VAI TRÒ VÀ XUNG ĐỘT VAI TRÒ

 

VAI TRÒ VÀ XUNG ĐỘT VAI TRÒ

TỪ THỰC HIỆN VAI TRÒ…..

Đời sống hiện thực hết sức phong phú và đa dạng, mỗi một cá nhân trong xã hội, trong suốt cuộc đời của mình, luôn thiết lập và duy trì rất nhiều các mối quan hệ và tạo nên một mạng lưới xã hội. Mỗi một vị trí xã hội có những hành vi xã hội tương ứng khác nhau, cũng có nghĩa là cần phải đóng những “vai” khác nhau. Tất cả những vai trò đó ở một cá nhân cụ thể được gọi là “cụm vai trò”. Trong đời sống xã hội, mỗi một vị thế xã hội thì cá nhân cần phải đóng nhiều vai, tất cả những vai trò đó được gọi là “nhóm vai trò”, tập hợp các vai trò. Mỗi thành viên trong xã hội có mối quan hệ và phương thức hành vi để giao tế với các cá nhân khác. Do đó, tính đối ứng chính là đặc trưng cơ bản của vai trò xã hội (không ai tương tác vào chân không), bất kỳ một loại vai trò nào cũng không thể tồn tại một cách đơn độc, bất kỳ một cá nhân nào cũng không thể “tự thực hiện” vai trò của mình một cách riêng lẽ khi không tương tác với cá nhân khác và cũng không chỉ thực hiện duy nhất một vai trò. Nói cách khác, cá nhân thực hiện rất nhiều các vai trò, cụm vai trò hay nhóm vai trò. Nhóm vai trò gồm hai loại: thứ nhất, rất nhiều vai trò tập trung ở một cá nhân cụ thể; thứ hai, các vai trò tồn tại tương hỗ nhau, tức là mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Mỗi một lĩnh vực của đời sống xã hội biểu hiện những vai trò khác nhau, đối tượng tương tác cũng không giống nhau, các tương tác qua lại này hình thành nên các nhóm vai trò và, thông qua tương tác (trong một môi trường nhất định, lĩnh vực nhất định, thời gian nhất định) sẽ dần hình thành nên các quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội nhất định.

Ví dụ, một nữ giáo viên khi đóng vai của một người vợ (đối với chồng cô ta) thì trong sự kỳ vọng của chồng thì cô là một người vợ đảm đang; đối với kỳ vọng của các con (khi đóng vai người mẹ) là một người mẹ hiền; đối với ba mẹ cô ta mà nói thì là một đứa con gái đáng yêu; đối với tổ chức công đoàn nơi cô công tác là một đoàn viên gương mẫu; đối với bộ môn cô giảng dạy là một giảng viên giỏi giang, biết giúp đỡ đồng nghiệp, đối với chi bộ nơi cô công tác thì một đảng viên (hoặc bí thư chi bộ) mẫu mực; đối với học sinh thì cô là một thần tượng,…Toàn bộ những vai trò đó xoay quanh người nữ giáo viên này và buộc cô phải đóng những vai trò tương thích: người mẹ, người vợ, người giáo viên, đoàn viên công đoàn, đảng viên,…

Quan hệ giữa cá nhân và vai trò có thể khái quát ở hai phương diện: (1) hành vi của cá nhân khi đóng các vai trò (nhóm vai trò) xã hội như thế nào phản ánh cá nhân đó tham gia vào các tổ chức, thiết chế, loại nghề nghiệp mà cá nhân đó tham gia; (2) cá nhân là những người tham gia đóng vai, vai trò xã hội là tương đối cố định nhưng người đóng vai trò đó lại luôn thay đổi, di động; mỗi một vai trò có thể do nhiều người thực hiện, và một người thực hiện nhiều vai trò[1].

Đóng vai (hay thực hiện vai trò) tức là quá trình mà cá nhân thực hiện các vai trò xã hội của mình. Nói cách khác, đó là quá trình mà cá nhân thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình thông qua các khuôn mẫu hành vi của từng nhóm vai trò. Bước đầu tiên khi đóng một vai trò xã hội là hiểu được vai trò đó, tức là biết được mình đang đóng vai trò gì, đóng như thế nào bởi vai trò mà cá nhân phải đóng là kết quả của ý thức tự giác từ phía cá nhân cùng với sự kỳ vọng của xã hội. Khi một cá nhân tham gia vào mạng lưới xã hội đều phải biết rằng mình “chiếm hữu” các vai trò nào, vị thế xã hội của mình ở đâu, đó cũng chính là xuất phát điểm của cá nhân trong đời sống xã hội. Tiếp đến, cá nhân phải thao tác hóa các vai trò, tức là lý giải và thể hiện các vai trò. Sau khi xác định mình đóng vai trò gì, cá nhân cần lý giải, thông hiểu nội hàm và yêu cầu của vai trò sắp đóng, chuẩn bị các điều kiện, bối cảnh, đạo cụ, thậm chí cảm hứng để “diễn vai” (cũng tương tự như một diễn viên trên sân khấu). Một vai trò được đóng “tròn vai” còn cần phải đặt trong quan hệ với các vai trò khác trong mạng lưới xã hội (cùng với cá nhân khác), bởi vai trò luôn thực hiện cùng với sự tương tác. Nhân tố nội tại quyết định đến vai trò của cá nhân chính là bản chất đặc trưng của vai trò đó, chẳng hạn kỹ năng nghề nghiệp, năng lực, tri thức.

….ĐẾN  XUNG ĐỘT VAI TRÒ

Đóng vai hay thực hiện một vai trò xã hội là quá trình hết sức phức tạp, nó yêu cầu về năng lực, kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức, lĩnh ngộ, tính tự giác, mức độ thông đạt các chuẩn mực và giá trị,… mới có thể “tròn vai”, nếu không sẽ dễ dẫn đến hiện tượng “sai vai”, “nhầm vai”, lệch lạc. Biểu hiện của “không tròn vai” hay lệch lạc xã hội khi thực hiện vai trò còn gọi là xung đột vai trò. Gọi là “xung đột vai trò” tức hàm chỉ sự không tương thích, không hài hòa, không ăn khớp giữa hành vi của chủ thể thực hiện vai trò với vai trò mà anh ta đang đóng hoặc giữa các vai trò với nhau, bao gồm hai loại xung đột là trong nội tại của một vai trò và giữa các vai trò với nhau.

Xung đột nội tại tức là xung đột giữa người thực hiện và vai trò đang đóng. Một cá nhân nào đó xuất hiện những căng thẳng, lo âu khi thực hiện vai trò tương ứng mà nguyên nhân của nó có thể: (1) sự không thống nhất giữa mong muốn cá nhân và kỳ vọng của xã hội; (2) sự không tương thích giữa năng lực cá nhân và yêu cầu của vai trò đó; (3) kỳ vọng của vai trò không tương thích hoặc không xác định rõ ràng; (4) hai hay nhiều vai trò cùng xuất hiện buộc cá nhân phải đóng cùng lúc; (5) hai vai trò có yêu cầu mang tính trái ngược nhau buộc cá nhân phải thực hiện[2]. Kết quả (thậm chí là hậu quả) xung đột vai trò nội tại gồm hai dạng: một là,  hành động không theo ý muốn của chủ thể, nhưng chủ thể cũng không thể có sự lựa chọn nào tốt hơn. Vì một nguyên nhân ngoại tại nào đó mà cá nhân đó phải thực hiện vai trò một cách bất đắc dĩ; hai là, sụp đổ vai trò, hay rút lui vai trò, tức là cá nhân không mong muốn hay bất lực khi thực hiện vai trò, không tiếp tục đóng vai trò đó trong tương lai.

Xung đột giữa các vai trò với nhau tức là có sự đối lập giữa vai trò với nhau, nó hình thành do bởi sự lý giải khác nhau của những người khác nhau đối với các vai trò khác nhau, chẳng hạn mâu thuẫn hay xung đột giữa hai vợ chồng về vai trò mà mình đóng; sự nhận thức về vai trò giữa người lãnh đạo với quần chúng nhân dân; xung đột giữa mẹ chồng và nàng dâu; xung đột giữa khách hàng và người phục vụ; xung đột giữa vai trò người thầy và người trò; giữa bác sĩ và bệnh nhân,…

Như vậy, xung đột vai trò làm cản trở, thậm chí phá hỏng các mối quan hệ, trật tự trong đời sống xã hội thường nhật. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, hạn chế hay đẩy lùi hiện tượng xung đột vai trò lại là vấn đề không đơn giản, thậm chí không có giải pháp chung cho mọi hành vi, mọi thời điểm. Lúc này đòi hỏi chủ thể cần phải ý thức rõ về vai trò mình đang (và sẽ đóng) để có thể hoặc là “rút lui vai trò”, “sáng tạo vai trò” mà điều cần thiết là cần tương tác nhiều hơn nữa với đối tượng của vai trò.

TS. Phạm Đi

(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020)



[1] Lưu ý: khi cá nhân thực hiện quá nhiều vai trong một thời điểm có thể dẫn đến xung đột vai trò, căng thẳng vai trò và từ đó phát sinh những mâu thuẫn, stress. Đây là gợi ý có giá trị cho hoạt động lãnh đạo, quản lý nhất là trong giao việc. Thực chất của giao việc là “giao vai”, con người đóng quá nhiều vai trong cùng một thời điểm sẽ khó tránh khỏi hiện tượng căng thẳng vai trò, xung đột vai trò và tất nhiên khó hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất; ngược lại, khi “đóng” quá ít vai (thậm chí không giao việc – không đóng vai nào) cũng tước đi cơ hội thực hiện nhiệm vụ, cơ hội khẳng định mình của cá nhân trong tổ chức.

[2] Ví dụ câu chuyện người mẹ chấp nhận hi sinh con để cứu mạng hàng trăm dân làng: Bà tên là Lê Thị Nghê (Năm Nghê), hiện đang sinh sống tại thôn Linh Kiều (Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam). Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, Mỹ tăng cường đánh phá ác liệt những vùng rừng núi các tỉnh Trung Trung bộ. Thượng nguồn sông Thu Bồn (Quảng Nam) lúc đó là “cái nôi cách mạng”, cũng là tâm điểm Mỹ thường xuyên tìm đến càn quét và tiêu diệt. Lúc này ngoài số dân tự sơ tán, hơn 200 người thôn Trà Linh (Quế Tân) được cán bộ và du kích xã đưa vào núi Hòn Kẽm trú ẩn. Mẹ Lê Thị Nghê cùng hai đứa con cũng vào trú ẩn trong hang. Thế nhưng đứa con nhỏ 4 tháng tuổi khát sữa cứ gào khóc dữ dội và nguy cơ địch phát hiện là rất lớn. Lúc đó bà cất giọng nghẹn ngào: “Xin con hãy tha thứ cho mẹ. Mẹ không bao giờ muốn đối xử với con như thế này. Mẹ không bao giờ bỏ con. Nhưng để cứu dân làng thì con phải ra đi, con mãi là đứa con mà mẹ yêu thương nhất. Tội cho con mới ra đời chưa được bao lâu mà bây giờ đã phải ra đi một cách đau đớn như thế này...”. Nói xong, bà lấy tay bịt miệng đứa con cho đến chết. Rõ ràng, giữa vai trò của người mẹ và vai trò của một người yêu nước muốn bảo vệ sinh mạng của cán bộ và dân làng đặt ra yêu cầu trái ngược nhau. Xét về lăng kính xã hội học, đây là đỉnh điểm của xung đột vai trò khi phải lựa chọn và thực hiện hành vi giết chính đứa con trai của mình.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ