VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

 

VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

1. Một số khái niệm liên quan

1.1. Vấn đề xã hội

Vấn đề xã hội (hay còn gọi là “bệnh tật xã hội”, “mất cân bằng xã hội”, “bất thường xã hội”, “vấn nạn xã hội”…) là một hiện tượng biểu hiện sự mất cân bằng nghiêm trọng hoặc xung đột trong các mối quan hệ giữa con người và con người, con người và xã hội, con người và tự nhiên. Vấn đề xã hội không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các thành viên trong xã hội; ảnh hưởng đến sự vận hành bình thường của xã hội, mà còn là một trong những nhân tố gây nên những trở ngại, tác động và đe dọa đến sự phát triển hài hòa của xã hội.

Vấn đề xã hội là chủ đề quan trọng và là một trong những đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Khi tiến hành nghiên cứu các vấn đề xã hội, xã hội học nắm bắt những nguyên nhân nảy sinh, những nhân tố tác động, quá trình hình thành và đưa ra những giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển bền vững. Chương này chúng tôi sẽ làm rõ nội hàm của vấn đề xã hội, phân tích các đặc trưng và kiểu loại của các vấn đề xã hội; giới thiệu một số lý thuyết và cách tiếp cận chủ yếu của xã hội học khi nghiên cứu các vấn đề xã hội.

Vấn đề xã hội là hệ quả của quá trình phát triển và biến đổi xã hội. Trong quá trình phát triển và chuyển biến xã hội, tất yếu xuất hiện sự mất cân đối trong chức năng, kết cấu và mất cân bằng của một số bộ phận và thành tố xã hội. Nói cách khác, một vài chức năng nào đó trong hệ thống xã hội bị suy giảm, bị triệt tiêu hay bị chuyển hóa thường gây nên mất cân bằng trong kết cấu xã hội; mất đi sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận, thành tố trong hệ thống xã hội, từ đó làm nảy sinh các vấn đề xã hội.

Cần phải hiểu rằng, vấn đề xã hội có tính hai mặt, tức là vừa tính tiêu cực, vừa có tính tích cực: một mặt, trong quá trình phát triển xã hội ở một trình độ nhất định và một thời gian nhất định, xuất hiện sự “mất cân đối tạm thời” trong hệ thống xã hội từ thể chế và kết cấu của nó nhưng, sự mất cân đối tạm thời này là điều kiện để xã hội tự điều chỉnh và hoàn thiện. Chính sự tự điều chỉnh và hoàn thiện này làm cho hệ thống xã hội hoàn chỉnh hơn, phát triển hơn; mặt khác, vấn đề xã hội mang tính chất nghiêm trọng có tác động tiêu cực và cản trở sự phát triển bình thường của xã hội, thậm chí gây nên những rối loạn xã hội, bất ổn xã hội. Chính vì thế, khi nghiên cứu các vấn đề xã hội, các nhà nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc nhận thức nó mà còn cần phải “bốc ra những toa thuốc” hữu hiệu, phù hợp, kịp thời để “chữa trị” cho các căn bệnh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội.

Vì tính chất phức tạp của vấn đề xã hội nên các nhà khoa học, với những cách tiếp cận khác nhau, đã đưa ra những giới định khác nhau, thậm chí đối lập nhau về nội hàm của vấn đề xã hội. Do đó, “cho đến nay người ta vẫn chưa nhất trí được về một định nghĩa chính xác của cái tạo nên vấn đề xã hội, mặc dù cuộc tranh luận về nó đã kéo dài gần 40 năm nay. Những cố gắng đi đến một định nghĩa xuất phát từ Full/Myer (1941), những người định nghĩa về vấn đề xã hội như là tình trạng ‘được một số đáng kể những người đánh giá là sự lệch lạc với những chuẩn mực bắt buộc’ và qua thử nghiệm của Meton (“Bộ phận cấu thành đầu tiên và làm nền tảng của một vấn đề xã hội nằm trong sự khác biệt căn bản giữa chuẩn mực được chấp nhận về xã hội và những điều kiện xã hội đang tồn tại thực tế”, 1971)[1].

Theo các tác giả J. Shepard và H. Voss thì: “Đại bộ phận các thành viên trong một xã hội và một bộ phận nhân vật có ảnh hưởng đối với xã hội ấy cho rằng một số tình huống xã hội không lý tưởng, không thể chấp nhận và cần có sự chú ý của xã hội đồng thời có những biện pháp để cải thiện nó thì đó chính là vấn đề xã hội”[2].

Như vậy, vấn đề xã hội có hai tầng nghĩa khác nhau. Ở tầng nghĩa rộng dùng để chỉ toàn bộ những vấn đề liên quan đến đời sống xã hội, có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các khía cạnh của đời sống xã hội và được con người quan tâm; ở phạm vi hẹp, dùng để chỉ sự mất cân đối và trạng thái bệnh tật xã hội, tức là trong quá trình vận hành xã hội, vì một hay nhiều lý do nào đó mà phát sinh những nhân tố gây nên những trở ngại hay làm mất cân bằng trong kết cấu xã hội, môi trường xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động sống bình thường của một bộ phận hoặc toàn bộ xã hội; tác động đến trật tự vốn có của xã hội, thậm chí uy hiếp đến sự vận hành bình thường của xã hội. Tất nhiên, khi nói đến vấn đề xã hội tức hàm chỉ đến khía cạnh về tính chất, quy mô, phương diện tác động của nó đến một xã hội nhất định trong một khoảng thời gian xác định và phải được nhiều người chú ý, quan tâm.

Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy, vấn đề xã hội là một hiện tượng xã hội gây nên những xung đột hoặc mất cân bằng trong các quan hệ xã hội giữa con người với con người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Khi nghiên cứu các vấn đề xã hội, nhiệm vụ của chúng ta cần phải làm rõ một số khía cạnh sau[3]:

-         Nghiên cứu nguyên nhân gây nên tình trạng “có vấn đề” và “có thể có vấn đề”

-         Khảo sát các điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến các vấn đề xã hội

-         Tìm ra các biến số có tác động (trực tiếp và gián tiếp; độc lập và trung gian) đến quá trình hình thành các vấn đề xã hội

-         Đưa ra các giải pháp nhằm chấn chỉnh, khắc phục, hạn chế các vấn đề xã hội.

1.2. Quản lý xã hội

Hiện nay, khi nghiên cứu hoạt động quản lý xã hội nói chung, nhiều người thường đưa ra và phân biệt các khái niệm liên quan như kiểm soát xã hội (social control), quản trị xã hội (social governance), quản lý xã hội (social management). Ở đây, chúng ta chỉ xem xét khía cạnh quản lý xã hội như một hoạt động có chủ đích của các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước nhằm duy trì trạng thái bình thường cho xã hội và giúp hệ thống xã hội vận hành theo một trật tự nhất định, theo một định hướng nhất định. 

Mục đích của hoạt động quản lý là nhằm bảo vệ và duy trì trật tự xã hội. Tuy nhiên, muốn quản lý xã hội tốt thì cần phải dự báo, nắm bắt các vấn đề xã hội có thể nảy sinh trong quá trình vận hành xã hội, đảm bảo sự phát triển bình thường của xã hội. Do đó, từ cách tiếp cận xã hội học quản lý, tác giả Vũ Hào Quang cho rằng: “Quản lý xã hội là việc quản lý từng khía cạnh hay từng mặt của đời sống xã hội, là việc quản lý các thiết chế xã hội cũng như xã hội nói chung nhằm duy trì trạng thái năng động và vận hành hệ thống xã hội một cách bình thường[4].

Nếu xem xét trong mối tương quan với vấn đề xã hội thì người quản lý xã hội giống như hoạt động của một bác sĩ mà nhiệm vụ chủ yếu của bác sĩ này là “khám bệnh” cho cơ thể xã hội, tìm hiểu tình trạng bệnh tật, á bệnh tật hay khỏe mạnh của xã hội để từ đó đưa ra phác đồ điều trị (hay dự phòng) các căn bệnh tương ứng. Trong trường hợp này, các vấn đề xã hội chính là tình trạng sức khỏe của cơ thể xã hội được biểu hiện bằng những triệu chứng “tiền lâm sàn” hay “lâm sàn”. Cái khó của “bác sĩ xã hội” là không đợi đến “có bệnh” mới tiến hành khám, mà ở khía cạnh quản lý xã hội mà nói, cần phải tiến hành cả công tác “dự phòng”. Trong mối tương quan này thì, quản lý xã hội là sự tác động một cách liên tục, có tổ chức, có kế hoạch và có mục đích của chủ thể quản lý lên các nhóm xã hội theo một qui trình nhất định nhằm đảm bảo sự phát triển xã hội.

Các nội dung, lĩnh vực cụ thể trong quản lý xã hội rất rộng, bao trùm lên toàn bộ các thiết chế xã hội, các hoạt động xã hội, các nhóm xã hội. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, quản lý xã hội là quản lý con người với các mối quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội và các lợi ích khác nhau, do vậy, đây là hoạt động khó khăn nhất, phức tạp nhất; quản lý xã hội quyết định đến sự tồn tại, phát triển của quốc gia, dân tộc, địa phương, cơ quan, tổ chức nên hoạt động này có tính phổ quát cao; quản lý xã hội là sự điều chỉnh các quan hệ về lợi ích giữa các chủ thể xã hội nên đây là hoạt động vô cùng nhạy cảm và dễ nảy sinh ra các vấn đề xã hội nếu lợi ích không hài hòa; quản lý xã hội điều tiết những mối quan hệ xã hội, vai trò xã hội, chống các hành vi lệch lạc xã hội, giải quyết các xung đột về lợi ích giữa các nhóm, đây là nhiệm vụ vừa mang tính lý luận vừa có tính thực tiễn, vừa có tính trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài.

2. Mối quan hệ giữa vấn đề xã hội và quản lý xã hội

Với tư cách là một hiện tượng xã hội mang tính phổ biến, vấn đề xã hội tác động trực tiếp đến sự vận hành bình thường của cơ thể xã hội, thậm chí có tác động phát sinh đến các lĩnh vực khác của xã hội. Do đó, một trong những nhiệm vụ của quản lý xã hội phát hiện một cách kịp thời và đưa ra những biện pháp thích hợp để giải quyết các vấn đề xã hội đã, đang, sẽ nảy sinh. Nói cách khác, thực chất của quản lý xã hội là kiểm soát và khống chế các vấn đề xã hội. Với tư cách là một thiết chế, cơ chế để duy trì trật tự và phát triển xã hội theo định hướng, hoạt động quản lý xã hội có trách nhiệm dự báo xu hướng, ngăn chặn và giải quyết các vấn đề xã hội.

Quản lý xã hội, kiểm soát xã hội một cách hợp lý đối với các vấn đề xã hội thể hiện chủ yếu ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, về phương diện dự báo các vấn đề xã hội. Thông qua hệ thống chính sách và các công cụ quản lý, nhà quản lý xã hội sẽ tiến hành kiểm soát và dự báo các vấn đề xã hội có thể nảy sinh. Dự báo các vấn đề xã hội chủ yếu bằng các phương tiện sau: một là thông qua các chuẩn tắc, quy phạm xã hội và dư luận xã hội để kiến tạo những cơ chế định hướng cho xã hội, cung cấp và định hướng cho các thành viên trong xã hội hệ thống niềm tin, lý tưởng, quan niệm giá trị và phương thức hành vi phù hợp với giá trị, chuẩn mực xã hội; các định hướng này sẽ là kim chỉ nam cho hành động, chế ước các hành động lệch lạc, các hành vi vi phạm pháp luật; giúp cho các cá nhân trong xã hội hành động theo khuôn mẫu xã hội, giúp xã hội vận hành một cách cân bằng. Hai là, thông qua việc hình thành các kênh giao tiếp xã hội, giúp cho cá nhân, gia đình, nhóm có một môi trường giao tiếp lành mạnh, cùng nhau hợp tác, giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột hay đối lập về tư tưởng. Ba là, xây dựng cơ chế dự báo, cảnh báo, giám sát những nhân tố có thể làm trở ngại hay tác động đến cơ cấu xã hội, làm mất cân bằng môi trường xã hội. Bốn là, thông qua các cơ chế chỉnh hợp xã hội nhằm điều tiết và chế ước các quan hệ xã hội, hóa giải các mâu thuẫn, xung đột xã hội, kiểm soát những tác động tiêu cực đối với các thành viên xã hội, hạn chế tối đa những vấn đề xã hội phát sinh. Năm là, tăng cường cơ chế khích lệ, động viên đối với những hành vi tôn trọng các chuẩn mực, khuôn mẫu xã hội, đồng thời có chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi đi ngược lại với các chuẩn mực xã hội, kịp thời ngăn chặn các hành vi có thể phát sinh vấn đề xã hội.

Thứ hai, về phương diện ngăn chặn và khống chế vấn đề xã hội. Khi làm tốt công tác dự báo chắc chắn sẽ ngăn chặn được một số vấn đề xã hội nảy sinh. Thế nhưng, như trên đã đề cập, vấn đề xã hội mang tính phổ biến nên nó tồn tại ở khắp mọi nơi, trên nhiều lĩnh vực, ở những thời điểm khác nhau. Cố nhiên, không phải vì thế mà vấn đề xã hội không thể không dự báo hay không thể ngăn chặn được. Để ngăn chặn, khống chế vấn đề xã hội có thể thông qua các biện pháp sau: một là, có thể làm thay đổi môi trường xã hội hay cơ cấu xã hội có nguy cơ hình thành vấn đề xã hội tương ứng, làm giảm các áp lực xã hội, triệt tiêu các biểu hiện vấn đề xã hội “từ trong trứng nước”; Hai là, kiến lập cơ chế phản ứng thích hợp và kịp thời, nhanh chóng triệt tiêu những tác động tiêu cực đối với môi trường xã hội và cơ cấu xã hội; kịp thời định hướng tư tưởng, tâm lý của công chúng trước một vấn đề mới có thể dẫn đến khủng hoảng tinh thần, tâm lý bất mãn…

 Thứ ba, về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Có thể thông qua các biện pháp sau: một là, tiến hành định hướng và dẫn dắt các hành vi của cộng đồng nhất là các hành vi tập thể (khiếu kiện, khiến nại đông người), không để các hành vi này trở thành những điểm nóng, có tính đông người. Hai là, thông qua các biện pháp như thuyết phục, phê bình, cách ly, lắng nghe ý kiến để tìm cách ngăn chặn hành vi lệch lạc; có thể hóa giải vấn đề bằng cách “thương lượng” tạm thời hay hiệp thương để đáp ứng một số yêu cầu mà chủ thể mong muốn[5] và hơn thế nữa, tránh những tác động tiêu cực của vấn đề đối với đời sống xã hội. Bốn là, thông qua hệ thống pháp luật để giải quyết và xử lý các vấn đề xã hội có tính chất nghiêm trọng[6], có thể dùng những chế tài tương ứng và thích hợp đối với các hành vi lệch lạc nghiêm trọng, vi phạm pháp luật nhằm răn đe và lập lại trật tự xã hội.

3. Đặc điểm tình hình và bối cảnh hiện nay

Trong các văn bản chính thức của Đảng, Nhà nước cũng như thực tiễn đã xác lập mô hình mục tiêu phát triển tổng quát của Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong đó mục tiêu cốt lõi hướng đến là: con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Song để thực hiện thành công, một trong những điều kiện tiên quyết là phải tính đến sự quy định của bối cảnh xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nhận định. Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc[7]. Qủa thực, thế giới ngày nay đã và đang diễn ra đồng thời nhiều quá trình vận động, đan xen rất phức tạp, vừa hợp tác vừa đấu tranh, có ảnh hướng quyết định đến sự phát triển của nhân loại và từng quốc gia dân tộc, như: biến đổi khí hậu, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, vai trò của các nước lớn, xung đột tranh chấp lãnh thổ, khủng bố và cách mạng công nghiệp lần thứ tư…Có thể nói, các quá trình này đã và đang tác động khôn lường, bất định theo cả hai chiều cạnh: thuận lợi và khó khan, trước mắt và lâu dài đối với tiến trình đổi mới và phát triển của Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Chẳng hạn, thế giới đang bắt đầu đi vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để Việt Nam có bước phát triển mới, tuy nhiên cũng là thách thức, làm bộc lộ nhiều bất cập khi mà không ít vấn đề chúng ta đang ở trình độ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai. Rõ ràng, đây là một khoảng cách khá lớn so với yêu cầu chung cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hoặc liên quan đến biến đổi khí hậu, dự báo Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu, điều này đặt ra nhiều khó khăn; song cũng là cơ hội, nếu chúng quyết tâm để thúc đẩy sự phát triển đất nước với cách thức, mục tiêu phù hợp hơn, hiệu quả và bền vững hơn…

Với 30 năm thực hiện đường lối đổi mới để phát triển đất nước, mà nội hàm cụ thể là thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa; phát triển kinh tế thị trường; xây dựng nhà nước pháp quyền; hội nhập quốc tế; đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội; tái cấu trúc nền kinh tế…Trong một chiều cạnh khác, các vấn đề này chính là nhân tố tác động mạnh mẽ đến nội dung, phương thức, nhiệm vụ và mục tiêu xây dựng đất nước, xã hội và con người Việt Nam trong toàn bộ tiến trình đổi mới. Có thể khẳng định Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo. Song, bên cạnh đó, có rất nhiều khó khăn, hạn chế và bất cập đòi hỏi phải có giải pháp kịp thời, đồng bộ, khoa học và thực hiện quyết liệt nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội: nhanh, hài hòa và bền vững hơn. Chẳng hạn, chúng ta đang cùng lúc phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt ngân sách và nợ công, năng suất lao động thấp, tham nhũng, phân tầng xã hội và xung đột xã hội gia tăng; đồng thời lại phải ứng phó với nhiều khó khăn mới chưa lường trước được, như: nạn hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt chưa từng có; sự cố ô nhiễm môi trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên...

Việc đề cập nghiên cứu, phân tích các quá trình mang tính bối cảnh quốc tế và trong nước như vừa nêu có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề quản lý xã hội ở Việt Nam. Chẳng hạn, các chủ thể tham gia quản lý xã hội còn phải đặt trong mối quan hệ tương tác và chịu áp lực chi phối của bối cảnh quốc tế liên quan đến nhu cầu, trách nhiệm, năng lực và phẩm chất của các chủ thể quản lý; đến mục tiêu phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường. Từ đó có những căn cứ để giải thích quy mô rộng lớn, hệ thống và tính chất phức tạp của những biến đổi xã hội, phát triển xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, đòi hỏi phải có năng lực quản lý xã hội tốt hơn để phát triển dân tộc và hiện đại hoá xã hội Việt Nam. Hay, bối cảnh biến đổi khí hậu đặt ra yêu cầu bức thiết cho hoạt động quản lý xã hội của Việt Nam. Bởi vì, quá trình này đang làm giảm hoặc mất đi các nguồn lực, điều kiện để phát triển một cách bình thường; là nguyên nhân gia tăng xung đột xã hội, thúc đẩy biến đổi xã hội theo chiều hướng tiêu cực, gia tăng nhiều vấn đề xã hội…Do vậy, quá trình biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường ở Việt Nam cần phải trở thành một chủ đề, mục tiêu quan trọng của quản lý xã hội. Và để đạt được hiệu quả, chúng không thể chỉ được giải quyết bằng những hành động đơn lẻ, cục bộ.

Từ bối cảnh thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu của hoạt động quản lý xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, tức là phải tuân thủ những thông lệ và chuẩn mực quốc tế; tính tới mối quan hệ và những tác động của thế giới, nhất là các nước lớn và khu vực ASEAN. Hay, nếu đặt quản lý xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tức là quản lý xã hội ở Việt Nam phải tính đến việc tiếp cận, ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, sự tích hợp dữ liệu khổng lồ và kết nối chia sẻ thông tin. Đồng thời, nếu lấy bối cảnh đất nước là phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền hội nhập quốc tế làm nền tảng cốt lõi, rõ ràng Việt Nam cần phải xây dựng hình tổ chức, phương thức quản hội và mục tiêu của quản lý xã hội một cách tương thích. Về mặt đường lối định hướng, những vấn đề này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận diện thông qua việc xác lập các mục tiêu của phát triển đất nước. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định: (1) Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (2) Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; (3) Có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội[8]. Như vậy, có thể khẳng định, quản lý xã hội tốt tức là góp phần đảm bảo tính định hướng, mục tiêu xây dựng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể hiện thực hóa chúng một cách kịp thời, sáng tạo và hiệu quả nhất.

4. Một số vấn đề đặt ra đối với hoạt động quản lý

- Nghiên cứu quản lý xã hội ở Việt Nam chủ yếu dừng lại việc đưa ra các định hướng  vĩ mô. Trong khi đó, các cấp độ của hoạt động quản lý xã hội: quản lý biến đổi xã hội, quản lý phát triển xã hội, quản lý các vấn đề hội…thường bị tách rời, đơn lẻ, mà chưa xây dựng được hệ thống luận vững chắc, cùng các phạm trù và khái niệm bản cho lĩnh vực hội chỉnh thể. Đối tượng của quản lý xã hội thường bị phân chia, tách rời thành từng vấn đề cụ thể nên không cho phép xem xét các vấn đề hội như một chỉnh thể trong sự phát triển. Đây điều còn “để ngỏ” thiếu hụt trong 30 năm đổi mới, đất nước, do vậy dẫn đến việc điều hành, quản lý xã hội thiếu hiệu quả và chưa đạt tới tầm vĩ mô của nó. Bên cạnh đó, phương pháp tiếp cận quản lý xã hội theo hướng tổng thể, hệ thống xã hội chưa được chú trọng.

   - Mặc đã những nỗ lực đổi mới duy, tuy nhiên Đảng vẫn chưa nhận thức thực sự ràng về phương thức lãnh đạo của Đảng, về phân định giữa vai trò “lãnh đạo” “quản lý” trong thực hiện mục tiêu phát triển xã hội hài hòa, bền vững. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể chính trị - hội hướng đến mục tiêu quản lý xã hội tốt/hiệu quả/hiệu lực còn chưa rõ. Bên cạnh đó, trong các chiến lược cương lĩnh xây dựng phát triển đất nước, Đảng chưa xác định được hình phương thức quản hội cụ thể trong thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa trong đó sự kết hợp hài hòa giữa ba chế: nhà nước, thị trường cộng đồng. Trong thực tế, ba chế này luôn tồn tại một cách chính thức hoặc không chính thức trong mọi mặt đời sống hội, nhưng một hình kết hợp hài hòa giữa ba chế mới phát huy được tối đa nguồn lực hội, hạn chế những tác động tiêu cực, lạc hậu mâu thuẫn…

- Quản hội vẫn được nhìn nhận chủ yếu vẫn vai trò của các cơ quan thuộc quyền lực nhà nước, mang tính chất chính thức, từ trên xuống dưới, pháp quy và bị động. Trong khi đó, vai trò của cộng đồng tham gia quản lý xã hội, mang tính chất phi chính thức, từ dưới lên trên, chủ động, tự quảnchưa được chú ý đúng mức. Chưa nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của việc xây dựng chế quản hội/cộng đồng hiện đại (nhất thành thị), thay thế cho chế quản mang tính làng truyền thống. Điều này phần nhiều hậu quả của việc thiếu hình quản hội sự kết hợp hài hòa giữa ba chế (Nhà nước, thị trường cộng đồng). Cũng như chưa nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của các thiết chế xã hội trong tổ chức quản hội. Trong khi đó, những rào cản của truyền thống vẫn đang tác động tiêu cực đến hiệu quả quản hội hiện đại một cách k phổ biến…Đây chính là những lý do dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong việc triển khai hệ thống luật pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó, do chưa nhận thức thống nhất về hình cụ thể, phát triển hội Việt Nam đã được ghi nhận nhiều khía cạnh/chỉ báo, nhưng mang tính rời rạc, chắp vá, chứ chưa thực sự phát triển bền vững, hài hòa của cả hệ thống.

- Quyền tự do dân chủ của người dân nhiều khi chưa được đảm bảo. Cơ chế giám sát, phản biện chính sách hoạt động của Đảng/Nhà nước chưa hiệu quả, còn nặng về hình thức. Chưa phát huy hiệu quả vai trò sự tham gia của các tổ chức hội. Các tổ chức hội thường xu hướng bị nhà nước hóa, chính trị hóa, hoặc thị trường hóa. Mặc dù đã có những thay đổi nhất định, tuy nhiên thực tế cho thấy chưa nhận thức đủ sự về cần thiết phải phát huy chức năng, vai trò của các tổ chức hội trong quản hội. Chẳng hạn, trạng thái xã hội e ngại đáng kể về sự tham gia quản hội của các tổ chức hội thể làm ảnh hưởng đến đến sự ổn định hội hay trí lãnh đạo của Đảng. Điều này cũng tương tự như sự lo ngại về kinh tế nhân sẽ chệch hướng chủ nghĩa xã hội như quan niệm những năm trước đây. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng được chế phù hợp phát huy mọi lực lượng, nguồn lực tham gia quản lý hội...

- Mặc dù đã có nhiều đổi mới, tuy nhiên tư duy và hành động máy móc, sự thiếu linh hoạt trong tổ chức quản hội vẫn đang là một rào cản lớn ở Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, ở tầm vĩ mô, có sự đồng nhất  giữa mục tiêu và phương thức quản lý xã hội. Ngược lại, tầm trung vi mô, hoạt động quản hội xu hướng quá nặng về mục tiêu, thành tích, thi đua, phòng trào, trong khi những nguyên tắc đạo nhân văn bản không được chú trọng đúng mức. Việc chỉ tập trung vào những động lực bên ngoài (phấn đấu để đạt chỉ tiêu, thành tích, khen thưởng, bằng cấp, chức vụ, thu nhập...) hơn những động lực thực chất bên trong, tức các động lực tinh thần đạo đức thể dễ dẫn đến hành vi ứng xử lệch chuẩn, miễn sao đạt được mục tiêu. Cơ chế quản hội tuy đã một số đổi mới, nhưng vẫn còn những duy thời bao cấp (quản dân số bằng hộ khẩu, hạn chế quyền công dân…)[9].

- Mặc dù đã có những chuyển biến, tuy nhiên năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu; b máy quản nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu, thiếu hiệu quả; cải cách pháp còn chậm, chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao; cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; phân cấp chức năng, nhiệm vụ chưa rành mạch giữa các quan Đảng với Nhà nước doanh nghiệp, giữa trung ương địa phương. Chất lượng của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu[10]...Chính vì vậy, nhiều vấn đề biến đổi xã hội, phát triển xã hội chưa được nhận diện và đưa vào đối tượng quản lý xã hội. Các vấn đề hội bức xúc vẫn tồn tại một cách khá phổ biến, đang có xu hướng gia tăng hoặc mới nảy sinh. Bên cạnh đó, các hành vi sai lệch xã hội theo chiều hướng tiêu cực, các tình huống bất thường ngày càng xuất hiện nhiều, để lại hệ quả xã hội nặng nề, trong khi đó các biện pháp ứng phó chưa kịp thời và hiệu quả.

- Thực tế cho thấy tư tưởng/đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về quản hội chưa thực sự “quán triệt” giữa trong một bộ phận tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các giai tầng xã hội. Trong khi đó, sự phản hồi phản biện của các tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các giai tầng hội đối với đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước còn khá hạn chế. Trong khi đó, các chuẩn mực quốc tế, các thành quả nghiên cứu khoa học liên quan đến quản lý xã hội trên thế giới …vì nhiều lý do khác nhau vẫn chưa được tính đến hay áp dụng kịp thời, hiệu quả.

5. Một số nội dung chủ yếu trong quản lý xã hội hiện nay

5.1. Quản lý biến đổi xã hội

Có thể hiểu quản lý biến đổi xã hội là việc sử dụng hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội, chính sách và các thể chế, thiết chế xã hội…Thông qua đó các chủ thể tham gia vào hoạt động quản lý biến đổi xã hội. Qúa trình này diễn ra trong môi trường tương tác xã hội giữa chủ thể thuộc hệ thống chính trị và khu vực bên ngoài hệ thống chính trị. Chẳng hạn, nhà nước ban hành các quy tắc, quy định cho biến đổi xã hội; trong khi xã hội xác định rõ lợi ích và hành động tập thể để thúc đẩy biến đổi xã hội theo hướng tích cực. Như vậy, quản lý biến đổi xã hội là đem những tác động của thể chế chính sách, của các nhân tố điều kiện vào đối tượng sao cho đủ sức kích thích tích cực, phát triển đồng thời ngăn chặn hoặc ít ra cũng làm giảm thiểu mặt tiêu cực, thoái triển[11]. Nếu như vào giữa thế kỷ XIX, A.Comte cho rằng, biến đổi xã hội là: chắc chắn xảy ra; sẽ theo một con đường phát triển; những tiến bộ đương nhiên hướng tới một xã hội tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay sự đồng nhất biến đổi xã hội với tiến bộ xã hội không còn đúng nữa. Với sự xuất hiện của quá trình "hiện đại hóa tự phát" của các xã hội công nghiệp tiên tiến đang ngày càng được đặc trưng bởi sự không chắc chắn hoặc rủi ro thường xuyên phát sinh. Điều này vẫn còn là một câu hỏi lớn cho đến khi nào các nhà xã hội học có thể khởi động hoặc kiểm soát một cách vững chắc sự biến đổi xã hội theo những định hướng mà toàn bộ xã hội mong đợi[12]. Ngày nay quá trình hiện đại hóa là xu hướng thống lĩnh xã hội đã và đang làm thay đổi thang bậc giá trị, chuẩn mực trong xã hội, nhiều giá trị và quy tắc được định hướng và xác lập trong quá khứ nhưng không còn được chấp nhận trong thời kỳ hiện đại và ngược lại. Xã hội Việt Nam đang diễn ra quá trình biến đổi xã hội nhanh chóng và sự vận động phức tạp khó lường. Điều này đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi mô hình, phương thức quản lý xã hội từ truyền thống sang hiện đại. Để đảm bảo sự biến đổi đúng định hướng cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của mọi giai tầng xã hội một cách chủ động, sáng tạo, dựa trên nền tảng tri thức khoa học và nhìn thẳng vào sự thật xã hội. Có thể dễ nhận thấy ở cấp độ vi mô, có nhiều biến đổi tích cực hơn là ở cấp độ trung và vĩ mô; biến đổi xã hội ở tầm ngắn hạn có nhiều biểu hiện tích cực hơn là nhìn biến đổi xã hội trong chiều cạnh dài hạn; so sánh sự biến đổi xã hội trước 1986 so với giai đoạn hiện nay có nhiều thay đổi nhanh chóng, tích cực nhưng so với yêu cầu của thực tiễn và so với các quốc gia có cùng điều kiện tương tự thì chúng ta lại thấy sự biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn đề[13]. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường các hoạt động quản lý biến đổi xã hội.

Để tăng cường tính chủ động, hiệu quả và hiệu lực của quản lý biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay, cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, hoạch định và thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước phải hết sức chú ý tới vấn đề biến đổi xã hội, hướng tới quản lý biến đổi xã hội. Do biến đổi xã hội luôn có tầm quan trọng chiến lược, làm thay đổi nhận thức từ chủ thể lãnh đạo, quản lý, có thẩm quyền ra các quyết sách, đường lối và chính sách. Biến đổi xã hội có ý nghĩa sâu xa và to lớn hơn, ở chỗ, mọi chính sách phải hướng tới phục vụ lợi ích và phát triển các tiềm năng sáng tạo của con người, coi con người là mục tiêu và động lực của đổi mới và phát triển, do đó con người trở thành tiêu điểm của mọi chính sách. Vì vậy, trong hoạt động quản lý biến đổi xã hội cần chú trọng tới lợi ích và nhu cầu của xã hội. Tức là chú trọng tới nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất và của phát triển xã hội nói chung. Muốn vậy, trước hết cần phải có sự thay đổi trong nhận thức  việc hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng và điều chỉnh chính sách, luật pháp, cơ chế quản lý của Nhà nước phải hướng tới phát triển, theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững.

Hai là, quản lý biến đổi xã hội được thực hiện đồng bộ bởi hệ thống chính trị và bên ngoài hệ thống chính trị. Muốn hoạt động quản lý biến đổi xã hội tốt cần đảm bảo các yêu cầu:1)Tầm nhìn; 2) Những giá trị cốt lõi (mục tiêu); 3) Hành động và chương trình hành động; 4) Chủ thể tổ chức thực hiện; 5) Lực lượng xã hội tham gia (đó là cộng đồng xã hội); 6) Những điều kiện thúc đẩy hỗ trợ phát triển; 7) Hiệu ứng xã hội, hiệu quả, kết quả để thụ hưởng, để tiếp tục tái sinh sự phát triển theo hướng tiến bộ, tích cực[14].

Ba là, đẩy mạnh việc hoàn thiện các công cụ quản lý biến đổi xã hội phù hợp với đối tượng chịu sự tác động của biến đổi xã hội. Công cụ tác động tới quản lý biến đổi xã hội là thể chế, thiết chế, chính sách…Còn đối tượng tiếp nhận biến đổi, hoặc được thụ hưởng lợi ích từ những biến đổi xã hội tích cực hoặc phải chịu những thiệt hại từ những biến đổi xã hội tiêu cực là con người, nhóm xã hội, cộng đồng hoặc toàn bộ xã hội. Một yêu cầu đặt ra để xử lý tốt mối quan hệ này là cần xem xét những biến đổi xã hội từ phương diện con người - hoạt động và chính sách là xem xét sự vận động, tác động qua lại giữa chủ thể - đối tượng và đối tượng - chủ thể[15]. Trên cơ sở đó, tập trung vào xây dựng khuôn khổ pháp lý để bảo vệ quyền của các nhóm xã hội; phát triển khuôn khổ pháp lý; thúc đẩy tiếng nói và trách nhiệm giải trình; tiếp cận công lý, bảo trợ xã hội, phát triển ngành; phân tầng xã hội, cơ động xã hội, di chuyển dân cư, dịch chuyển lao động... 

Bốn là, biến đổi xã hội theo nghĩa lành mạnh, tích cực không thể không diễn ra tự phát mà phải được chủ động kiến tạo và phải thực sự là đối tượng của quản lý xã hội. Vì vậy, quản lý biến đổi xã hội cần được thực hiện thông qua hệ thống kiểm soát biến đổi xã hội trên tất cả các cấp độ, lĩnh vực; quản lý sự biến đổi xã hội ở từng thành phần của hệ thống xã hội và mối quan hệ giữa các thành phần; trong điều kiện bình thường và không bình thường.  Cụ thể, hệ thống kiểm soát biến đổi xã hội bao gồm: hệ thống kiểm soát biến đổi dân số, biến đổi môi trường tự nhiên, biến đổi về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, công nghệ và kỹ thuật, tôn giáo…

Năm là, quản lý biến đổi xã hội là một đòi hỏi tất yếu khách quan, nhằm đưa sự biến đổi xã hội đi vào quỹ đạo tiến bộ xã hội, tích cực, công bằng. Trong đó con người được giải phóng được phát triển toàn diện. Trình độ quản lý biến đổi xã hội phản ánh trình độ phát triển xã hội của một quốc gia dân tộc. Do đó, phải quản lý biến đổi xã hội dựa trên nguyên tắc vì con người, vì sự phát triển xã hội hài hòa, bền vững.

Tóm lại, biến đổi xã hội ở Việt Nam sẽ vận động theo hướng tích cực nếu như được hiện thực hóa thành công những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và môi trường. Đồng thời, tạo ra được một cơ chế dân chủ để mọi chủ thể trong xã hội có thể tham gia kiểm soát được quá trình biến đổi xã hội, xây dựng hệ thống tiêu chí khách quan và toàn diện trong đánh giá biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội chỉ diễn ra theo hướng tích cực nếu như thực hiện được tính toàn diện và tính đồng bộ, do lực lượng xã hội tiến bộ tác động, cùng với những điều kiện tích cực cho sự phát triển.

5.2. Quản lý phát triển xã hội

Tổng kết cho thấy hiện nay trên thế giới có 5 mô hình phát triển xấu, đó là: 1) Tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ xã hội; 2)Tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa nhưng lại dẫn đến sự tàn lụi của nông nghiệp và nông thôn; 3) Tăng trưởng kinh tế nhưng quần chúng lao động không có quyền làm chủ; 4) Tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức suy đồi; 5) Tăng trưởng kinh tế nhưng môi trường suy thoái, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ[16]. Điều này đặt ra yêu cầu là cần phải thực hiện tốt quá trình quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam.

 Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến các khách thể (con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội,...) nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững[17]. Có thể hiểu quản lý phát triển xã hội là sự tác động và tương tác có định hướng, có tổ chức giữa chủ thể quản lý (Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức xã hội; cộng đồng, người dân) đến khách thể (con người, nhóm xã hội, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, cấu trúc xã hội, chức năng xã hội, thiết chế xã hội...) nhằm mục tiêu phát triển xã hội nhanh, hài hòa và bền vững. Thực chất là quản lý phát triển xã hội là quản lý xã hội hướng tới sự phát triển, vì các giá trị con người, do con người. Quản lý phát triển xã hội là nhằm hướng đến sự tác động tích cực đời sống xã hội, điều tiết các quan hệ xã hội, hoàn thiện các thiết chế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo đảm cho con người phát triển toàn diện. Quản lý phát triển xã hội lấy con người làm điểm xuất phát, dựa trên quyền con người, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người, vì sự phát triển hài hòa và bền vững của xã hội.

Khái niệm “quản lý phát triển xã hội” lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào Văn kiện Đại hội XI, thể hiện cách tiếp cận mới trong quản trị đất nước. Điều này xuất phát từ nhu cầu quản lý phát triển xã hội chưa đồng bộ với quản lý phát triển các phân hệ - lĩnh vực khác của đời sống; xuất phát từ tính đặc thù của lĩnh vực xã hội không hoàn toàn áp dụng các phương pháp quản lý hành chính hay tuân theo quy luật của thị trường đầy đủ, mà bị chi phối rất lớn của các thể chế phi chính thức. Quản lý phát triển xã hội là một cấu trúc đa dạng, ở chiều cạnh này có khi bị điều chỉnh bởi thể chế chính thức, còn ở chiều cạnh khác lại chịu điều chỉnh bởi các thể chế phi chính thức; có chiều cạnh mang nội dung kinh tế, chịu điều chỉnh bởi quan hệ thị trường không đầy đủ, nhưng nội dung khác lại mang tính phi kinh tế chịu điều chỉnh bởi giá trị văn hóa, đạo đức[18]

Chủ thể quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, gồm: nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng và nhân dân. Trong đó, nhà nước là chủ thể quan trọng của quản lý phát triển xã hội có trách nhiệm hoạch định thể chế, chiến lược, kế hoạch cho phát triển xã hội; bảo đảm cho mọi thành viên xã hội bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực và phát huy cao nhất năng lực của mình; điều tiết các mất cân đối do thị trường tạo ra; trực tiếp chăm lo và dẫn dắt ở những khâu mà thị trường không làm; hỗ trợ phát triển các đối tượng, cộng đồng, vùng, miền thua thiệt về cơ hội phát triển; khuyến khích tư nhân và cộng đồng tham gia phát triển xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng đa dạng khác là chủ thể nòng cốt của quản lý phát triển xã hội. Nhân dân là chủ thể quyết định của quản lý phát triển xã hội. Đối tác của các chủ thể quản lý phát triển xã hội là doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội và gia đình[19].

Về phương thức, quản lý phát triển xã hội là đa dạng linh hoạt phù hợp với nhu cầu, mục tiêu và thực tiễn của quản lý xã hội. Do tính đa dạng của chủ thể và đối tác tham gia đã dẫn tới sự đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho quản lý phát triển xã hội. Và từ sự đa dạng hóa chủ thể, đối tác tham dự và nguồn lực tài chính tất yếu phải đa dạng hóa phương thức tổ chức quản lý phát triển xã hội.

Về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng và bảo vệ; gia đình là tế bào xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển.

Về mục tiêu, quản lý phát triển xã hội phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển; theo dõi biến đổi cấu trúc giai tầng xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp đối thoại, thương lượng; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật; đề cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội là nền tảng để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Về chức năng, quản lý phát triển xã hội bao gồm 5 điểm: hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra và điều chỉnh.

c). Các giải pháp thúc đẩy quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam:

Một là, kiên trì thực hiện các nguyên tắc chính trị của quản lý phát triển xã hội:

1. Cán bộ công chức và cơ quan công quyền có tinh thần trách nhiệm công vụ, tính đại diện và có trách nhiệm giải trình.

2.Đòi hỏi một xã hội có sự hiện diện của các tổ chức xã hội, thực sự đại diện cho tiếng nói và lợi ích của mọi giai tầng xã hội.

3. Đòi hỏi các thể chế/thiết chế xã hội tốt - bộ các quy tắc quy định hành động của các cá nhân, nhóm xã hội và các tổ chức; cũng như sự đàm phán, thỏa thuận trong việc giải quyết các khác biệt, xung đột giữa họ với nhau.

4. Đòi hỏi việc tuân thủ pháp luật là tối cao, mọi quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật, quyền lực thật sự được giám sát. Duy trì hệ thống pháp luật đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, nghiêm minh và công bằng.

5. Đòi hỏi mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền. Cơ quan công quyền ngày càng ít dung quyền lực để giải quyết các mâu thuẫn xung đột xã hôi. Nhấn mạnh cách tiếp cận có sự tham gia rộng rãi đối với việc cung cấp dịch vụ công.

Hai là, kiên trì thực hiện các nguyên tắc kinh tế của quản lý phát triển xã hội:

1. Quản lý sự phát triển xã hội tốt đòi hỏi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có cơ sở rộng, khu vực tư nhân năng động và các chính sách xã hội giúp cho việc xóa đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế sẽ là tốt nhất trong một nền kinh tế dựa trên thị trường, công bằng bình đẳng và hiệu quả.

2. Tập trung đầu tư vào con người là ưu tiên cao nhất thông qua các chính sách và thể chế giúp tăng khả năng tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội cơ bản khác là nền tảng phát huy vai trò nguồn lực con người của đất nước.

3. Hoàn thiện các thể chế/thiết chế xã hội hướng tới hiệu quả và quản trị xã hội tốt là điều rất cần thiết để hỗ trợ sự phát triển khu vực tư nhân có tính cạnh tranh cao. Đặc biệt, để thị trường vận hành tốt cần có các giá trị, chuẩn mực xã hội tôn trọng hợp đồng và quyền sở hữu tài sản.

4. Quản lý có trách nhiệm, hiệu quả nền kinh tế quốc dân có tính chất sống còn nhằm tối đa hóa tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.

Ba là, kiên trì định hướng phát triển xã hội theo hướng nhân văn, lấy con người làm trung tâm, xem phát triển con người vừa là mục tiêu cao nhất vừa là động lực to lớn nhất của tiến trình đổi mới ở nước ta. Xây dựng một cấu trúc xã hội thống nhất trong đa dạng dựa trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội. Phát huy quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

 Bốn là, thường xuyên đổi mới tư duy lý luận về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Thực hiện cấu trúc hóa hệ thống phát triển xã hội thích ứng với điều kiện một nước bước vào ngưỡng thu nhập mức trung bình. Đồng thời, cấu trúc lại mô hình tăng trưởng kinh tế, phát triển chính trị và văn hóa với chức năng tạo động lực cho phát triển xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chức năng xã hội của Nhà nước phù hợp với điều kiện thể chế kinh tế thị trường. Nhận diện kịp thời những giới hạn của thị trường và khả năng vận dụng quy luật thị trường vào quản lý phát triển xã hội.

Năm là, thực hiện đa dạng hóa các chủ thể tham gia quản lý phát triển xã hội. Tạo cơ hội tiếp cận công bằng và nâng cao năng lực cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là các nhóm yếu thế có tiếng nói thực sự trong hoạt động quản lý phát triển xã hội.

Sáu là, thực hiện phương pháp tổng tích hợp trong quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển xã hội và phát triển kinh tế; thống nhất giữa môi trường tự nhiên với phát triển xã hội; thống nhất giữa thể chế chính trị với phát triển xã hội…là những vấn đề mấu chốt của việc đảm bảo tính hiệu quả quản lý phát triển xã hội.

5.3. Quản lý các vấn đề xã hội

Các vấn đề xã hội nảy sinh từ những hệ quả của quá trình phát triển kinh tế-xã hội quá nhanh chóng, mất cân bằng, thiếu bền vững, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của con người và xã hội. Do vậy, giải quyết vấn đề hội chính nhằm bảo đảm sự ổn định cho quá trình chuyển hoá tăng trưởng kinh tế thành phát triển bền vững theo hướng tiến bộ công bằng hội. Tăng trưởng kinh tế, mạnh mẽ đến đâu cũng không thể tự động trực tiếp giải quyết được các vấn đề hội[20]. Do đó, tập trung quản lý, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội là một trong những nét đặc trưng của con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là con đường phát triển dựa vào con người và hướng đến con người. Nó cũng là một đặc điểm bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế[21].

Các vấn đề xã hội là hệ quả song hành với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, và thường là những hiện tượng xã hội rất phức tạp, nan giải mà bất kỳ một quốc gia dân tộc nào dù phát triển hoặc chưa phát triển cũng có thể phải đối mặt. Thực tế cho thấy, các vấn đề xã hội cũ đang có xu hướng trỗi dậy và gia tăng. Đồng thời, các vấn đề xã hội mới ngày càng xuất hiện. Sự gia tăng tác động tiêu cực của các vấn đề hội đang những thách thức cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm chậm lại quá trình phát triển của hội. Chính vì vậy, quản lý và giải quyết các vấn đề hội phải trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, nhà nước hội Việt Nam. Song để đạt mục tiêu này, một yêu cầu đặt ra là cần phải được dự báo các vấn đề xã hội một cách kịp thời, chính xác đưa chương trình nghị sự chung của quốc gia. Muốn vậy, vấn đề xã hội cần được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự của Đảng và Nhà nước[22]. Để đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực trong quản lý các vấn đề xã hội đòi hỏi cần phải xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ, kịp thời, thích hợp và khả thi. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) đã nhấn mạnh mục tiêu: Phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt vấn đề xã hội; giải quyết tốt các vấn đề xã hội là tạo ra động lực cho sự phát triển xã hội hài hòa, bền vững[23]. Để tăng cường công tác quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội một cách chủ động, hiệu quả hơn, cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, về mặt quan điểm, nhận thức cần phải chấp nhận “vấn đề xã hội” sẽ còn tồn tại với xã hội trong quá trình phát triển. Đồng thời, thực tế cho thấy các nguyên nhân tạo ra chúng ngày một tinh vi, phức tạp thêm. Không thể có một xã hội mà không có vấn đề xã hội, nhưng cần phải xây dựng một xã hội có đủ năng lực giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Do vậy, Việt Nam cần phải hướng đến mục tiêu là kiểm soát, giảm thiểu tác động tiêu cực của vấn đề xã hội. Trên cơ sở tiếp cận giải quyết các vấn đề xã hội trong mối tương quan giữa sự vận động, tái cấu trúc nền kinh tế với sự vận động, tái cấu trúc xã hội.

Hai là, cần thúc đẩy quá trình xây dựng hoặc cập nhật, vận dụng sáng tạo những quan điểm mới, thuyết mới cho hệ thống luận của Đảng và Nhà nước trong giải quyết vấn đề hội. Thực tiễn cho thấy đã đến lúc chúng ta phải dũng cảm thay thế những quan điểm lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp, không thể sử dụng để giải thích và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, cần phải chủ động tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi của đội ngũ cán bộ và các giai tầng xã hội đối với các vấn đề xã hội.

Ba, tiếp tục kiện toàn và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng tinh gọn về bộ máy; thống nhất, đồng bộ về nguồn lực, mục tiêu; chia sẻ về dữ liệu thông tin nhằm giải quyết kịp thời, chính xác và hiệu quả hơn các vấn đề xã hội.  

Bốn là, tăng cường lượng hoá tiêu chí, áp dụng các công nghệ quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng từng bước hội nhập với thế giới. Các tiêu chí và công nghệ tiếp cận phải bám sát những yêu cầu của chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, việc đổi mới xây dựng chỉ tiêu liên quan đến các vấn đề xã hội cần thực hiên một cách có chọn lọc, phù hợp với bối cảnh điều kiện của Việt Nam. Việc lượng hoá các tiêu chí, áp dụng công nghệ quản lý giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng từng bước tiếp cận với thế giới là tiền đề cần thiết; tạo cơ sở khoa học cho việc đổi mới nhận thức và phương pháp hoạch định, triển khai quản lý giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng chủ động, hiệu lực và hiệu quả hơn.

Năm là, xác lập mối liên hệ giữa phương thức quản hội bằng pháp luật với nắm bắt quy luật kinh tế thị trườngnhững vấn đề hội, hướng tới phát triền bền vững sự lựa chọn duy lý và mang tính tổng tích hợp. Do đó, đẩy mạnh việc thể chế hoá hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý các vấn đề xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề thể chế hóa các văn bản sẽ thúc đẩy công tác quản lý các vấn đề xã hội bằng pháp luật cần phải được đẩy manh.

Sáu là, tiếp tục xây dựng phát triển các nguồn lực cho việc quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội. Trước tiên phải tăng cường đầu tư các nguồn lực của Nhà nước và cần phải được xem xét là sự đầu tư cho mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của các nguồn lực thông qua việc thực hiện xã hội hóa quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà nước giữ vai trò định hướng, “đặt hàng” các doanh nghiệp, tổ chức xã hội thực hiện một số lĩnh vực thay các cơ quan hành chính Nhà nước hiện vẫn đang điều hành, quản lý và chịu trách nhiệm. Đó cũng là một hướng đột phá trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả đối với việc quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội.

Bảy, trong chương trình nghiên cứu và đào tạo của các trường Đại học và Viện nghiên cứu có liên quan cần phải thể hiện tư duy “mở”, đa dạng hóa quan điểm tiếp cận khoa học và hành động can thiệp. Vấn đề đặt ra là cần phát triển các chuyên ngành khoa học xã hội, trong đó có xã hội học để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định cuộc sống, bảo vệ con người trước những cú sốc của một xã hội đang ngày càng biến đổi nhanh và phức tạp. Do vậy, các kết quả nghiên cứu khoa học phải đáp ứng được nhu cầu nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi can thiệp về  vấn đề xã hội. Cần phải tăng cường các phương pháp tiếp cận khoa học, phương pháp dự báo vấn đề xã hội gắn liền với quy luật vận động, hệ quả của quá trình phát triển kinh tế-xã hội[24].

Những vấn đề xã hội ở Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng phức tạp hơn, phạm vi lan tỏa rộng hơn, tác nhân tham gia đa dạng hơn, hệ quả xã hội lớn hơn…Vì vậy,các vấn đề hội cần được chú ý nhận diện xử giải quyết trên quan điểm của tư duy hệ thống, trong xu hướng vận động, biến đổi phát triển không ngừng của xã hội. Và do đó, đòi hỏi phải phối hợp nhiều lực lượng tham gia, cũng như phải khoa học hơn, nhiều nguồn lực và vì con người hơn mới có khả năng ngăn ngừa và ứng phó có hiệu quả. Những biểu hiện của các vấn đề xã hội đòi hỏi hoạt động quản lý xã hội phải có khả năng định hình phương thức ứng phó và quản lý mới, kịp thời, phù hợp và hiệu quả.

5.4. Quản lý tình huống bất thường

Quản lý tình huống bất thường là quá trình chủ động và thực hiện hiệu quả các mục tiêu của các chủ thể quản lý xã hội: 1) Đương đầu với thực tế; 2) Bình tĩnh xây dựng kế hoạch, tìm biện pháp khả thi, thực hiện mọi cách để giản thiểu hậu quả và ngăn chặn không cho bất thường lan nhanh hay kéo dài: 3) Chia sẽ thông tin; 4) Phân tích sâu gốc rễ các vấn đề; 5) Sẵn sàng đón nhận hậu quả xấu; 6) Tranh thủ cơ hội tốt; 7) Ra quyết định kịp thời, hiệu quả; 8) Ổn định và phát triển sau tình huống bất thường.

Việc nhận diện chính xác các tình huống bất thường trong thực tế, nghiên cứu các hệ lụy do chúng gây ra và đề xuất một số vấn đề về quản lý xã hội đối với các tình huống đó là điều hết sức cần thiết, đặc biệt trong tình hình hiện nay[25]. Việc ngăn ngừa tác hại của các tình huống bất thường phụ thuộc vào các yếu tố như tính cộng đồng, kinh nghiệm, năng lực tổ chức quản lý và tiềm năng vật chất, kỹ thuật của nhà nước. Để chủ động, đảm bảo tính hiệu quả trong quản lý tình huống bất thường cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, cần có quan điểm rõ ràng để ngăn chặn các tình huống bất thường trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, từ đó làm cơ sở cho việc huy động mọi nguồn lực xã hội, trong nước và quốc tế nhằm chủ động phòng ngừa, quản lý hiệu quả tình huống bất thường.

Hai là, các khoa học có liên quan cần đưa tình huống bất thường trở thành đối tượng nghiên cứu của mình. Trong đó, khoa học quản lý xã hội cần xác định đối tượng nghiên cứu chính là các tình huống bất thường và kết quả nghiên cứu là nhằm phục vụ quản lý các tình huống bất thường ngày càng chủ động, hiệu quả. Việc tăng cường nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ sẽ giúp chủ động, hiệu quả hơn trong dự báo, kiểm soát, phòng ngừa các tình huống bất thường trong tự nhiên và xã hội.

Ba là, thực hiện tốt việc phân loại các tình huống bất thường để chủ động quản lý. Bởi vì, các tình huống bất thường có chung một đặc điểm là gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội; nhưng có sự khác nhau ở nguyên nhân, diễn biến, khác nhau ở môi trường, không gian xuất hiện...Do đó, cần thiết phải phân loại để có sự chủ động ứng phó dưới dạng nhận biết, chuẩn bị và đề ra các giải pháp ứng phó. Trên cơ sở đó, các chủ thể quản lý kịp thời thực hiện các biện pháp quản lý xã hội phù hợp, đạt hiệu quả cao[26].

Bốn là, cần thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của xã hội để thích nghi với các tình huống bất thường. Chủ động thông tin và trung thực về thông tin trong tình huống bất thường là một yêu cầu quan trọng. Thông tin về tình huống bất thường cần được đưa ra kịp thời, không né tránh, không phỏng đoán và tránh những thông tin gây hiệu ứng tiêu cực. Khi các vụ việc bất thường xảy ra, đại diện các cơ quan chức năng trả lời truyền thông, báo chí cần lựa chọn các thông điệp khách quan, khoa học và trung tính.

Năm là, các chủ thể liên quan đến hoạt động quản lý xã hội phải có một tầm nhìn xa và hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các tình huống bất thường. Chủ thể quản lý xã hội, nhất là Nhà nước cần tăng cường các hoạt động truyền thông, nâng cao năng lực, kỹ năng cho người dân ứng phó với các tình huống bất thường. Thông qua đó tang cường sự hiểu biết, kỹ năng, thúc đẩy các nhóm xã hội/địa phương thoát khỏi tình huống bất thường.

Sáu là, cần nghiên cứu, ban hành và thực hiện một hệ thống pháp luật quy định về trách nhiệm và năng lực quản lý tình huống bất thường chặt chẽ và hiệu quả. Căn cứ của hoạt động quản lý tình huống bất thường là nhà nước phải là khung thể chế thông qua hệ thống pháp luật. Hệ thống các quy phạm cần được đặt ra một cách đồng bộ, kịp thời, bắt đầu từ khung thể chế trong Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm hành chính[27].

Bảy là, nghiên cứu xây dựng phát triển cơ quan, tổ chức chuyên trách và chuyên nghiệp có chức năng ứng phó với tình huống bất thường; đầu tư thỏa đáng các nguồn lực, trang thiết bị công nghệ hiện đại cho hoạt động ứng phó với tình huống bất thường. Thường xuyên thực hiện nghiên cứu khoa học, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm từ các tình huống bất thường đã xảy ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), Báo cáo Tổng hợp: Tổng kết lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới trong việc giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

2.      Đặng Nguyên Anh (chủ biên-2016), Biến đổi xã hội ở Việt Nam: truyền thống và hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

3.      Hoàng Chí Bảo (2008), Biến đổi xã hội ở Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới, VNH3.TB6.798.

4.      Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (2012), Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay vận dụng cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5.      Bùi Quang Dũng (2013), Xã hội học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6.      Phạm Đi (2018), Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb CTQG-Sự thật.

7.      Phạm Đi (2016), Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb DDHGQ TP.HCM.

8.      Phạm Đi (2019), Sự biến đổi trong đời sống xã hội Trung Quốc, Nxb Lý luận chính trị.

9.      Phạm Đi (2019), Phát triển kỹ năng lãnh đạo – một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. G.Endruweit&G.Trommsdorff (2002), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

12. Đoàn Minh Huấn (2016), Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, Tạp chí cộng sản điện tử http://www.tapchicongsan.org.vn/

13. Lê Ngọc Hùng (2009), Xã hội học giáo dục, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Lê Ngọc Hùng (2010), Các cấp độ và xu hướng biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ xã hội học, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 4.

15. Lê Ngọc Hùng (2010), Xã hội học về lãnh đạo, quản lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Lê Ngọc Hùng (2017), Từ quản trị và quản lý tiến đến nghiên cứu phát triển quản trị, quản lý xã hội, Bản tin Nghiên cứu Xã hội học, số 1.

17. Đặng Cảnh Khanh (2007), Khắc phục đầy đủ và toàn diện các sai lệch xã hội, Tạp chí cộng sản điện tử http://www.tapchicongsan.org.vn/.

18. Nguyễn Mạnh Kháng và các cộng sự (2009), Một số vấn đề lý luận về quản lý xã hội trong những tình huống bất thường, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 

19. Nguyễn Hữu Khiển (2016), Các tình huống bất thường - thực trạng và định hướng trong quản lý nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước điện tử http://tcnn.vn.

20. Vũ Mạnh Lợi (2012), Bàn về mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 4.

21. Trịnh Duy Luân (2003), Nghiên cứu những vấn đề biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Xã hội học, số 2.

22. Phạm Xuân Nam (2002), Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Vũ Hào Quang (2002), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Đỗ Văn Quân (2015), Các vấn đề xã hội ở Việt Nam hiện nay: nhận thức và hành động, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị, số 11.

25. Phan Xuân Sơn (2015), Phát triển xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5

26. Nguyễn Văn Thâm (2014), Một số vấn đề về quản lý xã hội đối với tình huống bất thường, Tạp chí Khoa học-Công nghệ Việt Nam, số 6.

27. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

28. Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đỗ Hoàng Toàn (2006),Giáo trình quản lý xã hội, Nxb Khoa học Kỹ thuật,Hà Nội.

30. Nguyễn Thanh Tuấn (2012), Giải quyết các vấn đề xã hội cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản điện tử.http://www.tapchicongsan.org.vn

 



[1] Gunter Endruweit, Gisela Trommsdorff, Từ điển Xã hội học (Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bảo dịch), Nhà xuất bản Thế giới. H.2002, tr.552-554.

[2] J. Shepard và H. Voss, Vấn đề xã hội ở Mỹ, Nhà xuất bản nhân dân Sơn Tây, Thái Nguyên (Bản tiếng Trung), năm 1987, trang 5.

[3] Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb CTQG-Sự thật, H.2018, tr7-10.

[4] Vũ Hào Quang, Xã hội học quản lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2001, tr.106.

[5] Chẳng hạn, sau vấn đề xung quanh trạm thu phí BOT Cai Lạy (Tiền Giang), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc quyết định tạm dừng thu phí qua trạm này từ 1-2 tháng để Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành liên quan tiếp tục làm rõ mọi vấn đề, đồng thời đề xuất phương án trên cơ sở khoa học và phù hợp thực tiễn. Thủ tướng nhấn mạnh, có những vấn đề đúng pháp luật, đúng quy trình nhưng không phù hợp thực tiễn, không hợp lòng dân thì chúng ta vẫn phải nghiêm túc lắng nghe, cầu thị tiếp thu để sửa chữa. Xem thêm: https://thanhnien.vn/thoi-su/thu-tuong-yeu-cau-tam-dung-thu-phi-bot-cai-lay-1-thang-906395.html . Cập nhật ngày 1 tháng 1 năm 2018.

[6] Chủ cơ sở mần non Mần Xanh đã bị khởi tố khi có hành vi hành hạ trẻ em. Tham kiếm: https://tuoitre.vn/bat-chu-co-so-mam-non-mam-xanh-hanh-ha-tre-20171128094449476.htm. Cập nhật ngày 5 tháng 1 năm 2018.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 75

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr 126

[9] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2016), Biến đổi xã hội ở Việt Nam: truyền thống và hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,tr 527.

[10] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2016), sđd, tr 528.

[11] Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.

[12] Trịnh Duy Luân (2003), tài liệu đã dẫn, tr 5.

[13] Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.

[14] Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.

[15] Hoàng Chí Bảo (2008), tài liệu đã dẫn.

[16] Phạm Xuân Nam (2002), Triết lý phát triển ở Việt Nam: Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[17] Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[18] Đoàn Minh Huấn (2016), tài liệu đã dẫn.

[19] Đoàn Minh Huấn (2016), tài liệu đã dẫn.

[20] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.

[21] Nguyễn Thanh Tuấn (2012), Giải quyết các vấn đề xã hội cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản điện tử.http://www.tapchicongsan.org.vn

[22] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), sđd.

[24] Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2013), tài liệu đã dẫn.

[25] Nguyễn Văn Thâm (2014), tài liệu đã dẫn, tr 59.

[26] Nguyễn Văn Thâm (2014), tài liệu đã dẫn, tr 59.

[27] Nguyễn Hữu Khiển (2016), Các tình huống bất thường - thực trạng và định hướng trong quản lý nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước điện tử http://tcnn.vn

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ