MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG VỀ TRI THỨC XÃ HỘI HỌC
MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA TRI THỨC XÃ HỘI HỌC
Bất cứ một ngành
khoa học nào thì cũng có những tính chất đặc trưng của nó, chính đặc trưng này,
vừa có tính chất chung của khoa học nhưng cũng vừa có tính chất riêng biệt, tạo
nên tính độc đáo, đặc thù và đôi khi rất thú vị khi nghiên cứu khoa học đó, xã
hội học không là ngoại lệ. Từ đối tượng, nhiệm vụ, cách tiếp cận, phương pháp
nghiên cứu của mình, xã hội học có những đặc trưng chủ yếu sau:
2.1.2.1.
Tính chỉnh thể
Như đã phân tích
phần đối tượng xã hội học, nhiều nhà xã hội học như A. Comte và H. Spencer cho
rằng xã hội học nghiên cứu toàn bộ đời sống xã hội thông qua các quy luật,
nguyên lý của tổ chức hệ thống xã hội; nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với tự nhiên và con người với cộng đồng, xã hội thông qua
các phương pháp khảo sát, quan sát, thực nhiệm, phân tích. Cá nhân và xã hội là
hai thực thể mang tính độc lập tương đối, có tác động tương hỗ, qua lại lẫn
nhau hình thành nên những hình thức, kết cấu hết sức phức tạp dưới nhiều hình
thức, mức độ khác nhau. Cho dù xã hội học có tiến hành nghiên cứu những hiện tượng
xã hội cụ thể, vấn đề xã hội cụ thể, hành động xã hội cụ thể nào đó nhưng xuất
phát điểm của nó cũng từ chỉnh thể xã hội, từ các bộ phận tổ thành nên chỉnh thể
xã hội. Tính chỉnh thể của tri thức xã hội học đã được các nhà sáng lập xã hội
học như A. Comte xác định thông qua đối tượng, phương pháp nghiên cứu. Cái mà
sau này C. Wright Mills[1] trong tác phẩm Trí tưởng tượng của xã hội học của
mình cho rằng, xét đến cùng yếu tố tối quan trọng của trí tưởng tượng xã hội học
chính là tính chỉnh thể của nó[2].
2.1.2.2.
Tính tổng hợp
Tính chỉnh thể
trong nghiên cứu của xã hội học quyết định tính tổng hợp của nó. Tính tổng hợp
của tri thức xã hội học thể hiện trên 2 bình diện:
Thứ nhất, nếu so sánh với các ngành khoa học xã hội khác như chính trị học, kinh tế
học, luật học, tâm lý học... thì có thể nhận thấy rằng, xã hội học không nghiên
cứu một hiện tượng xã hội chuyên biệt nào mà chủ yếu đi tìm hiểu, giải thích,
tìm ra các quy luật trong các mối quan hệ giữa con người với con người, con người
với xã hội thông qua các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội. Đó là điều khác biệt
giữa xã hội học với các khoa học xã hội khác. Chẳng hạn, luật học chủ yếu
nghiên cứu “các hiện thực pháp luật” thể hiện qua các “hiện tượng pháp luật”
như ý thức pháp luật, hành vi pháp luật, quan hệ pháp luật, văn hóa pháp luật,
kỹ thuật pháp luật thông qua quá trình chế định và thực thi hệ thống pháp luật
tương ứng. Trong khi đó, xã hội học (cụ thể là xã hội học pháp luật, xã hội học
tội phạm) cũng nghiên cứu về vấn đề tội phạm nhưng chủ yếu tìm hiểu các điều kiện
khách quan và chủ quan dẫn đến hành vi phạm tội và tìm ra câu trả lời “họ vì
sao phải phạm tội”, “tính chất, mức độ, sự tác động của nó đối với xã hội ra
sao?”, “nguyên nhân dẫn đến phạm tội?”, “làm thế nào để có biện pháp ngăn chặn
và giảm tỷ lệ phạm tội?”, “sau khi thực hiện các bản án, nếu có, thì họ quay về
với cộng đồng thế nào? Mức độ tái hòa nhập của họ thế nào?”, “Xu thế, khuynh hướng
các loại tội phạm trong tương lai?”, “Vai trò của nhà nước, các cơ quan chức
năng và các chủ thể xã hội khác trong phòng, chống tội phạm”... Như vậy, rõ
ràng tính tổng hợp của xã hội học học thể hiện rất rõ từ nội dung, phương thức,
biện pháp giải quyết.
Thứ hai, tính tổng hợp của tri thức xã hội học còn thể hiện ở chỗ, xuất phát từ các
mối liên hệ phổ biến của các hiện tượng, sự thật xã hội, xã hội học đi tìm kiếm
các quy luật để đưa ra “phác đồ điều trị” hay “bốc ra toa thuốc” tương ứng để
giải quyết (chữa trị) các căn bệnh (vấn đề xã hội) có liên quan. Bất kỳ hiện tượng
xã hội nào, trong quá trình phát sinh, phát triển và biến hóa của nó, cũng
không tồn tại một cách độc lập tuyệt đối mà luôn có mối liên hệ, ảnh hưởng, chịu
tác động hay tương tác với một (hoặc nhiều) hiện tượng xã hội khác. Khi tiến
hành nghiên cứu một hiện tượng xã hội nào đó, xã hội học luôn tìm kiếm những
nhân tố xã hội khác tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiện tượng đang
nghiên cứu, đồng thời bằng nhiều phương tiện nghiên cứu đặc thù, tiến hành
“cân, đong, đo, đếm” mức độ tác động, ảnh hưởng của mỗi nhân tố đối với vấn đề
nghiên cứu, từ đó tìm ra tính quy luật của nó. Ngoài ra, khi tiến hành phân
tích, khảo sát, quan sát... xã hội học cũng phải sử dụng các thành tựu, công cụ,
tri thức của một số ngành khoa học khác (kể cả khoa học xã hội và khoa học tự
nhiên) để thực hiện một cách hữu hiệu nhất. Điều đó càng khẳng định xã hội học
là một khoa học có tính tổng hợp cao.
2.1.2.3.
Tính thực chứng
Ngay từ khi khai
sinh ra khoa học xã hội học, A. Comte đã nhấn mạnh đến tính thực chứng của khoa
học này[3].
Do vậy, ngay từ những ngày đầu hình thành xã hội học, không bàn đến thực chứng
thì không có màu sắc của xã hội học; không nghiên cứu thực chứng (thông qua điều
tra thực địa) thì cũng không có “mùi vị” của xã hội học. Do đó, từ khi trở
thành một ngành khoa học độc lập đến nay, xã hội học luôn khẳng định vị thế của
mình bởi phương pháp nghiên cứu (điều tra bảng hỏi, phỏng vấn, quan sát, thực
nghiệm...) để khẳng định tính thực chứng của mình. Đương nhiên, trong quá trình
nghiên cứu, xã hội học cũng vận dụng các phương pháp như quy nạp, diễn dịch, lịch
sử, so sánh, phân tích tài liệu nhưng đó cũng chỉ là các phương pháp chung về sử
dụng các tri thức kinh nghiệm và tuyệt nhiên không dừng lại ở tư duy tư biện mà
kết hợp với các phương pháp đặc thù để tìm kiếm các quy luật xã hội. Chính vì
thế có thể nói, tính thực chứng là một đặc trưng hết sức rõ ràng của khoa học
xã hội học.
2.1.2.4.
Tính ứng dụng
Tính ứng dụng của
khoa học xã hội học thể hiện trên 3 bình diện sau: thứ nhất, tri thức xã hội học
rất gần gũi với với các khía cạnh của đời sống xã hội thường nhật và tạo nên một
“sức quyến rũ” nhất định[4].
Trong đời sống thường nhật, con người thường thực hành, thể nghiệm (trải nghiệm),
đóng vai nhưng đôi khi không ý thức, không giải thích được những hành vi mà
mình đang thực hiện, các vai trò mà mình đang đóng. Xã hội học sẽ giúp cho con
người lý giải, phân tích, định vị được các hành vi của mình, hiểu được các vấn
đề nảy sinh trong đời sống. Thứ hai, xã hội học luôn quan tâm đến các vấn đề hiện
thực (gắn với sự thật xã hội) trong đời sống đang diễn ra, đó cũng chính là những
vấn đề mà cả xã hội (hay nhiều người trong xã hội) quan tâm, theo dõi, cần sự
giải thích và đối sách giải quyết[5].
Những nghiên cứu của xã hội học đối với những vấn đề xã hội đang diễn ra trong
xã hội không ngoài mục đích lý giải, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất các giải
pháp tiến hành giải quyết một cách triệt để đối với vấn đề hiện tại và cả những
vấn đề tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Hơn nữa, những thành quả (kết quả)
nghiên cứu của xã hội học đều có những giá trị sử dụng và tính ứng dụng rất
cao. Thứ ba, kết quả nghiên cứu, các phương pháp, lý luận của xã hội học không
chỉ được sử dụng ở các cơ quan nhà nước, các nhà hoạch định chính sách mà ngay
cả các tổ chức xã hội, cộng đồng cũng có thể sử dụng. Tri thức xã hội học được ứng
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội bởi chính đối tượng và
các phương pháp ứng dụng của nó, không phải ngẫu nhiên mà nhiều ngành khoa học
xã hội và nhân văn cũng đã sử dụng tri thức và phương pháp nghiên cứu của xã hội
học để tiến hành nghiên cứu. Nói cách khác, tính ứng dụng của xã hội học là một
đặc tính khoa học này.
TS. Phạm Đi
(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản
lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020)
[1] C. Wright Mills (1916-1962), nhà xã hội học
người Mỹ. Tác phẩm “The Sociological Imagination” (Trí tưởng tượng xã hội học) được giới xã
hội học đánh giá rất cao.
[2]
Xem: The Sociological Imagination (bản tiếng Trung), Nhà xuất bản Tam Liên Thư Điếm, 2005, tr.5-10.
[3] Bàn về “Giáo trình triết học thực
chứng” của A. Comte nhiều người cho rằng đó là chủ nghĩa thực chứng xã hội học,
vì ở đó các nguyên tắc thực chứng đều hướng đến xã hội học với tính cách là
khoa học thực chứng trung tâm, có chức năng khám phá quy luật của lịch sử và cải
tổ đời sống xã hội. A. Comte là người khởi xướng thuật ngữ “xã hội học”; ông vừa
là người khai sinh chủ nghĩa thực chứng (Positivism), vừa là người đặt nền móng
cho xã hội học với phương pháp nghiên cứu đặc thù.
[4] Không phải ngẫu nhiên mà Peter Berger,
nhà xã hội học người Mỹ gốc Áo cho rằng: “Sức quyến rũ của xã hội học chính là ở
chỗ: bằng cách giải thích của nó khiến cho chúng ta có thể nhìn thế giới mà
chúng ta đã và đang sống suốt cả cuộc đời dưới một ánh sáng mới”…
[5] Chẳng hạn, vấn đề bạo lực gia đình, bạo lực
ở các trường mầm non, vấn đề tham nhũng, vấn đề ô nhiễm môi trường…
Nhận xét
Đăng nhận xét