THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở MIỀN TRUNG-TÂY NGUYÊN

 

PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI MIỀN TRUNG-TÂY NGUYÊN GẮN VỚI HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

 

Trích yếu:

Khi nói đến việc tái cơ cấu nền kinh tế, nhiều học giả cho rằng chỉ cần tái cơ cấu về kinh tế vĩ mô mà chủ yếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư công, thị trường tài chính và tái cơ cấu doanh nghiệp.  Điều này đúng nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, không thể có một nền kinh tế mạnh mẽ khi mà các vấn đề xã hội vẫn còn tồn tại và có chiều hướng tiêu cực. Nói khác đi, chính sách kinh tế phải đi đôi và hài hòa với chính sách xã hội mà trong đó có thể nói đến là chính sách an sinh xã hội. Về bản chất mà nói, sự tăng trưởng kinh tế xét đến cùng cũng vì con người, hướng đến con người và dĩ nhân vi bản.

Trong 6 mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ, chưa thấy đề cập đến vấn đề con người, yếu tố con người. Chính lẽ đó, cần phải đưa yếu tố con người cũng như chất lượng sống cư dân, nhất là các nhóm yếu thế vào mục tiêu tái cơ cấu lần này. Do đó, theo chúng tôi nên sử dụng cụm từ tái cơ cấu kinh tế-xã hội thay vì sử dụng thuật ngữ tái cơ cấu kinh tế.

 Trong bài viết này, thông qua phân tích những thực trạng về chế độ trợ cấp xã hội từ quĩ công cộng ở các tỉnh miền Trung, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và phương thức khắc phục những bất cập, tiến đến hoàn thiện chế độ chính sách trợ cấp xã hội nói riêng, chế độ chính sách kinh tế-xã hội nói chung cho miền Trung-Tây Nguyên. Và có thể nói, hoàn thiện chính sách an sinh xã hội cũng là một thành tố trong mục tiêu tái cơ cấu kinh tế-xã hội.

Key word: chính sách kinh tế, chính sách xã hội, trợ cấp xã hội, , nguồn lực cộng đồng


 

  1. Vài nét về yếu tố lịch sử, địa lí, nhân khẩu của khu vực miền Trung có tác động đến chính sách trợ giúp xã hội

Trong những năm qua, trên bình diện quốc gia cũng như bình diện khu vực miền Trung-Tây Nguyên[1], có thể nói chính sách an sinh xã hội nói chung, chính sách về công tác trợ cấp xã hội nói riêng, đã có những chuyển biến hết sức tích cực về công tác nghiên cứu chính sách, ban hành chính sách, thực thi chính sách. Miền Trung, với điều kiện lịch sử và vị trí địa lí tương đối đặc thù: trong những năm chiến tranh thì hứng chịu nhiều sự tàn phá từ bom đạn của kẻ thù và hệ quả của nó là sự đau thương chết chóc, là sự hi sinh của bao lớp người để bảo vệ mảnh đất này; trong hòa bình thì được coi là “khúc ruột” gánh chịu nhiều tác động của thiên tai mà trong đó có thể kể đến là nạn hạn hán, lụt lội, gió bão. Nói điều này để thấy rằng đây là nguyên nhân khách quan khiến dãi đất miền Trung vốn đã chịu nhiều thiệt thòi lại gặp những khó khăn trong công tác an sinh xã hội mà cụ thể là vấn đề trợ giúp xã hội. Bởi đối tượng của trợ giúp xã hội là các nhóm dân cư thịu thiệt thòi, nhóm yếu thế, nhóm dễ tổn thương [2], những đối tượng này ít có (hoặc không có) khả năng đảm bảo được nhu cầu cuộc sống tối thiểu do tác động của nhiều biến cố. Chính lẽ đó họ cần một sự trợ giúp xã hội bằng quĩ phúc lợi của nhà nước và cả từ nguồn lực cộng đồng. Trong bài viết này, vì những lí do khách quan và chủ quan, chúng tôi chỉ muốn phân tích công tác trợ giúp xã hội từ nguồn quĩ công cộng đối với các đối tượng như người tàn tật, người cao tuổi, người nghèo, người có thu nhập thấp và một số đối tượng trợ cấp đột xuất, thường xuyên khác trên địa bàn miền Trung từ đó đưa ra một số giải pháp tương ứng.

  1. Thực trạng về công tác trợ cấp xã hội ở các tỉnh miền Trung

Một cách khái quát mà nói, kinh phí trợ cấp thường xuyên từ nguồn quĩ phúc lợi của Nhà nước cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng kinh phí (chiếm khoản 38,6%[3]). Và theo tính toán của chúng tôi, kinh phí trợ cấp này tăng theo hàng năm về số lượng tương đối cũng như con số tuyệt đối (xin xem bảng 1)

Bảng 1: Tổng số kinh phí trợ cấp thường xuyên theo địa phương (đvt: VND)[4]

Tỉnh/Thành phố

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng số chung

(toàn quốc)

167097238

85514450

95410490

98222933

136948961

15058985

213929676

347702000

555620000

2266609000

Bắc Trung bộ

15782172

15905772

23334852

23334852

25472232

3923415

65688036

95832000

108407000

447013000

Thanh hóa

7899840

6319296

10184400

10184400

10422120

1399590

18963180

27655000

34490000

206973000

Nghệ An

2268144

2841696

4127760

4127760

4433400

343980

17236800

25281000

38849000

109174000

Hà Tĩnh

1844880

2523600

3099600

3099600

3192000

608850

5781780

6272000

11316000

54661000

Quảng Bình

1479312

1512000

2420280

2420280

2249220

236970

19389780

29500000

10383000

25400000

Quảng Trị

1016316

961488

1430832

1430832

1727652

166770

1281696

2345000

5153000

19058000

Thừa thiên-Huế

1273680

1747692

2071980

2071980

3447840

1167255

3034800

4779000

8216000

31747000

Duyên hải Trung bộ

6591996

6792962

11022710

12014417

16476317

1518615

19086480

26784000

47921000

224599000

Đà Nẵng

1253088

1319386

1029830

1118477

2739257

134145

3674160

3781000

2793000

27214000

Quảng  Nam

2074680

1681200

2704320

2704320

4585680

566370

4725000

4677000

20071000

78871000

Quảng Ngãi

1006992

148320

3189780

3189780

3522240

351090

4349700

6283000

7535000

49034000

Bình Định

889596

1753020

2075220

963900

263080

233100

2646000

4504000

5257000

26254000

Phú Yên

647856

848952

960120

960120

1037220

122445

1794420

4036000

6462000

16564000

Khánh Hòa

719784

1041984

1063440

1230480

1908840

111465

1897200

3503000

5803000

26662000

Tây Nguyên

3850272

4017072

4323780

-

6625440

658710

5962680

10840000

28431000

93172000

Kon Tum

620640

639360

964980

1194480

1743480

171540

1084860

2290000

4127000

13362000

Gia Lai

12244736

1294992

1511460

216000

1888140

232020

564300

1561000

5483000

22242000

Đắc Lắc

301440

216000

658560

29250

3358800

1747000

4445000

23179000

Đắc Nông

2082720

1847340

1847340

-

-

359100

360000

1792000

8330000

Lâm Đồng

1683456

18734376

13287024

14298876

2335260

225900

595620

2852000

12585000

27059000

 

Số liệu ở bảng 1 cho thấy, kinh phí theo chế trợ cấp thường xuyên cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên qua các năm (từ năm 1998-2007) có chiều hướng tăng lên theo các năm 1998 (chiếm 15,69% tổng số kinh phí trợ cấp trên toàn quốc) đến năm 2004 (chiếm 42,41%), các năm còn lại có xu hướng chựng lại nhưng vẫn chiếm một tỉ trọng tương đối cao so với các khu vực khác trong cả nước (năm 2005, 2006, 2007, 2009 lần lượt chiếm tỉ trọng là 38,38%, 33,25%, 33,74%, 38,60%). Như vậy, có thể thấy chỉ với 17 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên[5] nhưng đã chiếm đến gần 40% tổng số kinh phí trợ cấp xã hội tính trên phạm vi toàn quốc. Rõ ràng đây cũng là chỉ báo thể hiện tính “đặt thù” của dãi đất miền Trung-Tây nguyên này. Tính đặt thù này được thể hiện rõ trên những bình diện sau đây:

a)      Chế độ trợ cấp đối với người tàn tật, trẻ em mồ côi, người cao tuổi

Như đã nói ở trên, Việt Nam là một quốc gia đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc mà di chứng và hậu quả của nó để lại là quá lớn, mà trong đó có thể kể đến là số người tàn tật từ bom đạn của chiến tranh, số lượng không nhỏ bị nhiễm và phơi nhiễm chất độc màu da cam[6]. Theo số liệu thống kê năm 2009 của Bộ Lao động thương binh và xã hội, hiện toàn quốc có khoản 6,1 triệu người (khoản 7,8% dân số) là người khuyết tật. Trong số 6,1 triệu người này, có 385 nghìn người khuyết tật nặng. Cũng theo công bố của Bộ Lao động thương binh và xã hội thì số người khuyết tật được nhận hỗ trợ hàng năm trong năm 2009 là 487.384 người (chiếm khoản 8% trong tổng số người khuyết tật).

Nếu xét về vùng kinh tế-xã hội thì vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có tỷ lệ người khuyết tật cao nhất (9,7%); tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng (8,1%) và vùng Trung du và miền núi phía Bắc (8%). Tỷ lệ người khuyết tật thấp nhất là ở vùng Đông Nam bộ. Với khuyết tật nặng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có tỷ lệ người khuyết tật nặng cao hơn đáng kể so với các vùng khác. Trong đó các tỉnh có tỉ lệ người khuyết tật nặng cao là Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam và Bình Định.

Bảng 2: Số người tàn tật nặng được trợ cấp thường xuyên theo tỉnh/thành phố

 

Khu vực/tỉnh/ thành phố

Năm

1998

Năm

1999

Năm

2000

Năm

2001

Năm

2002

Năm 2003

Năm 2004

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Toàn quốc

63132

64738

88681

99561

101393

120197

164325

183830

367960

487384

Bắc trung bộ

19615

21170

28712

287122

26542

22473

35198

37134

57826

90690

Thanh Hóa

10467

10467

13146

13146

12e820

12820

16685

17216

34105

62950

Nghệ an

4520

4520

4626

4626

4520

0

11095

11425

6295

12421

Hà Tĩnh

1776

3085

4920

4920

4920

4920

5431

3134

7515

5322

Quảng bình

1110

1326

3117

3117

1513

1905

1913

3859

1321

Quảng trị

516

496

656

656

801

841

952

952

1630

Thừa thiên Huế

1226

1276

2247

2247

1968

1987

1987

2494

5100

7046

Duyên Hải Nam trung bộ

2894

3678

26368

7192

10086

9442

8622

10555

52874

36369

Đà Nẵng

546

836

1212

1298

937

937

1495

1594

1360

7195

Quảng nam

1258

1258

1205

1205

4391

4391

2330

2500

10300

12398

Quảng ngãi

37

6

1898

1904

1895

1895

2742

2742

2942

5292

Bình Định

560

800

1188

540

1176

1168

1219

2131

36800

1295

Phú Yên

324

424

482

471

430

526

836

2491

557

4403

Khánh Hòa

169

354

383

557

1257

525

-

691

915

5786

Tây nguyên

1818

2538

2656

1399

4337

4267

6416

5012

8718

23789

Kon Tum

30

540

622

1087

1198

1318

1426

1443

1735

4611

Gia Lai

722

775

813

150

1780

1487

-

1487

2099

7103

Đắc lắc

62

9

4

162

150

150

4654

572

3380

4817

Đắc Nông

-

-

-

-

-

-

336

337

337

1766

Lâm đồng

1004

1214

1217

1217

1209

1312

-

1173

1167

5492

 

 

Số liệu ở bảng 2 cho thấy, mặt dù số người khuyết tật ở nước ta rất lớn nhưng chỉ một lượng nhỏ (khoảng 8%) số người khuyết tật đó được thụ hưởng sự trợ cấp từ quĩ phúc lợi xã hội. Trong đó, khu vực miền Trung-Tây Nguyên, với tỉ lệ người khuyết tật cao nhất nước nhưng cũng chỉ được hưởng chế độ trợ cấp từ quĩ công cộng chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 30% trong tổng số người khuyết tật nặng. Cũng từ bảng 2 cho thấy, mặt dù con số tuyệt đối (cộng dồn) tỉ lệ người khuyết tật ở khu vực miền Trung-Tây nguyên là tăng theo các năm, nhưng tỉ lệ người khuyết tật được thụ hưởng trợ cấp thì có xu hướng giảm theo các năm, chẳng hạn năm 2006 là 32% (119.481 người)  nhưng đến năm 2007 chỉ còn khoảng 30% (150.848 người).

Một trong những đối tượng mà chính sách xã hội nói chung, chế độ bảo trợ xã hội nói riêng muốn nhắm đến là đối tượng trẻ em mồ côi. Theo thống kê, số lượng trẻ em mồ côi trong năm 2009 được hưởng trợ cấp thường xuyên trên phạm vi toàn quốc là 51939 đối tượng. Trong khi đó, số đối tượng được trợ cấp tương ứng ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong năm 2009 chiếm gần ½ (xin xem bảng thống kê số 3) mà con số chính xác là 44,54%. Trong đó Thanh Hóa, Quảng Nam, Nghệ An, Đà Nẵng là những tỉnh có số trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp cao nhất khu vực.

Bảng 3: Trẻ em mồ côi hưởng trợ cấp thường xuyên theo địa phương(đvt: người)

Tỉnh/ thành phố

Năm

1998

Năm

1999

Năm

2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Năm 2004

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Toàn quốc

36831

27367

31851

32564

30854

31877

39238

46529

45343

51939

Bắc trung bộ

4377

3747

3704

3704

6280

6219

9402

9460

6422

10318

Thanh Hóa

1577

974

947

947

3237

3237

4312

4132

2410

4992

Nghệ an

425

425

551

551

425

425

1812

1974

1974

2412

Hà Tĩnh

460

492

505

505

447

447

823

899

282

512

Quảng bình

943

884

501

501

850

426

454

454

360

982

Quảng trị

360

299

432

432

452

513

536

536

289

556

Thừa thiên Huế

612

673

768

768

869

1171

1465

1465

1107

864

Duyên Hải Nam trung bộ

4006

3731

5466

5769

4111

4013

5886

6555

7350

8381

Đà Nẵng

434

327

886

1023

348

348

905

905

787

1133

Quảng Nam

1854

2061

2067

2067

1600

1600

2120

2213

3682

5040

Quảng Ngãi

563

146

756

925

681

681

996

996

999

741

Bình Định

174

238

680

624

365

26

1012

1159

480

378

Phú Yên

692

538

538

537

585

837

759

759

849

411

Khánh Hòa

289

421

539

593

532

521

94

523

553

678

Tây nguyên

3313

3342

3785

2975

2808

3153

2295

4387

3474

4435

Kon Tum

859

592

1105

924

653

579

-

914

571

626

Gia Lai

1139

1044

1053

238

732

1139

1020

943

940

755

Đắc lắc

199

180

115

301

250

250

1084

959

561

906

Đắc Nông

-

-

-

-

-

-

191

191

168

148

Lâm đồng

1126

1526

1512

1512

1173

1185

-

1380

1234

2000

Số liệu từ bảng 3 cũng cho thấy, số lượng trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp thường xuyên (theo con số tuyệt đối) ở các tỉnh miền trung là khá lớn, tỉ lệ trẻ em mồ côi được trợ cấp hàng năm là những con số liên tục tăng (thấp nhất là năm 1998, chiếm 31,76% trên phạm vi cả nước; cao nhất là 44,54% trong năm 2009). Chỉ tính riêng khu vực bắc Trung bộ (bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế) số trẻ em được thụ hưởng trợ cấp chiếm 44,6% trong toàn khu vực miền Trung và chiếm 19,8% trên toàn quốc. Đây cũng là một điểm đặt biệt của khu vực bắc Trung Bộ nói riêng của khu vực miền Trung nói chung.

Một đối tượng khác nữa đang được thụ hưởng chính sách bảo trợ xã hội từ nguồn quĩ phúc lợi của nhà nước đó là người cao tuổi. Theo luật người cao tuổi Việt Nam và Nghị định số 06/2011/NĐ-CP [7]. Nếu lấy thời điểm mà Nghị định này có hiệu lực (tức là từ từ 1/3/2011) thì trên toàn quốc ước tính có khoản 8,6 triệu người cao tuổi. Đây là một chính sách hoàn toàn phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của chính đối tượng người cao tuổi, đồng thời thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chế độ ta khi chăm lo đến đối tượng người cao tuổi khi mà hiện tượng già hóa dân số ở nước ta đang diễn ra mạnh mẽ; bởi theo khảo sát, hiện nay xu hướng người già ít sống với con cháu trở nên phổ biến, do đó đây là thách thức đối với công tác chăm sóc người cao tuổi hiện nay. Bên cạnh đó, vẫn còn 7% người cao tuổi được khảo sát vẫn sống trong nhà tạm, 58,9% người cao tuổi đang phải làm việc để kiếm sống với thu nhập bấp bênh, chủ yếu ở nông thôn. 63% người cao tuổi được hỏi cho rằng, cuộc sống còn thiếu thốn và chưa đến 2% nói rằng cuộc sống rất đầy đủ. Khoảng 14% người cao tuổi đang sống trong hộ nghèo. Cũng theo nghiên cứu, có tới trên 50% số người cao tuổi được phỏng vấn cho rằng tình trạng sức khỏe hiện tại là yếu hoặc rất yếu, gần 50% trong số họ không đủ tiền để chi trả cho các dịch vụ y tế [8]. Tuy nhiên, công bằng mà nói, đây cũng chính là áp lực không nhỏ cho công tác trợ cấp cho đối tượng người cao tuổi khi nguồn kinh phí của nhà nước là có hạn lại phải “chia sẻ” cho nhiều đối tượng khác trong chính sách an sinh xã hội.

Trên bình diện chung, có thể nói rằng, hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi hiện nay lại không có tính hỗ trợ đối với phần lớn người cao tuổi, đặc biệt là nhóm người cao tuổi dễ tổn thương, vì họ không thể tham gia hệ thống hưu trí do các quy định hiện hành hoặc nhận được mức trợ cấp xã hội quá thấp. Hệ thống hưu trí đóng góp vận hành theo cơ chế tài chính thực thanh thực chi như hiện nay sẽ nhanh chóng bất cân đối về tài chính và sự cân đối này sẽ khiến cho việc trợ cấp đối với người cao tuổi sẽ không bền vững và khó có thể “phủ sóng” đến mọi đối tượng, nhất  là khu vực nông thôn.

Bảng 4: Số người cao tuổi được trợ cấp hàng tháng theo tỉnh/thành phố (đvt: người)

 

STT

Địa phương

Năm 2009

Tại cộng đồng

Cả nước

691920

Bắc trung Bộ

140582

Thanh Hóa

50995

Nghệ An

48344

Hà Tĩnh

14198

Quảng Bình

6171

Quảng Trị

7994

Thừa Thiên Huế

12880

Duyên Hải MT

90725

Tp. Đà Nẵng

7013

Khánh Hòa

7497

Quảng Nam

22851

Quảng Ngãi

18762

Bình Định

14783

Phú Yên

7930

Ninh Thuận

3739

Bình Thuận

8150

III.

Tây Nguyên

18844

Đắc Lắc

5570

Đắc Nông

1342

Gia Lai

4406

Kon Tum

1893

Lâm Đồng

5633

 

Đối với các tỉnh miền Trung, số người cao tuổi được thụ hưởng chính sách theo nghị định 06/2011/NĐ-CP chiếm đến 36% trong tổng số người cao tuổi cùng diện thụ hưởng trên phạm vi cả nước. Trong đó các tỉnh có số lượng người cao tuổi được thụ hưởng trợ cấp trong khu vực tương đối lớn là Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa thiên-Huế, Quảng Nam, Bình Định. Quả thật, đây là một áp lực đối với các địa phương khi phải cân đối tài chính để chi cho các đối tượng này. Đây chính là mâu thuẫn trong chính sách an sinh xã hội và chính sách kinh tế-xã hội mà nhiều quốc gia mắc phải, nhất là các quốc gia đang phát triển. Chính lẽ đó, muốn bảo đảm bảo chính sách an sinh xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, cần phải có những giải pháp căn cơ cho vấn đề này[9].

b)      Chế độ trợ cấp đối trợ cấp thường xuyên, đột xuất đối với các đối tượng bảo trợ xã hội

Trong bất cứ một xã hội nào và trong bất kì thời điểm nào, đều tồn tại những người (nhóm người), do một lí do nào đó, cần sự trợ giúp từ phía xã hội và cộng động. Sự trợ giúp này có thể là thường xuyên, cũng có thể là đột xuất; có thể về mặt vật chất cũng có thể về mặt tinh thần. Khu vực miền Trung –Tây Nguyên, như đã nói, được ví như là “khúc ruột” phải chịu nhiều thiệt hại từ thiên tai mà cụ thể là hạn hán, bão lụt. Nhiều hộ gia đình, qua một cơn bão đã khiến họ mất khả năng duy trì cuộc sống; không ít hộ qua một đợt lũ lụt đã trắng tay cần sự trợ cấp từ phía nhà nước và xã hội. Chỉ tính riêng về cơn bão số 9 năm 2009 (bão Ketsana) đã gây thiệt hại cho khu vực miền Trung là: 163 người chết, 11 người mất tích và 629 người bị thương; 21.614 nhà bị sập, trôi; 258.264 nhà hư hại và 294.711 nhà bị ngập. Ngoài ra, bão lũ còn gây thiệt hại rất nặng về nông nghiệp, thủy sản, giao thông, điện, thủy lợi..., tổng thiệt hại ước tính 14.014 tỉ đồng. Trong đó, Quảng Ngãi: 35 người chết, 341 người bị thương, hơn 4.200 nhà bị sập đổ, hơn 68.000 nhà bị tốc mái, tổng giá trị thiệt hại ước tính 4.870 tỉ đồng. Để khắc phục hậu quả bão này, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã phân bổ 80 tỉ đồng và 2.500 tấn gạo của Trung ương về các huyện để hỗ trợ khẩn cấp cho dân. Ngoài ra, tỉnh đã đề nghị Trung ương hỗ trợ thêm 420 tỉ đồng và 3.000 tấn gạo, 500 cơ số thuốc để phòng chống dịch bệnh, xử lý ô nhiễm môi trường. Quảng Nam thì triển khai chương trình “kho lúa cứu dân”, xây dựng mỗi xã một kho lúa để cứu dân. Như vậy, về nguyên nhân sâu xa, đối tượng trợ cấp xã hội, bảo trợ xã hội từ khu vực này xuất phát từ chính những đặt thù từ tình hình địa-kinh tế của khu vực, nó có liên quan đến vấn đề chế độ trợ an sinh cho người nghèo, người có thu nhập thấp. Phần này chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở phần sau.

Bây giờ chúng tôi muốn nói đến một đối tượng nữa trong chính sách trợ cấp xã hội đó là người già cô đơn không nơi nương tựa được hưởng trợ cấp thường xuyên từ quĩ phúc lợi xã hội. Theo thống kê của Cục bảo trợ xã hội, số người già cô đơn không nơi nương tựa trên phạm vi toàn quốc có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng người cao tuổi và tốc độ già hóa dân số của Việt Nam. Nếu như thời điểm năm 1998 số người già cô đơn không nơi nương tựa chỉ là 61915 đối tượng nhưng đến năm 2007 con số này lên đến 591563 người (tăng gần 10 lần). Như vậy,  có thể nói những đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên từ nguồn ngân sách của Nhà nước nói chung, đối tượng là người gia cô đơn không nơi nương tựa ở khu vực miền Trung ngày càng gia tăng. Điều này khiến cho vấn đề trợ cấp xã hội cho đối tượng này có nhiều khó khăn mà cụ thể là khó khăn về tài chính. Chính lẽ đó, việc chỉ “trông chờ” vào nguồn lực có hạn của Nhà nước, trong khi các đối tượng trợ cấp ngày một gia tăng như hiện nay đã trở thành một mẫu thuẫn trong chính chính sách an sinh xã hội của chúng ta mà những số liệu từ khu vực miền Trung là một minh chứng. Do vậy, về lâu dài, cần phải có những biện pháp hữu hiệu, căn cơ, có tầm chiến lược mới có thể đảm bảo được vấn đề thực thi chính sách bảo trợ xã hội. Vậy phải cần có những giải pháp thế nào, chúng tôi sẽ bàn ở phần sau.

Bảng 5: người già cô đơn không nơi nương tựa được hưởng trợ cấp thương xuyên theo tỉnh/thành phố.

 

Tỉnh/ thành phố

Năm 1998

Năm 1999

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Năm 2004

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Toàn quốc

61915

65079

73411

72045

68573

76964

157622

193813

155285

591563

Bắc trung bộ

15424

16618

14583

145832

13422

12876

76725

76280

44932

79014

Thanh Hóa

5237

5237

5145

5145

2225

2225

14120

14120

17400

26189

Nghệ an

2762

2762

2719

2719

2699

2699

19013

19013

19095

21377

Hà Tĩnh

2476

3258

3262

3262

3243

3243

4453

4008

2889

13046

Quảng bình

2510

2510

910

910

1700

1030

35453

35453

1242

5945

Quảng trị

1235

1235

1260

1260

1400

1511

1518

1518

1529

4431

Thừa thiên Huế

1204

1616

1287

1287

2155

2168

2168

2168

2777

8026

Duyên Hải Nam trung bộ

8676

6092

9965

9778

9968

10850

16557

16631

18100

46695

Đà Nẵng

582

582

748

887

759

759

1002

1002

1029

5469

Quảng nam

2086

1892

1861

1861

2204

2204

4300

3948

4404

10347

Quảng ngãi

2612

26

3356

3354

3331

3331

4317

4317

4335

8904

Bình Định

1872

1908

2245

891

2817

2818

2669

2484

3315

11009

Phú Yên

981

858

836

853

715

832

1728

1924

2425

6058

Khánh Hòa

543

826

919

957

142

906

2541

2956

2592

7908

Tây nguyên

2171

2423

2427

919

2771

2951

2331

4664

4964

33463

Kon Tum

393

398

420

561

571

597

583

579

721

2645

Gia Lai

916

1013

1020

99

789

1043

25

2135

461

7833

Đắc lắc

147

35

12

259

100

100

482

709

1387

12022

Đắc Nông

-

-

-

-

-

-

138

138

111

2792

Lâm đồng

715

977

975

975

1311

1211

1103

1103

2284

8171

 

c)      Chế độ, chính sách trợ giúp người nghèo, người có thu nhập thấp

Trợ giúp người nghèo, người có thu nhập thấp là một trong những thành tố quan trọng hệ thống chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thực hiện tốt chương trình Quốc gia về xóa đói giảm nghèo theo mục tiêu Thiên niên kỉ của Liên hiệp quốc. Bằng chứng là Đảng và Nhà nước đã xem vấn đề xóa đói giảm nghèo thành một trong những mục tiêu chiến lược nhằm giải quyết nạn đói nghèo và phát triển kinh tế xã hội theo hướng bền vững. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới đã có những đánh giá cao và ghi nhận những thành tựu của chúng ta về Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, với đặc thù về điều kiện lịch sử-địa lí và điều kiện chính trị-xã hội của Việt Nam, chính sách xóa đói giảm nghèo nói chung, chính sách hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo của chúng ta cũng còn những bất cập. Tỉ lệ người nghèo mặc dù đã giảm theo các năm nhưng vẫn còn khá cao (ước tính tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới của Việt Nam năm 2011 khoảng 15%)[10]. Bên cạnh đó, công cuộc xóa đói giảm nghèo của chúng ta là chưa bền vững và khoản cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng dãn rộng. Riêng khu vực miền Trung và Tây Nguyên, nơi có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất nước, việc thực hiện trợ cấp cho đối tượng này gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân, như đã nói khu vực này thường chịu nhiều thiệt hại từ thiên tai nên số đối tượng được hưởng chế độ trợ cấp luôn tăng lên hàng năm, chính lẽ đó mà các tỉnh như Quảng Bình, Kon Tom, Đắc Lắc tỉ lệ hộ nghèo vẫn ở mức 20%. Rõ ràng đây mà một thách thức cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên.

Bảng 6: Kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg tính đến 31/01/2011 (đvt: hộ)

 

TT

Tỉnh

Kế hoạch hỗ trợ của các ĐP

Số lượng hộ nghèo được hỗ trợ

 

Tổng số

(hộ)

Trong đó

Tổng số (hộ)

Tỷ lệ (%)

Trong đó

 

Hộ thuộc 62 huyện nghèo

Hộ dân tộc Khơme

Hộ thuộc 62 huyện nghèo

Tỷ lệ (%)

Hộ dân tộc Khơme

Tỷ lệ (%)

 

Cả nước

512.425

75.452

23.693

316.975

61,9

72.07

95,5

21.462

90,6

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I.

Bắc Trung Bộ

88738

22108

53371

60,1

21.432

96,9

 

1.                     

Thanh Hóa

35043

12678

21665

61,8

12.678

100,0

 

2.                     

Nghệ An

26016

7355

17156

65,9

7.355

100,0

 

3.                     

Hà Tĩnh

11103

 -

6372

57,4

 

4.                     

Quảng Bình

4426

713

2873

64,9

713

100,0

 

5.                     

Quảng Trị

7797

1362

2926

37,5

686

50,4

 

6.                     

Thừa Thiên - Huế

4353

 -

2379

54,7

 

 

 

II.

Duyên hải miền Trung

40700

15137

26018

63,9

14.044

92,8

 

7.                     

Quảng Nam

14533

1345

6654

45,8

1.249

92,9

 

8.                     

Quảng Ngãi

12744

10880

11086

87,0

9.906

91,0

 

9.                     

Bình Định

3805

1989

3050

80,2

1.989

100,0

 

10.                   

Phú Yên

4121

 -

587

14,2

 

11.                   

Khánh Hòa

1223

 -

1016

83,1

 

12.                   

Ninh Thuận

4274

923

3625

84,8

900

97,5

 

VI.

Tây Nguyên

41329

3505

29597

71,6

3.067

87,5

 

13.                   

Kon Tum

8209

2767

3391

41,3

2.329

84,2

 

14.                   

Đắc Lắc

12849

 -

12849

100,0

 

15.                   

Gia Lai

10997

 -

4083

37,1

 

16.                   

Đắc Nông

1956

1956

100,0

 

17.                   

Lâm Đồng

7318

738

7318

100,0

738

100,0

 

 

Từ số liệu trên chúng ta dễ dàng thấy rằng, từ sự chỉ đạo sát sao và kịp thời của Chính phủ, từ sự cố gắng, nỗ lực của chính quyền địa phương, công tác hỗ trợ cho đối tượng nghèo, hộ nghèo theo các Chương trình mục tiêu quốc gia của từng địa phương là đáng ghi nhận. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ về vật chất (như hỗ trợ về nhà ở, chính sách hỗ trợ tiền điện…) mà điều thiết yếu là cần phải nâng cao nhận thức của đối tượng này bằng nhiều hình thức và bằng nhiều kênh như giáo dục, y tế, văn hóa. Có như vậy, mục tiêu xóa đói giảm nghèo mới nhanh chóng đạt được và mang tính bền vững.

  1. Vấn đề tồn tại trong công tác cứu trợ xã hội ở các tỉnh miền trung và một số giải pháp tương ứng

Trong bất kì xã hội nào cũng tồn tại và phát sinh nhiều người, nhiều nhóm xã hội, do những hoàn cảnh nào đó mà họ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và cần một sự trợ giúp từ phía xã hội và cộng đồng. Do đó, chính sách an sinh xã hội nói chung, trợ giúp xã hội nói riêng trở thành một bộ phận thiết yếu hướng vào nhóm cư dân thiệt thòi, yếu thế hay nhóm dễ bị tổn thương này.

Khu vực miền Trung, trong những năm qua, đã và đang thực hiện tốt công tác trợ cấp xã hội mà cụ thể là các nhóm đối tượng như người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người cao tuổi, người nghèo, hộ nghèo, người có thu nhập thấp. Tuy nhiên từ những phân tích ở trên, chúng ta nhận thức công tác trợ cấp xã hội từ nguồn quĩ công cộng của khu vực này còn tồn tại những điểm bất cập sau:

Thứ nhất, Trong công tác thực hiện các chế độ trợ cấp còn mang tính “hành chính hóa” hay “ban ơn hóa”. “Hành chính hóa” thể hiện ở chỗ, dường như chính quyền sở tại của các tỉnh thành vẫn còn mang tính thụ động và việc thực hiện các chế độ trợ cấp dường như là thực hiện sự “chỉ đạo” từ TƯ. Đành rằng, chương trình an sinh xã hội hay trợ cấp xã hội từ nguồn quĩ công cộng cần có sự định hướng chỉ đạo của TƯ, thế nhưng không thể bị động và thực hiện theo kiểu “cầm tay chỉ việc” từ TƯ mà các cấp lãnh đạo, các cấp ủy đảng, căn cứ trên tình hình thực tiễn của địa phương, đưa ra và thực hiện những quyết sách liên quan nhằm giảm thiểu những rủi ro cho các đối tượng yếu thế, nhóm dễ bị tổn thương. “Ban ơn hóa” thể hiện ở chỗ, từ thực tiễn cho thấy không ít cán bộ coi việc thực thi chế độ trợ cấp xã hội cho các đối tượng thụ hưởng là một sự ban ơn, và chính là là những người đi ban phát ân huệ cho người khác. Chính quan niệm này cũng đã dẫn đến nhiều hệ lụy ngoài ý muốn về chính sách tốt đẹp của Nhà nước. Từ tồn tại này, theo chúng tôi, giải pháp tương ứng là, cần phải nâng cao hiểu biết của các nhà quản lí, hoạch định chính sách, thực thi chính sách về bản chất và mục tiêu của chính sách an sinh xã hội cũng như chính sách trợ cấp xã hội; đồng thời cần phải nâng cao tính chủ động của từng địa phương trong công tác hỗ trợ, trợ cấp xã hội nhất là công tác xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho các đối tượng thụ hưởng. Chính mỗi đối tượng thụ hưởng là một nguồn lực cho bản thân, cho xã hội chứ không phải là một lực cản hay chờ đợi một sự ban ơn từ phía xã hội. Có như vậy, chính sách hỗ trợ xã hội mới thực sự có ý nghĩa và là một động lực cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Thứ hai, từ những quan sát thực tiễn các tỉnh/thành ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên cho thấy, khi thực hiện chính sách về các chế độ trợ cấp xã hội, các địa phương này vẫn tiến hành theo kiểu “rời rạc”. Sự “rời rạc” này thể hiện ở hai phương diện: một là không có sự gắn kết giữa các địa phương khi thực thi chính sách bảo trợ xã hội nói chung, chính sách trợ cấp nói riêng, thậm chí còn diễn ra tình trạng “mạnh ai nấy làm”. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, khi thực hiện chính sách trợ cấp xã hội phải phát huy nhân tố gắn kết vùng (với những điều kiện lịch sử, địa lí, văn hóa-xã hội, kinh tế-xã hội tương đồng) nhằm phát huy hiệu quả của chính sách, tránh tình trạng “so bì” hay “bản vị”. Một phương diện khác nữa thể hiện sự “rời rạc” nữa là chưa có sự gắn kết giữa chính sách trợ cấp xã hội với chính sách khác như chính sách phát triển kinh tế vùng, chính sách phát triển kinh tế và phát huy thế mạnh của từng địa phương. Chính điều này khiến cho công tác trợ cấp xã hội thiếu tính chiến lược, tính bền vững và tính hài hòa. Từ tồn tại này, giải pháp tương ứng là, cần gắn kết các địa phương trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong công tác trợ cấp xã hội. Có thể hình thành qũi trợ cấp xã hội cho khu vực này. Trong khi tiến hành thực thi chính sách trợ cấp xã hội cần phải tiến hành trên bình diện vùng, tránh tư tưởng bản vị nhưng cũng tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”. Song song với nó, cần gắn kết các chương trình mục tiêu quốc gia, các thể chế chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược phát  triển kinh tế xã hội với chính sách an sinh xã hội và thực hiện chế độ trợ cấp xã hội. Cần xem chính sách trợ cấp xã hội là một thành tố trong chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung của địa phương, vùng miền của của quốc gia.

Thứ ba, thực tiễn khu vực miền Trung cho thấy, việc thực hiện chế độ trợ cấp xã hội là của các tỉnh/thành là trách nhiệm của “nhà nước” mà cụ thể là Sở lao động thương binh và xã hội các địa phương. Điều này “đúng nhưng chưa trúng”. Việc kiến lập và thực thi chính sách an sinh xã hội mà cụ thể là chính sách trợ cấp xã hội là trách nhiệm của nhà nước và trực tiếp tổ chức thực hiện là Sở lao động thương binh và xã hội các địa phương. Tuy nhiên, nếu cứ “qui trách nhiệm” như vậy thì hiệu quả của công tác trợ cấp xã hội sẽ không cao, nếu không muốn nói là phiến diện và bất cập. Bởi lẽ, trợ cấp xã hội là việc liên quan đến nhiều vấn đề xã hội khác nhau, đòi hỏi cần có sự kết hợp giữa các cơ quan hữu quan, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức nghề nghiệp và của gia đình, của cộng đồng và của chính đối tượng thụ hưởng.  Dó đó, cần phải nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, các tổ chức chính trị-xã hội và của từng người dân trong việc thực hiện các chế độ trợ cấp xã hội. Bởi trợ cấp xã hội không phải là “trách nhiệm ban ơn” từ nhà nước mà là trách nhiệm xã hội của các cơ quan hữu quan, của chính đối tượng thụ hưởng nhằm nâng cao năng lực của đối tượng, góp phần ổn định và phát triển xã hội.

Thứ tư, trong khi nguồn lực tài chính của Nhà nước có hạn, nguồn lực tự chủ của các địa phương khu vực miền Trung không phải dồi dào, thế những nếu chỉ dựa vào nguồn quĩ công cộng để thực hiện chế độ trợ cấp xã hội là điều bất cập. Thực tế của khu vực miền Trung cho thấy, nguồn quĩ mà Nhà nước hỗ trợ cho khu vực này chiếm đến 38,6% trong tổng nguồn kinh phí quốc gia cho lĩnh vực trợ cấp các đối tượng. Trong khi đó, số lượng người đủ điều kiện thụ hưởng trợ cấp xạ hội của khu vực này luôn tăng lên hằng năm nhưng số đối tượng được thụ hưởng trên thực tế lại giảm đi (30% số người khuyết tật ở khu vực miền Trung được thụ hưởng chính sách trợ cấp xã hội từ nguồn quĩ công cộng). Điều này dẫn đến một mâu thuẫn: các đối tượng thụ hưởng sẽ phải chia sẽ “một phần chiếc bánh” mà Nhà nước rót về các tỉnh/thành khiến cho phần thụ hưởng của đối tượng ngày một ít đi và có tính thiếu bền vững. Như vậy, với nguồn lực nhà nước có hạn, các địa phương nên chủ động tạo nguồn quĩ phúc lợi bằng nhiều kênh khác nhau thông qua việc vận động xã hội cùng tham gia vào công tác trợ cấp xã hội bằng phương thức xã hội hóa. Kinh nghiệm của Hàn Quốc, Philipin, Nhật Bản, Thái Lan cho thấy, nếu chỉ dựa vào nguồn quĩ công cộng (ngân sách nhà nước) để trợ cấp xã hội cho các đối tượng là không bền vững, không căn cơ. Do đó, nhà nước chỉ đóng vai trò “chất xúc tác”, kêu gọi các nguồn lực xã hội cùng tham gia công tác an sinh xã hội nói chung, công tác trợ giúp xã hội nói riêng. Như thế vừa đảm bảo nguồn quĩ bền vững vừa tuyên truyền giáo dục toàn dân về ý thức, trách nhiệm đối với xã hội, đối với các đối tượng yếu thế. Do đó, theo chúng tôi, miền Trung với truyền thống văn hóa tương thân tương ái, thương người như thể thương thân, nên tuyên truyền kêu gọi nhiều nguồn lực xã hội cùng tham gia vào công tác trợ cấp xã hội, từ đó hình thành quĩ phúc lợi xã hội cho vùng. Ngoài ra, theo chúng tôi, cần phải đưa quĩ phúc lợi này “sinh lợi” bằng cách đưa quĩ lên sàng chứng khoán để vừa công khai hóa, minh bạch hóa lại vừa sinh lợi. Như thế càng thúc đẩy xã hội hóa công tác trợ giúp xã hội, thúc đẩy ý thức cộng đồng của nhân dân.  

Thứ năm, như đã phân tích, với đặc thù của một vùng đất chịu nhiều thiệt thòi trong chiến tranh lại phải gánh chịu nhiều tác động của thiên tai như hạn hán, bão lụt… khiến cho khu vực này vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, nhất là trong công tác cứu trợ xã hội, trợ cấp xã hội. Khó khăn đó thể hiện ở chỗ, vì những điều kiện lịch sử, địa lí, chính trị-xã hội, kinh tê-xã hội đặc thù đó mà số đối tượng cần được sự trợ cấp, hỗ trợ từ phía xã hội tương đối lớn, trong khi nguồn lực quốc gia cũng như nguồn lực của mỗi địa phương là có hạn tạo nên tình huống “lực bất tòng tâm” trong công tác an sinh xã hội. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ, đối với khu vực miền Trung-Tây Nguyên, cần phải gắn kết chế độ an sinh xã hội nói chung, chế độ trợ cấp xã hội nói riêng vào trong từng chính sách phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương và của toàn vùng. Cụ thể mà nói, khi kêu gọi đầu tư, các nhà hoạch định chính sách vùng cũng như chính sách địa phương mình, cần đưa yếu tố an sinh xã hội làm “điều kiện cần” và “điều kiện thiết yếu” cho các nhà đầu tư. Đứng về phía chính quyền, có quyền yêu cầu nhà đầu tư thực hiện một số nghĩa vụ về trợ cấp xã hội (như hỗ trợ kinh phí, thu nhận việc làm, hỗ trợ kĩ thuật…), về phía nhà đầu tư cần phải xem đây là yếu tố “công tác xã hội” để có nghĩa vụ chia sẻ khó khăn cho vùng và cho từng địa phương. Biện pháp này vừa gắn kết nhà đầu tư với địa phương và người dân, vừa chia sẻ gánh nặng kinh phí từ phía nhà nước, vừa mang tính bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của vùng.

 



[1] Trong bài viết này,  chúng tôi dùng khái niệm “miền Trung-Tây Nguyên” hay “miền Trung” đều hàm chỉ 17 tỉnh/thành thuộc các khu vực Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Miền Trung và Tây Nguyên.

[2] Nhóm yếu thế, nhóm dễ bị tổn thương  (Vulnerable groups) là nhóm được nói đến trên hai phương diện: một là tình trạng bấp bênh về công ăn việc làm, hai là mức độ thụ hưởng các nguồn lợi về an sinh xã hội và được định nghĩa như sau: “Dễ tổn thương không hoàn toàn đồng nghĩa với nghèo đói nhưng họ có rất ít khả năng tự bảo vệ, bấp bênh và dễ rơi vào rủi ro, sốc (shock) và căng thằng (stress). Xem: Phạm Đi, “Tính dễ tổn thương một biểu hiện của nghèo đô thị”, Tạp chí Sinh hoạt lí luận, số 3(70) 2005, trang 44-45.

[3] Nguồn: Cục bảo trợ xã hội, Bộ Lao động thương binh và xã hội. Trong năm 2009, tổng kinh phí trợ cấp thường xuyên trong phạm vi cả nước là 1.988.811.029.000đ, trong khi đó chi cho Khu vực miền Trung- Tây Nguyên là 767.154.960.000đ

[4] Nguồn: Bộ lao động thương binh và xã hội

[5] Ở đây, theo số liệu thống kê của Bộ Lao động thương binh và xã hội thì các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên là 17 tỉnh theo số liệu thống kê được trợ cấp thường xuyên từ quĩ phúc lợi của Nhà nước. Xét về tỉ lệ thì chiếm khoảng 27%  số tỉnh thành trong cả nước.

[6] Theo thống kê, hiện có khoản 5 triệu người bị phơi nhiễm chất độc da cam từ chiến tranh

[7] Nghị định số 06/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi. Theo đó, mức chuẩn trợ cấp xã hội để xác định mức trợ cấp xã hội hằng tháng, mức trợ cấp nuôi dưỡng hằng tháng đối với người cao tuổi (NCT) là 180.000 đồng (hệ số 1.0). Mức trợ cấp xã hội hằng tháng thấp nhất đối với NCT quy định tại Điều 17 Luật NCT sống tại cộng đồng do UBND xã, phường, thị trấn quản lý như sau: Mức 180.000 đồng/người/tháng (hệ số 1.0) đối với NCT từ đủ 60 đến 80 tuổi và mức 270.000 đồng/người/tháng (hệ số 1.5) đối với NCT từ đủ 80 tuổi trở lên thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng.NCT từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định như trên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trợ cấp xã hội hằng tháng cũng được hưởng trợ cấp 180.000 đồng/người/tháng. NCT được nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật NCT và NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng quy định tại Điều 19 Luật NCT sẽ được hưởng mức trợ cấp 360.000 đồng/người/tháng (hệ số 2,0). Ngoài ra, nghị định cũng quy định, NCT được giảm ít nhất 15% giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng tàu thuỷ chở khách, tàu hoả chở khách, máy bay chở khách; NCT được giảm ít nhất 20% giá vé, giá dịch vụ khi tham quan, di tích văn hoá, lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng cảnh, tập luyện thể dục, thể thao tại các cơ sở thể dục thể thao có bán vé hoặc thu phí dịch vụ.

[8] Nguồn: Cục Bảo trợ xã hội

[9] Trong phần giải pháp chúng tôi sẽ bàn thêm về vấn đề này.

[10] Tỉ lệ hộ nghèo qua các năm: 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 lần lược là 18,1%, 14,75%, 12,1%, 11,3%, 9,45%

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ