PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC

 

PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC

Phạm vi nghiên cứu của xã hội học rất rộng, có thể nói, trong đời sống xã hội không có lĩnh vực nào mà xã hội học không tiến hành nghiên cứu. Nói cách khác, không có hiện tượng xã hội nào “nằm ngoài” đời sống xã hội, trong khi đó xã hội học nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội, và do đó liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với việc phát triển chiều rộng và chiều sâu về nội dung nghiên cứu, với những cách tiếp cận khác nhau, các nhà xã hội học đã phân chia phạm vi nghiên cứu của xã hội học thành các nhóm khác nhau. Đến thời điểm hiện tại, phạm vi nghiên cứu của xã hội học có thể chia làm 10 nhóm như sau:

Nhóm nghiên cứu về văn hóa và xã hội. Nhóm nghiên cứu này bao gồm các khái niệm về xã hội, các điều kiện tồn tại xã hội, các yếu tố cấu thành xã hội, bản chất của xã hội, mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và xã hội; hàm nghĩa của văn hóa, mối quan hệ giữa các luồng văn hóa, nét văn hóa, văn hóa chủ lưu và văn hóa không chủ lưu (các á văn hóa), các loại hình và tầng nấc văn hóa; các hành động xã hội, vấn đề xã hội trong các môi trường văn hóa khác nhau; tác động của quá trình phát triển, hội nhập quốc tế, các cuộc cách mạng công nghiệp đối với văn hóa truyền thống và xu hướng biến đổi văn hóa, niềm tin xã hội…

Nhóm nghiên cứu về xã hội hóa. Khái niệm xã hội hóa thường chỉ tiến trình xã hội hóa cá nhân (socialization)[1], nhưng ở nước ta được hiểu (và sử dụng) trên hai tầng nghĩa. Một để chỉ xã hội hóa cá nhân; một để chỉ xã hội hóa các hoạt động xã hội[2]. Theo đó, những nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu làm rõ các khái niệm, điều kiện, ý nghĩa, tính chất, vai trò của tiến trình xã hội hóa. Khi nghiên cứu xã hội hóa cá nhân, nghiên cứu làm rõ các nội dung cơ bản, các giai đoạn và đặc trưng chủ yếu của xã hội hóa; quá trình tái xã hội hóa (re socialization), nguyên nhân và mục đích của nó. Quá trình hình thành các vai trò xã hội, quan hệ giữa địa vị xã hội, vị thế xã hội và vai trò xã hội; các kiểu (loại) vai trò xã hội và cách thức mà con người “đóng vai” để phù hợp với các mong đợi xã hội về các vai trò tương ứng.

Đối với các nghiên cứu về xã hội hóa các hoạt động xã hội: xác định khái niệm xã hội hóa các hoạt động xã hội (y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, nghệ thuật…) từ đó làm rõ vai trò, chức năng, tính tất yếu của xã hội hóa các hoạt động xã hội. Các nghiên cứu tiến hành làm rõ chủ thể, khách thể, đối tượng, phương thức của quá trình xã hội hóa các hoạt động xã hội.

Trong điều kiện đặc thù ở Việt Nam, các nghiên cứu về xã hội hóa các hoạt động xã hội còn xác định mục tiêu của xã hội hóa nhằm từng bước tạo điều kiện cho mọi người thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo tính công bằng xã hội, thực hiện dân chủ hoá xã hội; tạo ra các nguồn lực cho các hoạt động (nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực…); phát huy tính chủ động, sáng tạo; đa dạng hoá loại hình, nguồn lực. Mặt khác, các nghiên cứu nhóm này cũng tiến hành xác định vai trò của hệ thống chính trị trong việc tổ chức thực hiện xã hội hoá, tránh các hiện tượng “lệch lạc” khi chủ trương xã hội hóa các hoạt động xã hội.

Nhóm nghiên cứu về quan hệ xã hội. Tiến hành nghiên cứu phương thức, tác dụng, hình thức biểu hiện của các mối quan hệ xã hội. Trong đó, làm rõ sự khác nhau trong các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với nhóm, giữa các nhóm với nhau để tìm ra các quy luật trong quan hệ xã hội. Đồng thời tìm hiểu các hình thức biểu hiện cụ thể về tính hợp tác và bất hợp tác (và đối kháng, xung đột) giữa cá nhân với nhau, cá nhân với nhóm, giữa các nhóm, từ đó lý giải một cách chính xác thông qua hệ thống lý luận và số liệu thực tiễn, tìm kiếm các giải pháp hợp lý để giải quyết các xung đột, đối kháng xã hội.

Nhóm nghiên cứu về các nhóm xã hội và tổ chức xã hội. Nhóm nghiên cứu này làm rõ khái niệm về nhóm xã hội, tổ chức xã hội và cách phân loại nhóm, kiểu tổ chức xã hội. Trong đó, đi sâu tìm hiểu điều kiện hình thành, đặc trưng, hình thức biểu hiện của nhóm sơ cấp, thứ cấp. Qua đó, nghiên cứu các nhóm đặc thù như gia đình gắn với các kiểu gia đình; kết cấu, biến đổi, chức năng của gia đình (truyền thống và hiện đại). Về tổ chức xã hội và các hình thức tổ chức xã hội khác nhau trong xã hội, nhóm nghiên cứu này tìm hiểu hình thức, kết cấu, các yếu tố cấu thành tổ chức xã hội. Từ đó, nghiên cứu hệ thống lý luận, phương pháp về quản lý các tổ chức xã hội.

Nhóm nghiên cứu về phân tầng xã hội, di động xã hội. Với hướng nghiên cứu này chủ yếu làm rõ khái niệm, ý nghĩa, các tiêu chí đánh giá phân tầng xã hội; đưa ra những kiến giải khác nhau về hiện tượng phân tầng xã hội và chủ yếu trả lời 3 câu hỏi: vì sao có hiện tượng phân tầng xã hội, tác động của phân tầng xã hội đối với xã hội (tích cực và tiêu cực), thái độ của chúng ta đối với hiện tượng phân tầng xã hội như thế nào. Song song với đó, nhóm nghiên cứu này tìm hiểu khái niệm, phương thức, cơ chế, ý nghĩa của hiện tượng di động xã hội (social mobility). Trong những năm gần đây, các nhà xã hội học Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về phân tầng xã hội và di động xã hội với những lát cắt khác nhau, phân hệ khác nhau, chiều tích khác nhau và có những kết quả hết sức thú vị[3]. Các vấn đề về di dân gắn với tìm hiểu nguyên nhân, động cơ, lực đẩy-lực hút, tác động của di dân đối với xã hội (nơi đi - nơi đến)... cũng là lĩnh vực nghiên cứu hết sức sôi động của hướng nghiên cứu này.

Nhóm nghiên cứu về quy phạm xã hội và quản lý xã hội. Làm rõ khái niệm, phương thức hình thành về quy phạm xã hội và quản lý xã hội; vai trò và hình thức cụ thể của quy phạm xã hội, thể chế xã hội, các chuẩn tắc xã hội. Quy phạm xã hội được hình thành tạo nên những chuẩn mực, khuôn mẫu và cùng với nó là hệ thống quy phạm pháp luật sẽ là những công cụ hữu hiệu trong quản lý xã hội. Do đó, khi nghiên cứu quy phạm xã hội thường gắn với vấn đề lệch lạc xã hội, khống chế xã hội, trật tự xã hội, quản lý xã hội. Hiện đã có phân ngành “xã hội học quản lý”, “xã hội học trong lãnh đạo quản lý”, “xã hội học với lãnh đạo, quản lý”...

Nhóm nghiên cứu về kết cấu xã hội và biến đổi xã hội. Kết cấu xã hội được nhiều ngành khoa học nghiên cứu, do đó, nghiên cứu xã hội học về cơ cấu xã hội chủ yếu nhấn mạnh đến kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định. Tuy nhiên, xã hội học sử dụng cách tiếp cận của khoa học tự nhiên khi nghiên cứu cơ cấu xã hội nên có cách nhìn mới mẽ đối với cơ cấu xã hội (về đặc trưng, tính chất, hình thức biểu hiện...). Đặc biệt, xã hội học tiến hành làm rõ các thành tố cơ bản về cơ cấu như nhóm xã hội (groups), vị thế xã hội (status), vai trò xã hội (roles), mạng lưới xã hội (netword), thiết chế xã hội (institution). Nghiên cứu các phân hệ của cơ cấu xã hội qua các lát cắt: cơ cấu xã hội-giai cấp; cơ cấu xã hội-nghề nghiệp; cơ cấu xã hội-dân số; cơ cấu xã hội-lãnh thổ; cơ cấu xã hội-dân tộc; cơ cấu xã hội-giới tính; cơ cấu xã hội-giáo dục; cơ cấu xã hội-kinh tế; cơ cấu xã hội-chính trị; cơ cấu xã hội-pháp luật... Hơn thế nữa, xã hội học còn nghiên cứu tốc độ chuyển biến, xu hướng, cách thức, mức độ biểu hiện của cơ cấu xã hội ở từng thời điểm và cả một giai đoạn phát triển; nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các phân hệ cơ cấu (chẳng hạn sự biến đổi về cơ cấu dân số tác động thế nào đến cơ cấu ngành nghề, cơ cấu kinh tế...).

Nhóm nghiên cứu về đô thị hóa và cộng đồng cư dân. Hiện đã có phân ngành xã hội học đô thị, xã hội học nông thôn. Tuy nhiên, các nghiên cứu của xã hội học về về đô thị hay nông thôn không tách rời nhau mà đan xen nhau, hỗ trợ nhau. Do đó, nhóm nghiên cứu này làm rõ khái niệm, các đặc trưng của đô thị và nông thôn (giống và khác nhau) gắn với con người (thị dân hay nông dân) trong từng địa vực đó. Vì vậy, cộng đồng dân cư gắn với những tố chất hiện hữu (và cần thiết)[4] là lĩnh vực nghiên cứu không thể bỏ qua của hướng nghiên cứu này. Xã hội học đô thị đi sâu tìm hiểu quá trình đô thị hóa và tác động của nó đối với cộng đồng ở các chiều tích khác nhau như văn hóa, lối sống, hoạt động lao động-sản xuất, hoạt động giải trí, hoạt động tiêu dùng, quan niệm niềm tin-tín ngưỡng... Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa nhanh ở nước ta cũng tác động không nhỏ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các cộng đồng dân cư, đến kết cấu xã hội... nên hướng nghiên cứu này được nhiều nhà xã hội học chú trọng, nhất là các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa[5].

Nhóm nghiên cứu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tác động của xã hội hiện đại đến cộng đồng. Nghiên cứu giới định về hiện đại hóa, hàm nghĩa, nguyên nhân và con đường hiện đại hóa của các quốc gia trên thế giới; nghiên cứu các phương diện chủ yếu của hiện đại hóa, các lý thuyết về hiện đại hóa. Nghiên cứu sự khác nhau về quá trình hiện đại hóa giữa các nước đã phát triển, đang phát triển; giữa các nước có nền chính trị, thể chế khác nhau. Đối với nước ta, tiến trình hiện đại hóa đất nước gắn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” sẽ được tiến hành như thế nào, huy động các nguồn lực xã hội hóa ra sao, vai trò của các chủ thể xã hội đối với phát triển đất nước như thế nào. Ngoài ra, hướng nghiên cứu nhóm này cũng làm rõ sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với đời sống con người, xã hội ở những bình diện khác nhau (cả về vật chất lẫn tinh thần).

Nhóm nghiên cứu về các vấn đề xã hội. Vấn đề xã hội là gì, nguyên nhân nảy sinh, tính chất, đặc trưng, tác dụng, cách nhìn nhận (thái độ và các lý thuyết giải thích), cách giải quyết là những lĩnh vực được các nhà xã hội học nghiên cứu làm rõ[6]. Đặc biệt, khi vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải tiến hành nghiên cứu mức độ thích ứng, sự điều chỉnh, sự chuyển biến của xã hội nói chung, của cộng đồng cư dân nói riêng đối với những vấn đề mới phát sinh. Nghiên cứu chuyển biến về thái độ, niềm tin, tâm lý, tâm thái của nhân dân trước những hiện tượng, vấn đề xã hội như phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo; vấn đề tham nhũng, lãng phí; vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, đứng trước những vấn đề xã hội phát sinh, các nhóm xã hội có thái độ nhìn nhận như thế nào, khả năng tự thích ứng và cân bằng tâm lý cũng như những hành động tương ứng cũng là những lĩnh vực mà hướng nghiên cứu này nhắm đến.

Cần phải nói thêm rằng, thực tế cho thấy, các lĩnh vực và phạm vi nghiên cứu của xã hội học không chỉ dừng lại ở 10 nhóm đã liệt kê ở trên. Cùng với sự phát triển của xã hội, hội nhập quốc tế sâu rộng cộng với tác động của “thế giới phẳng” của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học cũng gia tăng về số lượng, phạm vi, quy mô... Do đó, những liệt kê theo các nhóm ở trên chỉ là một sự quy nạp đơn giản, chưa phải đã đầy đủ và cập nhật. Nói cách khác, 10 lĩnh vực đã liệt kê ở trên chỉ đề cập đến các lĩnh vực nổi cộm và mang tính tham khảo.

TS. Phạm Đi

(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020)

 

 



[1] Vấn đề này sẽ được làm rõ ở phần vai trò xã hội và xã hội hóa ở chương 4

[2] Xã hội hoá các hoạt động xã hội là quá trình vận động, tổ chức các thủ thể xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng, các tổ chức xã hội) tham gia vào trong các hoạt động xã hội trên cơ sở nhận thức về vai trò và vị thế của mình, từ đó mà giúp cho các hoạt động xã hội  phù hợp với sự phát triển của xã hội. Xem thêm: Phạm Đi, Hiểu thế nào là đúng về chủ trương xã hội hóa các hoạt động xã hội ở nước ta hiện nay. Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 4(98), năm  2008.

[3] Xem: Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội & Phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005.

[4] Xem: Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM, 2016.

[5] Xem: Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb CTQG- Sự thật, 2018.

[6] Xem: Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb CTQG- Sự thật, 2018.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ