã hội.
5.3. Quản
lý các vấn đề xã hội
Các vấn đề xã hội
nảy sinh từ những hệ quả của quá trình phát triển kinh tế-xã hội quá nhanh
chóng, mất cân bằng, thiếu bền vững, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
của con người và xã hội. Do vậy, giải quyết vấn đề xã hội chính là nhằm bảo đảm sự ổn định cho quá trình chuyển hoá tăng trưởng kinh tế thành phát triển bền vững theo hướng tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng
trưởng kinh tế, dù mạnh mẽ đến đâu cũng không thể tự động và trực tiếp giải quyết được các vấn đề xã hội[20]. Do đó, tập trung quản lý, giải quyết có
hiệu quả các vấn đề xã hội là một trong những nét đặc trưng của con đường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là con đường phát triển dựa vào con
người và hướng đến con người. Nó cũng là một đặc điểm bảo đảm sự điều tiết của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế[21].
Các vấn đề xã hội là hệ quả song hành với quá trình phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước, và thường là những hiện tượng xã hội rất phức tạp, nan
giải mà bất kỳ một quốc gia dân tộc nào dù phát triển hoặc chưa phát triển cũng
có thể phải đối mặt. Thực tế cho thấy, các vấn đề xã hội cũ đang có xu hướng trỗi
dậy và gia tăng. Đồng thời, các vấn đề xã hội mới ngày càng xuất hiện. Sự gia tăng tác động tiêu cực của các
vấn đề xã hội
đang là những thách thức cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm chậm lại quá trình phát triển của xã hội.
Chính vì vậy, quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội phải
trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, nhà nước và xã hội Việt Nam. Song để đạt mục tiêu này, một yêu cầu đặt ra là cần phải được dự báo
các vấn đề xã hội một cách kịp thời, chính xác và đưa và chương trình nghị sự chung của quốc gia. Muốn vậy, vấn đề xã hội cần được đặt
vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự của Đảng và Nhà nước[22]. Để đảm bảo
tính hiệu quả, hiệu lực trong quản lý các vấn đề xã hội đòi hỏi cần phải xây dựng
hệ thống giải pháp đồng bộ, kịp thời, thích hợp và khả thi. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII (2016) đã nhấn mạnh mục tiêu: Phát triển kinh tế đi đôi
với giải quyết tốt vấn đề xã hội; giải quyết tốt các vấn đề xã hội là tạo
ra động lực cho sự phát triển xã hội hài hòa, bền vững[23]. Để tăng
cường công tác quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội một cách chủ động, hiệu quả
hơn, cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
Một là, về mặt quan điểm, nhận thức cần phải chấp nhận “vấn đề xã hội” sẽ còn tồn
tại với xã hội trong quá trình phát triển. Đồng thời, thực tế cho thấy các
nguyên nhân tạo ra chúng ngày một tinh vi, phức tạp thêm. Không thể có một xã
hội mà không có vấn đề xã hội, nhưng cần phải xây dựng một xã hội có đủ năng
lực giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Do vậy, Việt Nam cần phải hướng đến mục
tiêu là kiểm soát, giảm thiểu tác động tiêu cực của vấn đề xã hội. Trên cơ sở
tiếp cận giải quyết các vấn đề xã hội trong mối tương quan giữa sự vận động, tái
cấu trúc nền kinh tế
với sự vận động, tái cấu trúc xã hội.
Hai là, cần thúc đẩy quá trình xây dựng hoặc cập nhật, vận dụng sáng tạo những quan điểm mới, lý thuyết mới cho hệ thống
lý luận của Đảng
và Nhà nước trong giải quyết vấn đề xã hội. Thực tiễn cho thấy đã đến lúc chúng ta phải dũng cảm
thay thế những quan điểm lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp, không thể sử dụng để giải thích và giải quyết các vấn đề xã hội
của đất nước trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, cần phải chủ động tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại nhằm
nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi của đội ngũ cán bộ và các giai
tầng xã hội đối với các vấn đề xã hội.
Ba là, tiếp tục kiện toàn và thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia theo hướng tinh gọn về bộ máy; thống nhất, đồng bộ về nguồn lực, mục
tiêu; chia sẻ về dữ liệu thông tin nhằm giải quyết kịp thời, chính xác và hiệu
quả hơn các vấn đề xã hội.
Bốn là, tăng cường lượng hoá tiêu chí, áp dụng
các công nghệ quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng từng bước hội
nhập với thế giới. Các tiêu chí và công nghệ tiếp cận phải bám sát những yêu
cầu của chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, việc đổi mới xây dựng chỉ tiêu liên quan
đến các vấn đề xã hội cần thực hiên một cách có chọn lọc, phù hợp với bối cảnh
điều kiện của Việt Nam. Việc lượng hoá các tiêu chí, áp dụng công nghệ quản lý
giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng từng bước tiếp cận với thế giới là tiền
đề cần thiết; tạo cơ sở khoa học cho việc đổi mới nhận thức và phương pháp
hoạch định, triển khai quản lý giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng chủ động,
hiệu lực và hiệu quả hơn.
Năm là, xác lập mối liên hệ
giữa phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật với nắm bắt quy luật kinh tế thị trường
và những vấn đề xã hội, hướng tới phát triền bền vững là sự lựa chọn duy lý
và mang tính tổng tích hợp. Do đó, đẩy mạnh việc thể chế hoá hoàn thiện hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật để quản lý các vấn đề xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề thể chế hóa các văn bản sẽ thúc đẩy công
tác quản lý các vấn đề xã hội bằng pháp luật cần phải được đẩy manh.
Sáu là, tiếp tục xây dựng phát triển các nguồn
lực cho việc quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội. Trước tiên phải tăng cường
đầu tư các nguồn lực của Nhà nước và cần phải được xem xét là sự đầu tư cho mục
tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của các nguồn lực thông
qua việc thực hiện xã hội hóa quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà nước giữ vai trò định hướng, “đặt hàng” các doanh
nghiệp, tổ chức xã hội thực hiện một số lĩnh vực thay các cơ quan hành chính
Nhà nước hiện vẫn đang điều hành, quản lý và chịu trách nhiệm. Đó cũng là một
hướng đột phá trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả đối với việc quản lý,
giải quyết các vấn đề xã hội.
Bảy là, trong chương trình nghiên cứu và đào tạo
của các trường Đại học và Viện nghiên cứu có liên quan cần phải thể hiện tư duy
“mở”, đa dạng hóa quan điểm tiếp cận khoa học và hành động can thiệp. Vấn đề
đặt ra là cần phát triển các chuyên ngành khoa học xã hội, trong đó có xã hội
học để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định cuộc sống, bảo vệ con
người trước những cú sốc của một xã hội đang ngày càng biến đổi nhanh và phức
tạp. Do vậy, các kết quả nghiên cứu khoa học phải đáp ứng được nhu cầu nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi can thiệp
về vấn đề xã hội. Cần phải tăng cường các
phương pháp tiếp cận khoa học, phương pháp dự báo vấn đề xã hội gắn liền với quy luật vận động, hệ quả
của quá trình phát triển kinh tế-xã hội[24].
Những vấn đề xã
hội ở Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng phức tạp hơn, phạm vi lan tỏa
rộng hơn, tác nhân tham gia đa dạng hơn, hệ quả xã hội lớn hơn…Vì vậy,các vấn đề xã hội cần được chú ý nhận diện và xử lý giải quyết trên quan điểm của tư duy hệ thống,
trong xu hướng vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của xã hội. Và do
đó, đòi hỏi phải phối hợp nhiều lực lượng tham gia, cũng như phải khoa học hơn,
nhiều nguồn lực và vì con người hơn mới có khả năng ngăn ngừa và ứng phó có
hiệu quả. Những biểu hiện của các vấn đề xã hội đòi hỏi hoạt động quản lý xã
hội phải có khả năng định hình phương thức ứng phó và quản lý mới, kịp thời,
phù hợp và hiệu quả.
5.4. Quản
lý tình huống bất thường
Quản lý tình
huống bất thường là quá trình chủ động và thực hiện hiệu quả các mục tiêu của
các chủ thể quản lý xã hội: 1) Đương đầu với thực tế; 2) Bình tĩnh xây dựng kế hoạch, tìm biện pháp khả thi, thực hiện
mọi cách để giản thiểu hậu quả và ngăn chặn không cho bất thường lan nhanh hay
kéo dài: 3) Chia sẽ thông tin; 4) Phân tích sâu gốc rễ các vấn đề; 5) Sẵn sàng đón nhận hậu quả xấu; 6) Tranh thủ cơ hội tốt; 7) Ra quyết
định kịp thời, hiệu quả; 8) Ổn định và phát triển sau tình huống bất thường.
Việc nhận diện chính xác
các tình huống bất thường trong thực tế, nghiên cứu các hệ lụy do chúng gây ra
và đề xuất một số vấn đề về quản lý xã hội đối với các tình huống đó là điều
hết sức cần thiết, đặc biệt trong tình hình hiện nay[25]. Việc ngăn ngừa tác hại của các tình huống
bất thường phụ thuộc vào các yếu tố như tính cộng đồng, kinh nghiệm, năng lực
tổ chức quản lý và tiềm năng vật chất, kỹ thuật của nhà nước. Để chủ động, đảm
bảo tính hiệu quả trong quản lý tình huống bất thường cần thực hiện tốt các
giải pháp sau:
Một là, cần có
quan điểm rõ ràng để ngăn chặn các tình huống bất thường trong tổng thể chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, từ đó làm cơ sở cho việc
huy động mọi nguồn lực xã hội, trong nước và quốc tế nhằm chủ động phòng ngừa,
quản lý hiệu quả tình huống bất thường.
Hai là, các khoa
học có liên quan cần đưa tình huống bất thường trở thành đối tượng nghiên cứu
của mình. Trong đó, khoa học quản lý
xã hội cần xác định đối tượng nghiên cứu chính là các tình huống bất thường và
kết quả nghiên cứu là nhằm phục vụ quản lý các tình huống bất thường ngày càng
chủ động, hiệu quả. Việc tăng cường nghiên
cứu khoa học, ứng dụng công nghệ sẽ giúp chủ động, hiệu quả hơn trong dự báo,
kiểm soát, phòng ngừa các tình huống bất thường trong tự nhiên và xã hội.
Ba là, thực hiện
tốt việc phân loại các tình huống bất thường để chủ động quản lý. Bởi vì, các
tình huống bất thường có chung một đặc điểm là gây thiệt hại nghiêm trọng cho
xã hội; nhưng có sự khác nhau ở nguyên nhân, diễn biến, khác nhau ở môi trường,
không gian xuất hiện...Do đó, cần thiết phải phân loại để có sự chủ động ứng
phó dưới dạng nhận biết, chuẩn bị và đề ra các giải pháp ứng phó. Trên cơ sở
đó, các chủ thể quản lý kịp thời thực hiện các biện pháp quản lý xã hội phù
hợp, đạt hiệu quả cao[26].
Bốn là, cần thay đổi nhận thức, thái độ và hành
vi của xã hội để thích nghi với các tình huống bất thường. Chủ động
thông tin và trung thực về thông tin trong tình huống bất thường là một yêu cầu
quan trọng. Thông tin về tình huống bất thường cần được đưa ra kịp thời, không
né tránh, không phỏng đoán và tránh những thông tin gây hiệu ứng tiêu cực. Khi
các vụ việc bất thường xảy ra, đại diện các cơ quan chức năng trả lời truyền
thông, báo chí cần lựa chọn các thông điệp khách quan, khoa học và trung tính.
Năm là, các chủ thể liên quan đến hoạt động quản lý xã hội phải có một tầm nhìn
xa và hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các tình huống bất thường. Chủ thể quản lý
xã hội, nhất là Nhà nước cần tăng cường các hoạt động truyền thông, nâng cao
năng lực, kỹ năng cho người dân ứng phó với các tình huống bất thường.
Thông qua đó tang cường sự hiểu biết, kỹ năng, thúc đẩy các nhóm xã hội/địa
phương thoát khỏi tình huống bất thường.
Sáu là, cần nghiên cứu, ban hành và thực hiện một hệ thống
pháp luật quy định về trách nhiệm và năng lực quản lý tình huống bất thường
chặt chẽ và hiệu quả. Căn cứ của hoạt động quản lý tình huống bất thường
là nhà nước phải là khung thể chế thông qua hệ thống pháp luật. Hệ thống các
quy phạm cần được đặt ra một cách đồng bộ, kịp thời, bắt đầu từ khung thể chế
trong Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm hành chính[27].
Bảy là, nghiên cứu
xây dựng phát triển cơ quan, tổ chức chuyên trách và chuyên nghiệp có chức năng
ứng phó với tình huống bất thường; đầu tư thỏa đáng các nguồn lực, trang thiết
bị công nghệ hiện đại cho hoạt động ứng phó với tình huống bất thường. Thường
xuyên thực hiện nghiên cứu khoa học, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm từ các
tình huống bất thường đã xảy ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Nguyên
Anh và cộng sự (2013), Báo cáo Tổng hợp:
Tổng kết lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới trong việc giải quyết các vấn đề
xã hội ở Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
2. Đặng Nguyên
Anh (chủ biên-2016), Biến đổi xã hội ở
Việt Nam: truyền thống và hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Hoàng Chí
Bảo (2008), Biến đổi xã hội ở Việt Nam
qua hơn 20 năm đổi mới, VNH3.TB6.798.
4. Hoàng Chí
Bảo, Đoàn Minh Huấn (2012), Những vấn đề
lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay vận
dụng cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.
Bùi Quang Dũng (2013), Xã hội học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Phạm Đi
(2018), Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận
dụng, Nxb CTQG-Sự thật.
7. Phạm Đi
(2016), Quản lý đô thị - một góc nhìn,
Nxb DDHGQ TP.HCM.
8. Phạm Đi
(2019), Sự biến đổi trong đời sống xã hội
Trung Quốc, Nxb Lý luận chính trị.
9. Phạm Đi
(2019), Phát triển kỹ năng lãnh đạo – một
số vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. G.Endruweit&G.Trommsdorff (2002), Từ
điển Xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Đoàn Minh
Huấn (2016), Quản lý phát triển xã
hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Đại hội XII
của Đảng, Tạp chí cộng sản điện tử http://www.tapchicongsan.org.vn/
13. Lê Ngọc
Hùng (2009), Xã hội học giáo dục, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Lê Ngọc
Hùng (2010), Các cấp độ và xu hướng biến
đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ xã hội học, Tạp chí Thông tin
khoa học xã hội số 4.
15. Lê Ngọc
Hùng (2010), Xã hội học về lãnh đạo, quản
lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Lê Ngọc
Hùng (2017), Từ quản trị và quản lý tiến
đến nghiên cứu phát triển quản trị, quản lý xã hội, Bản tin Nghiên cứu Xã
hội học, số 1.
17. Đặng Cảnh
Khanh (2007), Khắc phục đầy đủ và toàn
diện các sai lệch xã hội, Tạp chí cộng sản điện tử http://www.tapchicongsan.org.vn/.
18. Nguyễn Mạnh
Kháng và các cộng sự (2009), Một số vấn
đề lý luận về quản lý xã hội trong những tình huống bất thường, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
19. Nguyễn Hữu
Khiển (2016), Các tình huống bất thường -
thực trạng và định hướng trong quản lý nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước
điện tử http://tcnn.vn.
20. Vũ Mạnh Lợi
(2012), Bàn về mô hình phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 4.
21. Trịnh Duy
Luân (2003), Nghiên cứu những vấn đề biến
đổi xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Xã hội học, số 2.
22. Phạm Xuân
Nam (2002), Triết lý phát triển ở Việt
Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Vũ Hào
Quang (2002), Xã hội học quản lý, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Đỗ Văn Quân
(2015), Các vấn đề xã hội ở Việt Nam hiện
nay: nhận thức và hành động, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị,
số 11.
25. Phan Xuân
Sơn (2015), Phát triển xã hội, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 5
26. Nguyễn Văn
Thâm (2014), Một số vấn đề về quản lý xã
hội đối với tình huống bất thường, Tạp chí Khoa học-Công nghệ Việt Nam, số
6.
27. Nguyễn Đình
Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
28. Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đỗ Hoàng
Toàn (2006),Giáo trình quản lý xã hội,
Nxb Khoa học Kỹ thuật,Hà Nội.
30. Nguyễn Thanh
Tuấn (2012), Giải quyết các vấn đề xã hội
cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản điện
tử.http://www.tapchicongsan.org.vn
[1]
Gunter Endruweit, Gisela Trommsdorff, Từ
điển Xã hội học (Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bảo dịch), Nhà xuất bản Thế
giới. H.2002, tr.552-554.
[2]
J. Shepard và H. Voss, Vấn đề xã hội ở Mỹ,
Nhà xuất bản nhân dân Sơn Tây, Thái Nguyên (Bản tiếng Trung), năm 1987, trang
5.
[3]
Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận
dụng, Nxb CTQG-Sự thật, H.2018, tr7-10.
[4]
Vũ Hào Quang, Xã hội học quản lý, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2001, tr.106.
[5]
Chẳng hạn, sau vấn đề xung quanh trạm thu phí BOT Cai Lạy (Tiền Giang), Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc quyết định tạm dừng thu phí qua trạm này từ 1-2 tháng để
Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành liên quan tiếp tục làm rõ mọi vấn đề,
đồng thời đề xuất phương án trên cơ sở khoa học và phù hợp thực tiễn. Thủ tướng
nhấn mạnh, có những vấn đề đúng pháp luật, đúng quy trình nhưng không phù hợp
thực tiễn, không hợp lòng dân thì chúng ta vẫn phải nghiêm túc lắng nghe, cầu
thị tiếp thu để sửa chữa. Xem thêm: https://thanhnien.vn/thoi-su/thu-tuong-yeu-cau-tam-dung-thu-phi-bot-cai-lay-1-thang-906395.html
. Cập nhật ngày 1 tháng 1 năm 2018.
[6]
Chủ cơ sở mần non Mần Xanh đã bị khởi tố khi có hành vi hành hạ trẻ em. Tham
kiếm: https://tuoitre.vn/bat-chu-co-so-mam-non-mam-xanh-hanh-ha-tre-20171128094449476.htm.
Cập nhật ngày 5 tháng 1 năm 2018.
[7]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 75
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr 126
[9]
Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2016), Biến
đổi xã hội ở Việt Nam: truyền thống và hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội,tr 527.
[10]
Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2016), sđd, tr 528.
[11]
Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.
[12]
Trịnh Duy Luân (2003), tài liệu đã dẫn,
tr 5.
[13]
Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.
[14]
Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.
[15]
Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.
[16]
Phạm Xuân Nam (2002), Triết lý phát triển
ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[17]
Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng (2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[18]
Đoàn Minh Huấn (2016), tài liệu đã dẫn.
[19]
Đoàn Minh Huấn (2016), tài liệu đã dẫn.
[20]
Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.
[21]
Nguyễn Thanh Tuấn (2012), Giải quyết các vấn đề xã hội cùng với
tăng trưởng và phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản điện
tử.http://www.tapchicongsan.org.vn
[22]
Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.
[23]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), sđd.
[24]
Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.
[25]
Nguyễn Văn Thâm (2014), tài liệu đã dẫn, tr 59.
[26]
Nguyễn Văn Thâm (2014), tài liệu đã dẫn, tr 59.
[27]
Nguyễn Hữu Khiển (2016), Các tình huống
bất thường - thực trạng và định hướng trong quản lý nhà nước hiện nay, Tạp
chí Nhà nước điện tử http://tcnn.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét