THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở MIỀN TRUNG-TÂY NGUYÊN
PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI MIỀN TRUNG-TÂY NGUYÊN GẮN VỚI HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH AN
SINH XÃ HỘI
Trích yếu:
Khi
nói đến việc tái cơ cấu nền kinh tế, nhiều học giả cho rằng chỉ cần tái cơ cấu
về kinh tế vĩ mô mà chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư công, thị trường tài
chính và tái cơ cấu doanh nghiệp. Điều
này đúng nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, không thể có một nền kinh tế mạnh mẽ khi mà các
vấn đề xã hội vẫn còn tồn tại và có chiều hướng tiêu cực. Nói khác đi, chính
sách kinh tế phải đi đôi và hài hòa với chính sách xã hội mà trong đó có thể
nói đến là chính sách an sinh xã hội. Về bản chất mà nói, sự tăng trưởng kinh tế
xét đến cùng cũng vì con người, hướng đến con người và dĩ nhân vi bản.
Trong
6 mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ, chưa thấy đề cập đến vấn đề
con người, yếu tố con người. Chính lẽ đó, cần phải đưa yếu tố con người cũng
như chất lượng sống cư dân, nhất là các nhóm yếu thế vào mục tiêu tái cơ cấu lần
này. Do đó, theo chúng tôi nên sử dụng cụm từ tái cơ cấu kinh tế-xã hội thay vì
sử dụng thuật ngữ tái cơ cấu kinh tế.
Trong bài viết này, thông qua phân tích những
thực trạng về chế độ trợ cấp xã hội từ quĩ công cộng ở các tỉnh miền Trung, từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm và phương thức khắc phục những bất cập, tiến
đến hoàn thiện chế độ chính sách trợ cấp xã hội nói riêng, chế độ chính sách
kinh tế-xã hội nói chung cho miền Trung-Tây Nguyên. Và có thể nói, hoàn thiện
chính sách an sinh xã hội cũng là một thành tố trong mục tiêu tái cơ cấu kinh tế-xã
hội.
Key word: chính sách kinh tế, chính sách
xã hội, trợ cấp xã hội, , nguồn lực cộng đồng
- Vài nét về yếu tố lịch sử, địa
lí, nhân khẩu của khu vực miền Trung có tác động đến chính sách trợ giúp
xã hội
Trong những
năm qua, trên bình diện quốc gia cũng như bình diện khu vực miền Trung-Tây Nguyên[1],
có thể nói chính sách an sinh xã hội nói chung, chính sách về công tác trợ cấp
xã hội nói riêng, đã có những chuyển biến hết sức tích cực về công tác nghiên cứu
chính sách, ban hành chính sách, thực thi chính sách. Miền Trung, với điều kiện
lịch sử và vị trí địa lí tương đối đặc thù: trong những năm chiến tranh thì hứng
chịu nhiều sự tàn phá từ bom đạn của kẻ thù và hệ quả của nó là sự đau thương
chết chóc, là sự hi sinh của bao lớp người để bảo vệ mảnh đất này; trong hòa
bình thì được coi là “khúc ruột” gánh chịu nhiều tác động của thiên tai mà
trong đó có thể kể đến là nạn hạn hán, lụt lội, gió bão. Nói điều này để thấy rằng
đây là nguyên nhân khách quan khiến dãi đất miền Trung vốn đã chịu nhiều thiệt
thòi lại gặp những khó khăn trong công tác an sinh xã hội mà cụ thể là vấn đề
trợ giúp xã hội. Bởi đối tượng của trợ giúp xã hội là các nhóm dân cư thịu thiệt
thòi, nhóm yếu thế, nhóm dễ tổn thương [2], những đối
tượng này ít có (hoặc không có) khả năng đảm bảo được nhu cầu cuộc sống tối thiểu
do tác động của nhiều biến cố. Chính lẽ đó họ cần một sự trợ giúp xã hội bằng
quĩ phúc lợi của nhà nước và cả từ nguồn lực cộng đồng. Trong bài viết này, vì
những lí do khách quan và chủ quan, chúng tôi chỉ muốn phân tích công tác trợ
giúp xã hội từ nguồn quĩ công cộng đối với các đối tượng như người tàn tật, người
cao tuổi, người nghèo, người có thu nhập thấp và một số đối tượng trợ cấp đột
xuất, thường xuyên khác trên địa bàn miền Trung từ đó đưa ra một số giải pháp
tương ứng.
- Thực trạng về công tác trợ cấp
xã hội ở các tỉnh miền Trung
Một cách
khái quát mà nói, kinh phí trợ cấp thường xuyên từ nguồn quĩ phúc lợi của Nhà
nước cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng
kinh phí (chiếm khoản 38,6%[3]). Và theo
tính toán của chúng tôi, kinh phí trợ cấp này tăng theo hàng năm về số lượng
tương đối cũng như con số tuyệt đối (xin xem bảng 1)
Bảng 1: Tổng số kinh phí trợ cấp thường
xuyên theo địa phương (đvt: VND)[4]
Tỉnh/Thành phố |
1998 |
1999 |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
Tổng số chung (toàn quốc) |
167097238 |
85514450 |
95410490 |
98222933 |
136948961 |
15058985 |
213929676 |
347702000 |
555620000 |
2266609000 |
Bắc Trung bộ |
15782172 |
15905772 |
23334852 |
23334852 |
25472232 |
3923415 |
65688036 |
95832000 |
108407000 |
447013000 |
Thanh hóa |
7899840 |
6319296 |
10184400 |
10184400 |
10422120 |
1399590 |
18963180 |
27655000 |
34490000 |
206973000 |
Nghệ An |
2268144 |
2841696 |
4127760 |
4127760 |
4433400 |
343980 |
17236800 |
25281000 |
38849000 |
109174000 |
Hà Tĩnh |
1844880 |
2523600 |
3099600 |
3099600 |
3192000 |
608850 |
5781780 |
6272000 |
11316000 |
54661000 |
Quảng Bình |
1479312 |
1512000 |
2420280 |
2420280 |
2249220 |
236970 |
19389780 |
29500000 |
10383000 |
25400000 |
Quảng Trị |
1016316 |
961488 |
1430832 |
1430832 |
1727652 |
166770 |
1281696 |
2345000 |
5153000 |
19058000 |
Thừa thiên-Huế |
1273680 |
1747692 |
2071980 |
2071980 |
3447840 |
1167255 |
3034800 |
4779000 |
8216000 |
31747000 |
Duyên hải Trung bộ |
6591996 |
6792962 |
11022710 |
12014417 |
16476317 |
1518615 |
19086480 |
26784000 |
47921000 |
224599000 |
Đà Nẵng |
1253088 |
1319386 |
1029830 |
1118477 |
2739257 |
134145 |
3674160 |
3781000 |
2793000 |
27214000 |
Quảng Nam |
2074680 |
1681200 |
2704320 |
2704320 |
4585680 |
566370 |
4725000 |
4677000 |
20071000 |
78871000 |
Quảng Ngãi |
1006992 |
148320 |
3189780 |
3189780 |
3522240 |
351090 |
4349700 |
6283000 |
7535000 |
49034000 |
Bình Định |
889596 |
1753020 |
2075220 |
963900 |
263080 |
233100 |
2646000 |
4504000 |
5257000 |
26254000 |
Phú Yên |
647856 |
848952 |
960120 |
960120 |
1037220 |
122445 |
1794420 |
4036000 |
6462000 |
16564000 |
Khánh Hòa |
719784 |
1041984 |
1063440 |
1230480 |
1908840 |
111465 |
1897200 |
3503000 |
5803000 |
26662000 |
Tây Nguyên |
3850272 |
4017072 |
4323780 |
- |
6625440 |
658710 |
5962680 |
10840000 |
28431000 |
93172000 |
Kon Tum |
620640 |
639360 |
964980 |
1194480 |
1743480 |
171540 |
1084860 |
2290000 |
4127000 |
13362000 |
Gia Lai |
12244736 |
1294992 |
1511460 |
216000 |
1888140 |
232020 |
564300 |
1561000 |
5483000 |
22242000 |
Đắc Lắc |
301440 |
216000 |
658560 |
29250 |
3358800 |
1747000 |
4445000 |
23179000 |
||
Đắc Nông |
2082720 |
1847340 |
1847340 |
- |
- |
359100 |
360000 |
1792000 |
8330000 |
|
Lâm Đồng |
1683456 |
18734376 |
13287024 |
14298876 |
2335260 |
225900 |
595620 |
2852000 |
12585000 |
27059000 |
Số liệu ở
bảng 1 cho thấy, kinh phí theo chế trợ cấp thường xuyên cho các tỉnh miền
Trung-Tây Nguyên qua các năm (từ năm 1998-2007) có chiều hướng tăng lên theo
các năm 1998 (chiếm 15,69% tổng số kinh phí trợ cấp trên toàn quốc) đến năm
2004 (chiếm 42,41%), các năm còn lại có xu hướng chựng lại nhưng vẫn chiếm một
tỉ trọng tương đối cao so với các khu vực khác trong cả nước (năm 2005, 2006,
2007, 2009 lần lượt chiếm tỉ trọng là 38,38%, 33,25%, 33,74%, 38,60%). Như vậy,
có thể thấy chỉ với 17 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên[5] nhưng đã chiếm
đến gần 40% tổng số kinh phí trợ cấp xã hội tính trên phạm vi toàn quốc. Rõ
ràng đây cũng là chỉ báo thể hiện tính “đặt thù” của dãi đất miền Trung-Tây
nguyên này. Tính đặt thù này được thể hiện rõ trên những bình diện sau đây:
a) Chế độ trợ cấp đối với người tàn tật, trẻ em mồ
côi, người cao tuổi
Như đã nói
ở trên, Việt Nam là một quốc gia đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc mà
di chứng và hậu quả của nó để lại là quá lớn, mà trong đó có thể kể đến là số
người tàn tật từ bom đạn của chiến tranh, số lượng không nhỏ bị nhiễm và phơi
nhiễm chất độc màu da cam[6]. Theo số liệu thống kê năm
2009 của Bộ Lao động thương binh và xã hội, hiện toàn quốc có khoản 6,1 triệu
người (khoản 7,8% dân số) là người khuyết tật. Trong số 6,1 triệu người này, có
385 nghìn người khuyết tật nặng. Cũng theo công bố của Bộ Lao động thương binh
và xã hội thì số người khuyết tật được nhận hỗ trợ hàng năm trong năm 2009 là 487.384
người (chiếm khoản 8% trong tổng số người khuyết tật).
Nếu xét về
vùng kinh tế-xã hội thì vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có tỷ lệ người
khuyết tật cao nhất (9,7%); tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng (8,1%) và vùng
Trung du và miền núi phía Bắc (8%). Tỷ lệ người khuyết tật thấp nhất là ở vùng
Đông Nam bộ. Với khuyết tật nặng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có
tỷ lệ người khuyết tật nặng cao hơn đáng kể so với các vùng khác. Trong đó các
tỉnh có tỉ lệ người khuyết tật nặng cao là Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam và
Bình Định.
Bảng 2: Số người tàn tật nặng được trợ cấp thường xuyên theo tỉnh/thành
phố
Khu vực/tỉnh/ thành phố |
Năm 1998 |
Năm 1999 |
Năm 2000 |
Năm 2001 |
Năm 2002 |
Năm 2003 |
Năm 2004 |
Năm 2005 |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
|||||||||||
Toàn quốc |
63132 |
64738 |
88681 |
99561 |
101393 |
120197 |
164325 |
183830 |
367960 |
487384 |
|||||||||||
Bắc trung bộ |
19615 |
21170 |
28712 |
287122 |
26542 |
22473 |
35198 |
37134 |
57826 |
90690 |
|||||||||||
Thanh Hóa |
10467 |
10467 |
13146 |
13146 |
12e820 |
12820 |
16685 |
17216 |
34105 |
62950 |
|||||||||||
Nghệ an |
4520 |
4520 |
4626 |
4626 |
4520 |
0 |
11095 |
11425 |
6295 |
12421 |
|||||||||||
Hà Tĩnh |
1776 |
3085 |
4920 |
4920 |
4920 |
4920 |
5431 |
3134 |
7515 |
5322 |
|||||||||||
Quảng bình |
1110 |
1326 |
3117 |
3117 |
1513 |
1905 |
1913 |
3859 |
1321 |
||||||||||||
Quảng trị |
516 |
496 |
656 |
656 |
801 |
841 |
952 |
952 |
1630 |
||||||||||||
Thừa thiên Huế |
1226 |
1276 |
2247 |
2247 |
1968 |
1987 |
1987 |
2494 |
5100 |
7046 |
|||||||||||
Duyên Hải Nam
trung bộ |
2894 |
3678 |
26368 |
7192 |
10086 |
9442 |
8622 |
10555 |
52874 |
36369 |
|||||||||||
Đà Nẵng |
546 |
836 |
1212 |
1298 |
937 |
937 |
1495 |
1594 |
1360 |
7195 |
|||||||||||
Quảng nam |
1258 |
1258 |
1205 |
1205 |
4391 |
4391 |
2330 |
2500 |
10300 |
12398 |
|||||||||||
Quảng ngãi |
37 |
6 |
1898 |
1904 |
1895 |
1895 |
2742 |
2742 |
2942 |
5292 |
|||||||||||
Bình Định |
560 |
800 |
1188 |
540 |
1176 |
1168 |
1219 |
2131 |
36800 |
1295 |
|||||||||||
Phú Yên |
324 |
424 |
482 |
471 |
430 |
526 |
836 |
2491 |
557 |
4403 |
|||||||||||
Khánh Hòa |
169 |
354 |
383 |
557 |
1257 |
525 |
- |
691 |
915 |
5786 |
|||||||||||
Tây nguyên |
1818 |
2538 |
2656 |
1399 |
4337 |
4267 |
6416 |
5012 |
8718 |
23789 |
|||||||||||
Kon Tum |
30 |
540 |
622 |
1087 |
1198 |
1318 |
1426 |
1443 |
1735 |
4611 |
|||||||||||
Gia Lai |
722 |
775 |
813 |
150 |
1780 |
1487 |
- |
1487 |
2099 |
7103 |
|||||||||||
Đắc lắc |
62 |
9 |
4 |
162 |
150 |
150 |
4654 |
572 |
3380 |
4817 |
|||||||||||
Đắc Nông |
- |
- |
- |
- |
- |
- |
336 |
337 |
337 |
1766 |
|||||||||||
Lâm đồng |
1004 |
1214 |
1217 |
1217 |
1209 |
1312 |
- |
1173 |
1167 |
5492 |
|||||||||||
|
|
||||||||||||||||||||
Số liệu ở
bảng 2 cho thấy, mặt dù số người khuyết tật ở nước ta rất lớn nhưng chỉ một lượng
nhỏ (khoảng 8%) số người khuyết tật đó được thụ hưởng sự trợ cấp từ quĩ phúc lợi
xã hội. Trong đó, khu vực miền Trung-Tây Nguyên, với tỉ lệ người khuyết tật cao
nhất nước nhưng cũng chỉ được hưởng chế độ trợ cấp từ quĩ công cộng chỉ chiếm tỉ
lệ khoảng 30% trong tổng số người khuyết tật nặng. Cũng từ bảng 2 cho thấy, mặt
dù con số tuyệt đối (cộng dồn) tỉ lệ người khuyết tật ở khu vực miền Trung-Tây
nguyên là tăng theo các năm, nhưng tỉ lệ người khuyết tật được thụ hưởng trợ cấp
thì có xu hướng giảm theo các năm, chẳng hạn năm 2006 là 32% (119.481 người) nhưng đến năm 2007 chỉ còn khoảng 30% (150.848
người).
Một trong
những đối tượng mà chính sách xã hội nói chung, chế độ bảo trợ xã hội nói riêng
muốn nhắm đến là đối tượng trẻ em mồ côi. Theo thống kê, số lượng trẻ em mồ côi
trong năm 2009 được hưởng trợ cấp thường xuyên trên phạm vi toàn quốc là 51939
đối tượng. Trong khi đó, số đối tượng được trợ cấp tương ứng ở khu vực miền
Trung-Tây Nguyên trong năm 2009 chiếm gần ½ (xin xem bảng thống kê số 3) mà con
số chính xác là 44,54%. Trong đó Thanh Hóa, Quảng Nam, Nghệ An, Đà Nẵng là những
tỉnh có số trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp cao nhất khu vực.
Bảng 3: Trẻ em mồ côi
hưởng trợ cấp thường xuyên theo địa phương(đvt: người)
Tỉnh/ thành phố |
Năm 1998 |
Năm 1999 |
Năm 2000 |
Năm 2001 |
Năm 2002 |
Năm 2003 |
Năm 2004 |
Năm 2005 |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
|||||||
Toàn quốc |
36831 |
27367 |
31851 |
32564 |
30854 |
31877 |
39238 |
46529 |
45343 |
51939 |
|||||||
Bắc trung bộ |
4377 |
3747 |
3704 |
3704 |
6280 |
6219 |
9402 |
9460 |
6422 |
10318 |
|||||||
Thanh Hóa |
1577 |
974 |
947 |
947 |
3237 |
3237 |
4312 |
4132 |
2410 |
4992 |
|||||||
Nghệ an |
425 |
425 |
551 |
551 |
425 |
425 |
1812 |
1974 |
1974 |
2412 |
|||||||
Hà Tĩnh |
460 |
492 |
505 |
505 |
447 |
447 |
823 |
899 |
282 |
512 |
|||||||
Quảng bình |
943 |
884 |
501 |
501 |
850 |
426 |
454 |
454 |
360 |
982 |
|||||||
Quảng trị |
360 |
299 |
432 |
432 |
452 |
513 |
536 |
536 |
289 |
556 |
|||||||
Thừa thiên Huế |
612 |
673 |
768 |
768 |
869 |
1171 |
1465 |
1465 |
1107 |
864 |
|||||||
Duyên Hải Nam trung bộ |
4006 |
3731 |
5466 |
5769 |
4111 |
4013 |
5886 |
6555 |
7350 |
8381 |
|||||||
Đà Nẵng |
434 |
327 |
886 |
1023 |
348 |
348 |
905 |
905 |
787 |
1133 |
|||||||
Quảng Nam |
1854 |
2061 |
2067 |
2067 |
1600 |
1600 |
2120 |
2213 |
3682 |
5040 |
|||||||
Quảng Ngãi |
563 |
146 |
756 |
925 |
681 |
681 |
996 |
996 |
999 |
741 |
|||||||
Bình Định |
174 |
238 |
680 |
624 |
365 |
26 |
1012 |
1159 |
480 |
378 |
|||||||
Phú Yên |
692 |
538 |
538 |
537 |
585 |
837 |
759 |
759 |
849 |
411 |
|||||||
Khánh Hòa |
289 |
421 |
539 |
593 |
532 |
521 |
94 |
523 |
553 |
678 |
|||||||
Tây nguyên |
3313 |
3342 |
3785 |
2975 |
2808 |
3153 |
2295 |
4387 |
3474 |
4435 |
|||||||
Kon Tum |
859 |
592 |
1105 |
924 |
653 |
579 |
- |
914 |
571 |
626 |
|||||||
Gia Lai |
1139 |
1044 |
1053 |
238 |
732 |
1139 |
1020 |
943 |
940 |
755 |
|||||||
Đắc lắc |
199 |
180 |
115 |
301 |
250 |
250 |
1084 |
959 |
561 |
906 |
|||||||
Đắc Nông |
- |
- |
- |
- |
- |
- |
191 |
191 |
168 |
148 |
|||||||
Lâm đồng |
1126 |
1526 |
1512 |
1512 |
1173 |
1185 |
- |
1380 |
1234 |
2000 |
|||||||
Số liệu từ
bảng 3 cũng cho thấy, số lượng trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp thường xuyên
(theo con số tuyệt đối) ở các tỉnh miền trung là khá lớn, tỉ lệ trẻ em mồ côi
được trợ cấp hàng năm là những con số liên tục tăng (thấp nhất là năm 1998, chiếm
31,76% trên phạm vi cả nước; cao nhất là 44,54% trong năm 2009). Chỉ tính riêng
khu vực bắc Trung bộ (bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) số trẻ em được thụ hưởng trợ cấp chiếm 44,6% trong
toàn khu vực miền Trung và chiếm 19,8% trên toàn quốc. Đây cũng là một điểm đặt
biệt của khu vực bắc Trung Bộ nói riêng của khu vực miền Trung nói chung.
Một đối tượng
khác nữa đang được thụ hưởng chính sách bảo trợ xã hội từ nguồn quĩ phúc lợi của
nhà nước đó là người cao tuổi. Theo luật người cao tuổi Việt Nam và Nghị định số
06/2011/NĐ-CP [7]. Nếu lấy
thời điểm mà Nghị định này có hiệu lực (tức là từ từ 1/3/2011) thì trên toàn quốc
ước tính có khoản 8,6 triệu người cao tuổi. Đây là một chính sách hoàn toàn phù
hợp với nhu cầu, nguyện vọng của chính đối tượng người cao tuổi, đồng thời thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của chế độ ta khi chăm lo đến đối tượng người cao tuổi
khi mà hiện tượng già hóa dân số ở nước ta đang diễn ra mạnh mẽ; bởi theo khảo
sát, hiện nay xu hướng người già ít sống với con cháu trở nên phổ biến, do
đó đây là thách thức đối với công tác chăm sóc người cao tuổi hiện nay. Bên cạnh
đó, vẫn còn 7% người cao tuổi được khảo sát vẫn sống trong nhà tạm, 58,9% người
cao tuổi đang phải làm việc để kiếm sống với thu nhập bấp bênh, chủ yếu ở nông
thôn. 63% người cao tuổi được hỏi cho rằng, cuộc sống còn thiếu thốn và
chưa đến 2% nói rằng cuộc sống rất đầy đủ. Khoảng 14% người cao tuổi đang sống
trong hộ nghèo. Cũng theo nghiên cứu, có tới trên 50% số người cao tuổi được
phỏng vấn cho rằng tình trạng sức khỏe hiện tại là yếu hoặc rất yếu, gần 50%
trong số họ không đủ tiền để chi trả cho các dịch vụ y tế [8]. Tuy nhiên, công bằng mà
nói, đây cũng chính là áp lực không nhỏ cho công tác trợ cấp cho đối tượng người
cao tuổi khi nguồn kinh phí của nhà nước là có hạn lại phải “chia sẻ” cho nhiều
đối tượng khác trong chính sách an sinh xã hội.
Trên bình diện chung, có
thể nói rằng, hệ thống
an sinh xã hội cho người cao tuổi hiện nay lại không có tính hỗ trợ đối với phần
lớn người cao tuổi, đặc biệt là nhóm người cao tuổi dễ tổn thương, vì họ không
thể tham gia hệ thống hưu trí do các quy định hiện hành hoặc nhận được mức trợ
cấp xã hội quá thấp. Hệ thống hưu trí đóng góp vận hành theo cơ chế tài chính
thực thanh thực chi như hiện nay sẽ nhanh chóng bất cân đối về tài chính và sự
cân đối này sẽ khiến cho việc trợ cấp đối với người cao tuổi sẽ không bền vững
và khó có thể “phủ sóng” đến mọi đối tượng, nhất là khu vực nông thôn.
Bảng 4: Số người cao
tuổi được trợ cấp hàng tháng theo tỉnh/thành phố (đvt: người)
STT |
Địa phương |
Năm 2009 |
Tại cộng đồng |
||
Cả nước |
691920 |
|
Bắc trung Bộ |
140582 |
|
Thanh Hóa |
50995 |
|
Nghệ An |
48344 |
|
Hà Tĩnh |
14198 |
|
Quảng Bình |
6171 |
|
Quảng Trị |
7994 |
|
Thừa Thiên
Huế |
12880 |
|
Duyên Hải
MT |
90725 |
|
Tp. Đà Nẵng |
7013 |
|
Khánh Hòa |
7497 |
|
Quảng Nam |
22851 |
|
Quảng Ngãi |
18762 |
|
Bình Định |
14783 |
|
Phú Yên |
7930 |
|
Ninh Thuận |
3739 |
|
Bình Thuận |
8150 |
|
III. |
Tây Nguyên |
18844 |
Đắc Lắc |
5570 |
|
Đắc Nông |
1342 |
|
Gia Lai |
4406 |
|
Kon Tum |
1893 |
|
Lâm Đồng |
5633 |
Đối với
các tỉnh miền Trung, số người cao tuổi được thụ hưởng chính sách theo nghị định
06/2011/NĐ-CP chiếm đến 36% trong tổng số người cao tuổi cùng diện thụ
hưởng trên phạm vi cả nước. Trong đó các tỉnh có số lượng người cao tuổi được
thụ hưởng trợ cấp trong khu vực tương đối lớn là Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa
thiên-Huế, Quảng Nam, Bình Định. Quả thật, đây là một áp lực đối với các địa
phương khi phải cân đối tài chính để chi cho các đối tượng này. Đây chính là
mâu thuẫn trong chính sách an sinh xã hội và chính sách kinh tế-xã hội mà nhiều
quốc gia mắc phải, nhất là các quốc gia đang phát triển. Chính lẽ đó, muốn bảo
đảm bảo chính sách an sinh xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội trong từng bước
và trong suốt quá trình phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, cần phải có
những giải pháp căn cơ cho vấn đề này[9].
b) Chế độ trợ cấp đối trợ cấp thường xuyên, đột
xuất đối với các đối tượng bảo trợ xã hội
Trong bất
cứ một xã hội nào và trong bất kì thời điểm nào, đều tồn tại những người (nhóm
người), do một lí do nào đó, cần sự trợ giúp từ phía xã hội và cộng động. Sự trợ
giúp này có thể là thường xuyên, cũng có thể là đột xuất; có thể về mặt vật chất
cũng có thể về mặt tinh thần. Khu vực miền Trung –Tây Nguyên, như đã nói, được
ví như là “khúc ruột” phải chịu nhiều thiệt hại từ thiên tai mà cụ thể là hạn
hán, bão lụt. Nhiều hộ gia đình, qua một cơn bão đã khiến họ mất khả năng duy
trì cuộc sống; không ít hộ qua một đợt lũ lụt đã trắng tay cần sự trợ cấp từ
phía nhà nước và xã hội. Chỉ tính riêng về cơn bão số 9 năm 2009 (bão Ketsana) đã gây thiệt hại
cho khu vực miền Trung là: 163 người chết, 11 người mất tích và 629 người bị
thương; 21.614 nhà bị sập, trôi; 258.264 nhà hư hại và 294.711 nhà bị ngập.
Ngoài ra, bão lũ còn gây thiệt hại rất nặng về nông nghiệp, thủy sản, giao
thông, điện, thủy lợi..., tổng thiệt hại ước tính 14.014 tỉ đồng. Trong đó, Quảng
Ngãi: 35 người chết, 341 người bị thương, hơn 4.200 nhà bị sập đổ, hơn 68.000
nhà bị tốc mái, tổng giá trị thiệt hại ước tính 4.870 tỉ đồng. Để khắc phục hậu
quả bão này, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã phân bổ 80 tỉ đồng và 2.500 tấn gạo của
Trung ương về các huyện để hỗ trợ khẩn cấp cho dân. Ngoài ra, tỉnh đã đề nghị
Trung ương hỗ trợ thêm 420 tỉ đồng và 3.000 tấn gạo, 500 cơ số thuốc để phòng
chống dịch bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường. Quảng Nam thì triển khai chương
trình “kho lúa cứu dân”, xây dựng mỗi xã một kho lúa để cứu dân. Như vậy, về
nguyên nhân sâu xa, đối tượng trợ cấp xã hội, bảo trợ xã hội từ khu vực này xuất
phát từ chính những đặt thù từ tình hình địa-kinh tế của khu vực, nó có liên
quan đến vấn đề chế độ trợ an sinh cho người nghèo, người có thu nhập thấp. Phần
này chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở phần sau.
Bây giờ
chúng tôi muốn nói đến một đối tượng nữa trong chính sách trợ cấp xã hội đó là
người già cô đơn không nơi nương tựa được hưởng trợ cấp thường xuyên từ quĩ
phúc lợi xã hội. Theo thống kê của Cục bảo trợ xã hội, số người già cô đơn
không nơi nương tựa trên phạm vi toàn quốc có xu hướng ngày càng gia tăng cùng
với sự gia tăng người cao tuổi và tốc độ già hóa dân số của Việt Nam. Nếu như
thời điểm năm 1998 số người già cô đơn không nơi nương tựa chỉ là 61915 đối tượng
nhưng đến năm 2007 con số này lên đến 591563 người (tăng gần 10 lần). Như vậy, có thể nói những đối tượng
được hưởng trợ cấp thường xuyên từ nguồn ngân sách của Nhà nước nói chung, đối
tượng là người gia cô đơn không nơi nương tựa ở khu vực miền Trung ngày càng
gia tăng. Điều này khiến cho vấn đề trợ cấp xã hội cho đối tượng này có nhiều
khó khăn mà cụ thể là khó khăn về tài chính. Chính lẽ đó, việc chỉ “trông chờ”
vào nguồn lực có hạn của Nhà nước, trong khi các đối tượng trợ cấp ngày một gia
tăng như hiện nay đã trở thành một mẫu thuẫn trong chính chính sách an sinh xã
hội của chúng ta mà những số liệu từ khu vực miền Trung là một minh chứng. Do vậy,
về lâu dài, cần phải có những biện pháp hữu hiệu, căn cơ, có tầm chiến lược mới
có thể đảm bảo được vấn đề thực thi chính sách bảo trợ xã hội. Vậy phải cần có
những giải pháp thế nào, chúng tôi sẽ bàn ở phần sau.
Bảng 5: người già cô
đơn không nơi nương tựa được hưởng trợ cấp thương xuyên theo tỉnh/thành phố.
Tỉnh/ thành phố |
Năm 1998 |
Năm 1999 |
Năm 2000 |
Năm 2001 |
Năm 2002 |
Năm 2003 |
Năm 2004 |
Năm 2005 |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Toàn quốc |
61915 |
65079 |
73411 |
72045 |
68573 |
76964 |
157622 |
193813 |
155285 |
591563 |
Bắc trung bộ |
15424 |
16618 |
14583 |
145832 |
13422 |
12876 |
76725 |
76280 |
44932 |
79014 |
Thanh Hóa |
5237 |
5237 |
5145 |
5145 |
2225 |
2225 |
14120 |
14120 |
17400 |
26189 |
Nghệ an |
2762 |
2762 |
2719 |
2719 |
2699 |
2699 |
19013 |
19013 |
19095 |
21377 |
Hà Tĩnh |
2476 |
3258 |
3262 |
3262 |
3243 |
3243 |
4453 |
4008 |
2889 |
13046 |
Quảng bình |
2510 |
2510 |
910 |
910 |
1700 |
1030 |
35453 |
35453 |
1242 |
5945 |
Quảng trị |
1235 |
1235 |
1260 |
1260 |
1400 |
1511 |
1518 |
1518 |
1529 |
4431 |
Thừa thiên Huế |
1204 |
1616 |
1287 |
1287 |
2155 |
2168 |
2168 |
2168 |
2777 |
8026 |
Duyên Hải Nam trung bộ |
8676 |
6092 |
9965 |
9778 |
9968 |
10850 |
16557 |
16631 |
18100 |
46695 |
Đà Nẵng |
582 |
582 |
748 |
887 |
759 |
759 |
1002 |
1002 |
1029 |
5469 |
Quảng nam |
2086 |
1892 |
1861 |
1861 |
2204 |
2204 |
4300 |
3948 |
4404 |
10347 |
Quảng ngãi |
2612 |
26 |
3356 |
3354 |
3331 |
3331 |
4317 |
4317 |
4335 |
8904 |
Bình Định |
1872 |
1908 |
2245 |
891 |
2817 |
2818 |
2669 |
2484 |
3315 |
11009 |
Phú Yên |
981 |
858 |
836 |
853 |
715 |
832 |
1728 |
1924 |
2425 |
6058 |
Khánh Hòa |
543 |
826 |
919 |
957 |
142 |
906 |
2541 |
2956 |
2592 |
7908 |
Tây nguyên |
2171 |
2423 |
2427 |
919 |
2771 |
2951 |
2331 |
4664 |
4964 |
33463 |
Kon Tum |
393 |
398 |
420 |
561 |
571 |
597 |
583 |
579 |
721 |
2645 |
Gia Lai |
916 |
1013 |
1020 |
99 |
789 |
1043 |
25 |
2135 |
461 |
7833 |
Đắc lắc |
147 |
35 |
12 |
259 |
100 |
100 |
482 |
709 |
1387 |
12022 |
Đắc Nông |
- |
- |
- |
- |
- |
- |
138 |
138 |
111 |
2792 |
Lâm đồng |
715 |
977 |
975 |
975 |
1311 |
1211 |
1103 |
1103 |
2284 |
8171 |
c) Chế độ, chính sách trợ giúp người nghèo, người
có thu nhập thấp
Trợ giúp
người nghèo, người có thu nhập thấp là một trong những thành tố quan trọng hệ
thống chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua,
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thực hiện tốt chương trình Quốc
gia về xóa đói giảm nghèo theo mục tiêu Thiên niên kỉ của Liên hiệp quốc. Bằng
chứng là Đảng và Nhà nước đã xem vấn đề xóa đói giảm nghèo thành một trong những
mục tiêu chiến lược nhằm giải quyết nạn đói nghèo và phát triển kinh tế xã hội
theo hướng bền vững. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới đã có những đánh giá cao
và ghi nhận những thành tựu của chúng ta về Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa
đói giảm nghèo. Tuy nhiên, với đặc thù về điều kiện lịch sử-địa lí và điều kiện
chính trị-xã hội của Việt Nam, chính sách xóa đói giảm nghèo nói chung, chính
sách hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo của chúng ta cũng còn những bất cập. Tỉ lệ
người nghèo mặc dù đã giảm theo các năm nhưng vẫn còn khá cao (ước tính tỉ lệ hộ
nghèo theo chuẩn mới của Việt Nam năm 2011 khoảng 15%)[10].
Bên cạnh đó, công cuộc xóa đói giảm nghèo của chúng ta là chưa bền vững và khoản
cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng dãn rộng. Riêng khu vực miền Trung và Tây
Nguyên, nơi có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất nước, việc thực hiện trợ cấp cho đối tượng
này gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân, như đã nói khu vực này thường chịu nhiều
thiệt hại từ thiên tai nên số đối tượng được hưởng chế độ trợ cấp luôn tăng lên
hàng năm, chính lẽ đó mà các tỉnh như Quảng Bình, Kon Tom, Đắc Lắc tỉ lệ hộ
nghèo vẫn ở mức 20%. Rõ ràng đây mà một thách thức cho các tỉnh miền Trung-Tây
Nguyên.
Bảng 6: Kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo
Quyết định 167/2008/QĐ-TTg tính đến 31/01/2011 (đvt: hộ)
TT |
Tỉnh |
Kế hoạch hỗ trợ của các ĐP |
Số lượng hộ nghèo được hỗ trợ |
|
|||||||
Tổng số (hộ) |
Trong đó |
Tổng số (hộ) |
Tỷ lệ (%) |
Trong đó |
|
||||||
Hộ thuộc 62 huyện nghèo |
Hộ dân tộc Khơme |
Hộ thuộc 62 huyện nghèo |
Tỷ lệ (%) |
Hộ dân tộc Khơme |
Tỷ lệ (%) |
||||||
|
Cả nước |
512.425 |
75.452 |
23.693 |
316.975 |
61,9 |
72.07 |
95,5 |
21.462 |
90,6 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
I. |
Bắc Trung Bộ |
88738 |
22108 |
- |
53371 |
60,1 |
21.432 |
96,9 |
- |
- |
|
1.
|
Thanh Hóa |
35043 |
12678 |
- |
21665 |
61,8 |
12.678 |
100,0 |
- |
- |
|
2.
|
Nghệ An |
26016 |
7355 |
- |
17156 |
65,9 |
7.355 |
100,0 |
- |
- |
|
3.
|
Hà Tĩnh |
11103 |
- |
- |
6372 |
57,4 |
- |
- |
- |
- |
|
4.
|
Quảng Bình |
4426 |
713 |
- |
2873 |
64,9 |
713 |
100,0 |
- |
- |
|
5.
|
Quảng Trị |
7797 |
1362 |
- |
2926 |
37,5 |
686 |
50,4 |
- |
- |
|
6.
|
Thừa Thiên - Huế |
4353 |
- |
- |
2379 |
54,7 |
|
|
- |
- |
|
II. |
Duyên hải miền
Trung |
40700 |
15137 |
- |
26018 |
63,9 |
14.044 |
92,8 |
- |
- |
|
7.
|
Quảng Nam |
14533 |
1345 |
- |
6654 |
45,8 |
1.249 |
92,9 |
- |
- |
|
8.
|
Quảng Ngãi |
12744 |
10880 |
- |
11086 |
87,0 |
9.906 |
91,0 |
- |
- |
|
9.
|
Bình Định |
3805 |
1989 |
- |
3050 |
80,2 |
1.989 |
100,0 |
- |
- |
|
10.
|
Phú Yên |
4121 |
- |
- |
587 |
14,2 |
- |
- |
- |
- |
|
11.
|
Khánh Hòa |
1223 |
- |
- |
1016 |
83,1 |
- |
- |
- |
- |
|
12.
|
Ninh Thuận |
4274 |
923 |
- |
3625 |
84,8 |
900 |
97,5 |
- |
- |
|
VI. |
Tây Nguyên |
41329 |
3505 |
- |
29597 |
71,6 |
3.067 |
87,5 |
- |
- |
|
13.
|
Kon Tum |
8209 |
2767 |
- |
3391 |
41,3 |
2.329 |
84,2 |
- |
- |
|
14.
|
Đắc Lắc |
12849 |
- |
- |
12849 |
100,0 |
- |
- |
- |
- |
|
15.
|
Gia Lai |
10997 |
- |
- |
4083 |
37,1 |
- |
- |
- |
- |
|
16.
|
Đắc Nông |
1956 |
- |
- |
1956 |
100,0 |
- |
- |
- |
- |
|
17.
|
Lâm Đồng |
7318 |
738 |
- |
7318 |
100,0 |
738 |
100,0 |
- |
- |
|
Từ số liệu
trên chúng ta dễ dàng thấy rằng, từ sự chỉ đạo sát sao và kịp thời của Chính phủ,
từ sự cố gắng, nỗ lực của chính quyền địa phương, công tác hỗ trợ cho đối tượng
nghèo, hộ nghèo theo các Chương trình mục tiêu quốc gia của từng địa phương là
đáng ghi nhận. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo
không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ về vật chất (như hỗ trợ về nhà ở, chính sách hỗ
trợ tiền điện…) mà điều thiết yếu là cần phải nâng cao nhận thức của đối tượng
này bằng nhiều hình thức và bằng nhiều kênh như giáo dục, y tế, văn hóa. Có như
vậy, mục tiêu xóa đói giảm nghèo mới nhanh chóng đạt được và mang tính bền vững.
- Vấn đề tồn tại trong công tác
cứu trợ xã hội ở các tỉnh miền trung và một số giải pháp tương ứng
Trong bất
kì xã hội nào cũng tồn tại và phát sinh nhiều người, nhiều nhóm xã hội, do những
hoàn cảnh nào đó mà họ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và cần một sự trợ giúp từ
phía xã hội và cộng đồng. Do đó, chính sách an sinh xã hội nói chung, trợ giúp
xã hội nói riêng trở thành một bộ phận thiết yếu hướng vào nhóm cư dân thiệt
thòi, yếu thế hay nhóm dễ bị tổn thương này.
Khu vực miền
Trung, trong những năm qua, đã và đang thực hiện tốt công tác trợ cấp xã hội mà
cụ thể là các nhóm đối tượng như người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa,
người cao tuổi, người nghèo, hộ nghèo, người có thu nhập thấp. Tuy nhiên từ những
phân tích ở trên, chúng ta nhận thức công tác trợ cấp xã hội từ nguồn quĩ công
cộng của khu vực này còn tồn tại những điểm bất cập sau:
Thứ nhất, Trong công tác thực hiện
các chế độ trợ cấp còn mang tính “hành chính hóa” hay “ban ơn hóa”. “Hành chính
hóa” thể hiện ở chỗ, dường như chính quyền sở tại của các tỉnh thành vẫn còn
mang tính thụ động và việc thực hiện các chế độ trợ cấp dường như là thực hiện
sự “chỉ đạo” từ TƯ. Đành rằng, chương trình an sinh xã hội hay trợ cấp xã hội từ
nguồn quĩ công cộng cần có sự định hướng chỉ đạo của TƯ, thế nhưng không thể bị
động và thực hiện theo kiểu “cầm tay chỉ việc” từ TƯ mà các cấp lãnh đạo, các cấp
ủy đảng, căn cứ trên tình hình thực tiễn của địa phương, đưa ra và thực hiện những
quyết sách liên quan nhằm giảm thiểu những rủi ro cho các đối tượng yếu thế,
nhóm dễ bị tổn thương. “Ban ơn hóa” thể hiện ở chỗ, từ thực tiễn cho thấy không
ít cán bộ coi việc thực thi chế độ trợ cấp xã hội cho các đối tượng thụ hưởng
là một sự ban ơn, và chính là là những người đi ban phát ân huệ cho người khác.
Chính quan niệm này cũng đã dẫn đến nhiều hệ lụy ngoài ý muốn về chính sách tốt
đẹp của Nhà nước. Từ tồn tại này, theo chúng tôi, giải pháp tương ứng là, cần phải nâng cao hiểu biết của các nhà quản
lí, hoạch định chính sách, thực thi chính sách về bản chất và mục tiêu của
chính sách an sinh xã hội cũng như chính sách trợ cấp xã hội; đồng thời cần phải
nâng cao tính chủ động của từng địa phương trong công tác hỗ trợ, trợ cấp xã hội
nhất là công tác xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường công tác
giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho các đối tượng thụ hưởng.
Chính mỗi đối tượng thụ hưởng là một nguồn lực cho bản thân, cho xã hội chứ
không phải là một lực cản hay chờ đợi một sự ban ơn từ phía xã hội. Có như vậy, chính sách hỗ trợ xã hội
mới thực sự có ý nghĩa và là một động lực cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, từ những
quan sát thực tiễn các tỉnh/thành ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên cho thấy, khi
thực hiện chính sách về các chế độ trợ cấp xã hội, các địa phương này vẫn tiến
hành theo kiểu “rời rạc”. Sự “rời rạc” này thể hiện ở hai phương diện: một là
không có sự gắn kết giữa các địa phương khi thực thi chính sách bảo trợ xã hội
nói chung, chính sách trợ cấp nói riêng, thậm chí còn diễn ra tình trạng “mạnh
ai nấy làm”. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, khi thực hiện chính sách
trợ cấp xã hội phải phát huy nhân tố gắn kết vùng (với những điều kiện lịch sử,
địa lí, văn hóa-xã hội, kinh tế-xã hội tương đồng) nhằm phát huy hiệu quả của
chính sách, tránh tình trạng “so bì” hay “bản vị”. Một phương diện khác nữa thể
hiện sự “rời rạc” nữa là chưa có sự gắn kết giữa chính sách trợ cấp xã hội với
chính sách khác như chính sách phát triển kinh tế vùng, chính sách phát triển
kinh tế và phát huy thế mạnh của từng địa phương. Chính điều này khiến cho công
tác trợ cấp xã hội thiếu tính chiến lược, tính bền vững và tính hài hòa. Từ tồn
tại này, giải pháp tương ứng là, cần gắn
kết các địa phương trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong công tác trợ cấp
xã hội. Có thể hình thành qũi trợ cấp xã hội cho khu vực này. Trong khi tiến
hành thực thi chính sách trợ cấp xã hội cần phải tiến hành trên bình diện vùng,
tránh tư tưởng bản vị nhưng cũng tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”.
Song song với nó, cần gắn kết các chương trình mục tiêu quốc gia, các thể chế
chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế xã hội với chính sách an sinh
xã hội và thực hiện chế độ trợ cấp xã hội. Cần xem chính sách trợ cấp xã hội là
một thành tố trong chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung của địa
phương, vùng miền của của quốc gia.
Thứ ba, thực
tiễn khu vực miền Trung cho thấy, việc thực hiện chế độ trợ cấp xã hội là của
các tỉnh/thành là trách nhiệm của “nhà nước” mà cụ thể là Sở lao động thương
binh và xã hội các địa phương. Điều này “đúng nhưng chưa trúng”. Việc kiến lập
và thực thi chính sách an sinh xã hội mà cụ thể là chính sách trợ cấp xã hội là
trách nhiệm của nhà nước và trực tiếp tổ chức thực hiện là Sở lao động thương
binh và xã hội các địa phương. Tuy nhiên, nếu cứ “qui trách nhiệm” như vậy thì
hiệu quả của công tác trợ cấp xã hội sẽ không cao, nếu không muốn nói là phiến
diện và bất cập. Bởi lẽ, trợ cấp xã hội là việc liên quan đến nhiều vấn đề xã hội
khác nhau, đòi hỏi cần có sự kết hợp giữa các cơ quan hữu quan, các tổ chức
chính trị xã hội, các tổ chức nghề nghiệp và của gia đình, của cộng đồng và của
chính đối tượng thụ hưởng. Dó đó, cần phải nâng cao năng lực và trách nhiệm của
các cơ quan hữu quan, các tổ chức chính trị-xã hội và của từng người dân trong
việc thực hiện các chế độ trợ cấp xã hội. Bởi trợ cấp xã hội không phải là
“trách nhiệm ban ơn” từ nhà nước mà là trách nhiệm xã hội của các cơ quan hữu
quan, của chính đối tượng thụ hưởng nhằm nâng cao năng lực của đối tượng, góp
phần ổn định và phát triển xã hội.
Thứ tư, trong
khi nguồn lực tài chính của Nhà nước có hạn, nguồn lực tự chủ của các địa
phương khu vực miền Trung không phải dồi dào, thế những nếu chỉ dựa vào nguồn
quĩ công cộng để thực hiện chế độ trợ cấp xã hội là điều bất cập. Thực tế của
khu vực miền Trung cho thấy, nguồn quĩ mà Nhà nước hỗ trợ cho khu vực này chiếm
đến 38,6% trong tổng nguồn kinh phí quốc gia cho lĩnh vực trợ cấp các đối tượng.
Trong khi đó, số lượng người đủ điều kiện thụ hưởng trợ cấp xạ hội của khu vực
này luôn tăng lên hằng năm nhưng số đối tượng được thụ hưởng trên thực tế lại
giảm đi (30% số người khuyết tật ở khu vực miền Trung được thụ hưởng chính sách
trợ cấp xã hội từ nguồn quĩ công cộng). Điều này dẫn đến một mâu thuẫn: các đối
tượng thụ hưởng sẽ phải chia sẽ “một phần chiếc bánh” mà Nhà nước rót về các tỉnh/thành
khiến cho phần thụ hưởng của đối tượng ngày một ít đi và có tính thiếu bền vững.
Như vậy, với nguồn lực nhà nước có hạn, các địa phương nên chủ động tạo nguồn
quĩ phúc lợi bằng nhiều kênh khác nhau thông qua việc vận động xã hội cùng tham
gia vào công tác trợ cấp xã hội bằng phương thức xã hội hóa. Kinh nghiệm của
Hàn Quốc, Philipin, Nhật Bản, Thái Lan cho thấy, nếu chỉ dựa vào nguồn quĩ công
cộng (ngân sách nhà nước) để trợ cấp xã hội cho các đối tượng là không bền vững,
không căn cơ. Do đó, nhà nước chỉ đóng vai trò “chất xúc tác”, kêu gọi các nguồn
lực xã hội cùng tham gia công tác an sinh xã hội nói chung, công tác trợ giúp
xã hội nói riêng. Như thế vừa đảm bảo nguồn quĩ bền vững vừa tuyên truyền giáo
dục toàn dân về ý thức, trách nhiệm đối với xã hội, đối với các đối tượng yếu
thế. Do đó, theo chúng tôi, miền Trung với
truyền thống văn hóa tương thân tương ái, thương người như thể thương thân, nên
tuyên truyền kêu gọi nhiều nguồn lực xã hội cùng tham gia vào công tác trợ cấp
xã hội, từ đó hình thành quĩ phúc lợi xã hội cho vùng. Ngoài ra, theo chúng
tôi, cần phải đưa quĩ phúc lợi này “sinh lợi” bằng cách đưa quĩ lên sàng chứng
khoán để vừa công khai hóa, minh bạch hóa lại vừa sinh lợi. Như thế càng thúc đẩy
xã hội hóa công tác trợ giúp xã hội, thúc đẩy ý thức cộng đồng của nhân dân.
Thứ năm, như
đã phân tích, với đặc thù của một vùng đất chịu nhiều thiệt thòi trong chiến
tranh lại phải gánh chịu nhiều tác động của thiên tai như hạn hán, bão lụt… khiến
cho khu vực này vốn
đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, nhất là trong công tác cứu trợ xã hội, trợ cấp
xã hội. Khó khăn đó thể hiện ở chỗ, vì những điều kiện lịch sử, địa lí, chính
trị-xã hội, kinh tê-xã hội đặc thù đó mà số đối tượng cần được sự trợ cấp, hỗ
trợ từ phía xã hội tương đối lớn, trong khi nguồn lực quốc gia cũng như nguồn lực
của mỗi địa phương là có hạn tạo nên tình huống “lực bất tòng tâm” trong công
tác an sinh xã hội. Do đó, chúng tôi thiết
nghĩ, đối với khu vực miền Trung-Tây Nguyên, cần phải gắn kết chế độ an sinh xã
hội nói chung, chế độ trợ cấp xã hội nói riêng vào trong từng chính sách phát
triển kinh tế-xã hội của từng địa phương và của toàn vùng. Cụ thể mà nói, khi
kêu gọi đầu tư, các nhà hoạch định chính sách vùng cũng như chính sách địa
phương mình, cần đưa yếu tố an sinh xã hội làm “điều kiện cần” và “điều kiện
thiết yếu” cho các nhà đầu tư. Đứng về phía chính quyền, có quyền yêu cầu nhà đầu
tư thực hiện một số nghĩa vụ về trợ cấp xã hội (như hỗ trợ kinh phí, thu nhận
việc làm, hỗ trợ kĩ thuật…), về phía nhà đầu tư cần phải xem đây là yếu tố
“công tác xã hội” để có nghĩa vụ chia sẻ khó khăn cho vùng và cho từng địa
phương. Biện pháp này vừa gắn kết nhà đầu tư với địa phương và người dân, vừa
chia sẻ gánh nặng kinh phí từ phía nhà nước, vừa mang tính bền vững trong chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội của vùng.
[1] Trong bài viết này, chúng
tôi dùng khái niệm “miền Trung-Tây Nguyên” hay “miền Trung” đều hàm chỉ 17 tỉnh/thành
thuộc các khu vực Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Miền Trung và Tây Nguyên.
[2] Nhóm yếu thế, nhóm dễ bị tổn thương (Vulnerable groups) là nhóm được nói đến trên
hai phương diện: một là tình trạng bấp bênh về công ăn việc làm, hai là mức độ
thụ hưởng các nguồn lợi về an sinh xã hội và được định nghĩa như sau: “Dễ tổn
thương không hoàn toàn đồng nghĩa với nghèo đói nhưng họ có rất ít khả năng tự
bảo vệ, bấp bênh và dễ rơi vào rủi ro, sốc (shock) và căng thằng (stress). Xem:
Phạm Đi, “Tính dễ tổn thương một biểu hiện của nghèo đô thị”, Tạp chí
Sinh hoạt lí luận, số 3(70) 2005, trang 44-45.
[3] Nguồn: Cục bảo trợ xã hội, Bộ Lao động thương binh và xã hội.
Trong năm 2009, tổng kinh phí trợ cấp thường xuyên trong phạm vi cả nước là 1.988.811.029.000đ,
trong khi đó chi cho Khu vực miền Trung- Tây Nguyên là 767.154.960.000đ
[4] Nguồn: Bộ lao động thương binh và xã hội
[5] Ở đây, theo số liệu thống kê của Bộ Lao động thương binh và xã hội
thì các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên là 17 tỉnh theo số liệu thống kê được trợ cấp
thường xuyên từ quĩ phúc lợi của Nhà nước. Xét về tỉ lệ thì chiếm khoảng
27% số tỉnh thành trong cả nước.
[6] Theo thống kê, hiện có khoản 5 triệu người bị phơi nhiễm chất độc
da cam từ chiến tranh
[7] Nghị định số 06/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Người cao tuổi. Theo đó, mức chuẩn trợ cấp xã hội để xác định
mức trợ cấp xã hội hằng tháng, mức trợ cấp nuôi dưỡng hằng tháng đối với người
cao tuổi (NCT) là 180.000 đồng (hệ số 1.0). Mức trợ cấp xã hội hằng tháng thấp
nhất đối với NCT quy định tại Điều 17 Luật NCT sống tại cộng đồng do UBND xã,
phường, thị trấn quản lý như sau: Mức 180.000 đồng/người/tháng (hệ số 1.0) đối
với NCT từ đủ 60 đến 80 tuổi và mức 270.000 đồng/người/tháng (hệ số 1.5) đối
với NCT từ đủ 80 tuổi trở lên thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa
vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng
người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng.NCT từ đủ 80 tuổi trở lên
không thuộc diện quy định như trên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã
hội hằng tháng, trợ cấp xã hội hằng tháng cũng được hưởng trợ cấp 180.000
đồng/người/tháng. NCT được nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội quy định
tại khoản 2 Điều 18 Luật NCT và NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào sống trong các
cơ sở bảo trợ xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng quy định tại
Điều 19 Luật NCT sẽ được hưởng mức trợ cấp 360.000 đồng/người/tháng (hệ số
2,0). Ngoài ra, nghị định cũng quy định, NCT được giảm ít nhất 15% giá vé, giá
dịch vụ khi tham gia giao thông bằng tàu thuỷ chở khách, tàu hoả chở khách, máy
bay chở khách; NCT được giảm ít nhất 20% giá vé, giá dịch vụ khi tham quan, di
tích văn hoá, lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng cảnh, tập luyện thể dục, thể
thao tại các cơ sở thể dục thể thao có bán vé hoặc thu phí dịch vụ.
[8] Nguồn: Cục Bảo trợ xã hội
[9] Trong phần giải pháp chúng tôi sẽ bàn thêm về vấn đề này.
[10] Tỉ lệ hộ nghèo qua các năm: 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 lần lược
là 18,1%, 14,75%, 12,1%, 11,3%, 9,45%
Nhận xét
Đăng nhận xét