LUẬN GIẢI VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
LUẬN GIẢI VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
Từ lý
thuyết tiến hóa xã hội
Như trên đã đề cập,
thuyết tiến hóa của Darwin cho rằng, các loài sinh vật trong đó có cả con người,
đều là kết quả phát triển và tiến hóa theo quy luật “chọn lọc tự nhiên”. Hơn thế
nữa, các nhà xã hội học theo tư tưởng tiến hóa luận đều tin rằng xã hội là một
thực thể hữu cơ, có quá trình tiến hóa theo một quy luật nhất định. Nói cách
khác, tiến hóa là quy luật tự nhiên và cũng là quy luật xã hội. Tiến hóa xã hội
cũng theo xu hướng “dần tiến” từ “phân hóa” đến chỉnh hợp và cuối cùng đạt đến
một trình độ “chuyên nghiệp”, phức tạp hóa, từ đó thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Nếu nhìn xã hội theo lát cắt lịch sử thì xã hội tiến hóa theo những nấc thang
nhất định, nấc thang sau cao hơn (cả về vị trí cơ học, tính chất và trình độ
phát triển) nấc thang trước đó và cuối cùng là một xã hội hoàn mĩ, hài hòa, tốt
đẹp. Theo đó, thực tế tiến hóa xã hội cho thấy, xã hội công nghiệp, hậu công
nghiệp mang đến cho con người những điều tốt đẹp hơn xã hội nông nghiệp (ở đây
không bàn đến yếu tố tiêu cực, mặt trái của sự phát triển, nhất là khía cạnh
văn hóa, lối sống). Những người theo trường phái tiến hóa như M. Weber cho rằng,
hình thức tiến hóa có thể đa dạng, do đó, ông ta nhìn nhận các nhân tố tâm lý,
văn hóa để tiến hành luận giả sự phát triển và biến đổi xã hội. Từ góc nhìn đó
để khẳng định, mỗi xã hội khác nhau thì mức độ biến đổi, các nấc thang tiến hóa
cũng khác nhau. Hơn thế nữa, trong cùng một xã hội, các lĩnh vực khác nhau cũng
có những xu hướng và mức độ biến đổi không giống nhau (ví dụ sự biến đổi về chiều
cạnh kinh tế chưa chắc đã kéo theo sự biến đổi về chiều cạnh đạo đức theo hướng
tích cực). Giải thích sự biến đổi xã hội lý thuyết tiến hóa tin rằng, tính
thích ứng của xã hội trong quá trình biến đổi xã hội là nhân tố luôn hiện hữu,
tuy nhiên hình thức biểu hiện của nó không giống nhau, và các nhà xã hội học cần
nghiên cứu một cách tỉ mỉ để nhận biết được các điều kiện cần thiết để xã hội
biến đổi.
Từ lý
thuyết tuần hoàn lịch sử
Lý thuyết tuần
hoàn lịch sử cho rằng lịch sử xã hội loài người biến đổi có tính tuần hoàn. Nhà
triết học người Đức là O. Spenler đã khẳng định rằng, tất cả hình thái xã hội
cũng giống như một sinh vật, đều trải qua quá trình phát triển và suy vong[1]. Mỗi một nền văn hóa đều có sắc thái của riêng
mình và cũng đều có quá trình phát triển giống như quá trình phát triển như
sinh vật, đều trải qua thời kỳ “dậy thì”, thanh niên, lão niên và cuối cùng là
suy vong, đó là giai đoạn cuối cùng của văn minh.
Cũng với cách tiếp
cận tuần hoàn lịch sử nhưng nhà lịch sử học người Anh là A. Toynbee lại chia sự
tiến hóa của xã hội loài người thành các giai đoạn: phát minh, phát triển, đình
trệ và phân hóa. Ông cho rằng, sự phát triển của lịch sử nhân loại là quá trình
thích ứng giữa áp lực xã hội và môi trường tự nhiên, khi mà áp lực này quá lớn thì một dân tộc nào đó có thể
suy yếu, thậm chí đình trệ; khi áp lực không đáng kể thì cũng không phát triển.
Tức là áp lực quá lớn và áp lực quá nhỏ cũng không có động lực cho sự phát triển.
Điều này thể hiện rõ nét nhất đối với các bộ lạc hay các nhóm người sống trên
các đảo, áp lực không đủ lớn khiến họ chỉ cần duy trì trạng thái “bình thường”,
và do đó, tốc độ biến đổi cũng gần như bằng không.
Nhà kinh tế học, xã
hội người Ý là V. Pareto cũng tin rằng sự biến đổi của xã hội cũng
mang tính tuần hoàn. Cái khác biệt của ông ở đây chính là sự tuần hoàn về địa vị
thống trị xã hội của tầng lớp tinh anh. Theo ông, sự vận động của lịch sử cũng
chẳng qua là “biến động thượng tầng”: ông chia tầng lớp tinh anh thành hai nhóm
là “cáo” và “sư tử”. Theo đó, dựa vào mưu kế để thống trị thì thuộc vào nhóm
“cáo”; dựa vào sức mạnh để thống trị thuộc nhóm “sư tử”. Cái khác biệt trong xã
hội chính là ở chỗ, tính phân chia, đối lập hay hòa hợp giữa quần chúng nhân
dân với tầng lớp tinh anh mà thôi. V. Pareto tin rằng, trạng thái cuối cùng của
xã hội là tìm kiếm sự cân bằng, muốn có được sự cân bằng đó phải dựa vào tầng lớp
tinh anh.
Từ lý
thuyết cân bằng xã hội
Như đã phân tích,
khi luận giải về biến đổi xã hội, lý thuyết tiến hóa xã hội và lý thuyết tuần
hòa lịch sử cũng không có sự thống nhất nhau, tuy nhiên điểm chung là ở chỗ, cả
hai lý thuyết đều nhấn mạnh đến quá trình biến đổi không ngừng của xã hội. Lý
thuyết cân bằng xã hội không nhìn nhận như vậy, những người theo lý thuyết cân
bằng xã hội không đề cao vai trò của biến đổi trong hệ thống xã hội mà chủ yếu
nhấn mạnh đến tính cân bằng, hài hòa, chỉnh hợp xã hội theo kiểu cấu trúc-chức
năng. Nói cách khác, cân bằng là trạng thái và mục tiêu cuối cùng của biến đổi
xã hội. Tất cả các nhóm, văn hóa, tổ chức trong xã hội đều có sự tương hỗ nhau,
mỗi một bộ phận, thành tố trong hệ thống có sự biến đổi sẽ tác động đến biến đổi
các bộ phận tố thành khác. Những biến đổi đầu tiên, nhỏ nhất có thể dẫn đến mất
cân bằng, thế nhưng các bộ phận khác đều có khả năng tự điều chỉnh và cân bằng,
từ đó hình thành cục diện hoàn chỉnh, ổn định, cân bằng. Xung đột xã hội chỉ là
tạm thời; cân bằng mới là trạng thái bình thường và tuyệt đối. Những sự đối lập
và phát triển đều có xu hướng cân bằng, ổn định; biến đổi xã hội cuối cùng đi đến
trạng thái cân đối.
[1] Oswald Arnold Gottfried Spengler (1880 – 1936) là một nhà sử học và triết
gia lịch sử người Đức, đồng thời quan tâm tới toán học, khoa học và nghệ thuật.
Ông được biết đến nhiều nhất với cuốn Sự suy tàn của phương Tây (Der
Untergang des Abendlandes), xuất bản các năm 1918 và 1922, bao phủ toàn bộ lịch sử thế giới. Ông đề xuất một lý thuyết mới về văn minh nhân loại, theo đó tuổi đời của các nền văn minh là hữu hạn và chúng nhất
định rồi sẽ tiêu vong.
Nhận xét
Đăng nhận xét