KHÁI QUÁT VỀ VỀ DÂN SỐ, VẤN ĐỀ DÂN SỐ

 

KHÁI QUÁT VỀ VỀ DÂN SỐ, VẤN ĐỀ DÂN SỐ

Dân số chính là cơ sở nền tảng cho hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội. Một mặt, dân số tự thân nó tuân theo quy luật biến đổi, do đó, những nghiên cứu quá trình hình thành, biến đổi của nó hình thành nên khoa học về dân số (dân số học); mặt khác, do bởi dân số có mối liên hệ mật thiết với các lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, khoa học tiến hành nghiên cứu mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng hình thành nên chuyên ngành xã hội học dân số. Do đó, xã hội học dân số chủ yếu nghiên cứu vào quá trình biến đổi, cơ cấu và mối quan hệ giữa nhân tố dân số với các nhân tố khác bằng phương pháp và kỹ thuật đặc thù. Nói một cách ngắn ngọn, đối tượng nghiên cứu của xã hội học dân số là các vấn đề dân số. Sau đây là một số khái niệm liên quan:

Dân số là tập hợp người sống được đặc trưng bởi quy mô, cơ cấu, chất lượng, sự biến động dân cư, mối quan hệ về kinh tế - xã hội và phân công lao động xã hội trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.

Quy mô dân số là số người sống trên một vùng lãnh thổ tại thời điểm nhất định. Quy mô dân số được xác định thông qua tổng điều tra dân số hoặc thống kê dân số thường xuyên.

Cơ cấu dân số là tổng số dân được phân chia theo: giới tính, tuổi, dân tộc, tôn giáo, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân …

Phân bố dân số là sự phân chia tổng số dân theo địa bàn hành chính, khu vực địa lý, khu vực kinh tế …

Vấn đề dân số

Dân số là một trong những nhân tố cơ bản cấu thành nên một xã hội hay quốc gia, do đó, tình trạng dân số hay vấn đề dân số không chỉ liên quan đến sự phát triển của xã hội hay quốc gia ở mức độ vĩ mô mà còn liên quan trực tiếp đến đời sống thường nhật của mỗi cá nhân trong xã hội, quốc gia đó. Nói đến vấn đề dân số là đề cập đến các vấn đề liên quan đến tính chất, quy mô, số lượng, cơ cấu… của dân số; vấn đề dân số có nội dung khá phức tạp, tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau và tiếp cận bởi các lăng kính khác nhau: kinh tế học, dân số học, chính trị học, đô thị học, văn hóa học, xã hội học…Xã hội học xem xét vấn đề dân số chủ yếu ở bình diện tác động của yếu tố dân số đến quá trình vận hành xã hội, những xung đột xã hội nảy sinh liên quan đến yếu tố dân số và cách thức giải quyết vấn đề dân số nhằm giảm thiểu tác động của nó đến hệ thống xã hội.

Điều kiện và nguồn lực tự nhiên là nhân tố quan trọng để con người sinh tồn. Không phải ngẫu nhiên mà Thomas Robert Malthus, nhà kinh tế học, nhân khẩu học người Anh; nhà kinh tế học David Ricardo đều có những nghiên cứu về dân số và cho rằng, khi dân số tăng trưởng sẽ có tác động đến nguồn lực tự nhiên, tăng trưởng kinh tế. Các nhà nghiên cứu này cho rằng, điều kiện và nguồn lực tự nhiên có hạn sẽ tác động đến vấn đề tăng trưởng kinh tế và nhân khẩu. Nói cách khác, vấn đề tăng trưởng dân số không tách rời vấn đề tăng trưởng kinh tế, tức là, tăng trưởng dân số sẽ tác động trực tiếp đến các nguồn lực tự nhiên mà hậu quả của nó là gia tăng áp lực đối với nguồn lực tự nhiên. Do nguồn lực tự nhiên là có hạn, sức chịu tải của nó sẽ không gánh nổi mức độ tăng dân số nhanh.

Khi tăng dân số quá nhanh, quá nóng luôn gây những tác động đến môi trường sinh thái. Môi trường sinh tồn của con người bao gồm không khí, hệ sinh thái, nước, đất, năng lượng… đồng thời, thông qua hoạt động lao động của con người khi tiến hành cải tạo các đô thị, vùng nông thôn, các vật kiến trúc sẽ luôn tác động đến môi trường tự nhiên. Trong thời kỳ săn bắt hái lượm do trình độ sản xuất còn thấp nên con người chủ yếu dựa vào tự nhiên. Theo dòng chảy lịch sử, đặc biệt là bắt đầu xuất hiện các thành phố thì vấn đề tập trung nhân khẩu với một mật độ cao đã có những tác động nhất định đến môi trường. Thế nhưng, quan sát cho thấy, trong xã hội nông nghiệp thì sự tác động của con người đến môi trường tự nhiên ở một mức độ nhất định. Từ sau cách mạng công nghiệp, khi mà con người tiến hành mở rộng tái sản xuất thì tác động của con người đến môi trường tự nhiên ở quy mô lớn hơn. Thêm vào đó, bằng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật tiên tiến, con người can thiệp nhiều hơn vào tự nhiên với những hoạt động như khai khoáng, khai thác dầu mỏ, công trình thủy lợi thủy điện. Dân số thế giới tăng đặc biệt nhanh vào nữa sau thế kỷ thứ 20. Vào giữa thế kỷ, tỷ lệ tăng dân số các nước đang phát triển đã tăng tới mức chưa từng có vì tỷ lệ sinh không giảm trong khi tỷ lệ chết giảm và tuổi thọ trung bình tăng[1].

Đặc trưng và tính chất vấn đề dân số

Dân số, bản thân nó không phải là vấn đề và nó chỉ trở thành vấn đề khi đặt dân số trong mối tương quan với xã hội, kinh tế, sinh thái, môi trường, nguồn lực tự nhiên. Thực chất của vấn đề dân số là sự không tương thích, thiếu hài hòa, thậm chí mất cân bằng giữa dân số và những biến động quá trình dân số với tình trạng phát triển kinh tế-xã hội tương ứng. Gọi là “vấn đề dân số” khi mà số lượng dân số, chất lượng dân số, kết cấu dân số, quy mô dân số không đáp ứng, tương thích hay hài hòa với nhu cầu phát triển và vận hành bình thường của xã hội, và từ đó làm trở ngại đến tiến trình phát triển, tiến bộ của xã hội; vấn đề dân số có tính lịch sử, tính địa vực (tính khu vực) và tác động trực tiếp đến xã hội cũng như các môi trường, nguồn lực tự nhiên trong phạm vi nhất định.

Nói đến tính lịch sử của vấn đề dân số tức là nói đến sự tác động của vấn đề dân số ở từng thời điểm lịch sử khác nhau, nói cách khác, trong từng thời điểm lịch sử khác nhau thì vấn đề dân số cũng không giống nhau. Trong xã hội nông nghiệp, sức sản xuất chủ yếu dựa vào sức lao động. Thế nhưng đối với Việt Nam cũng như các nước đang phát triển trên thế giới, do các nguồn lực tự nhiên ngày càng cạn kiệt và vấn đề ô nhiễm môi trường nên những nhà quản lý xã hội đã phải đưa dân số vào “kế hoạch hóa” mà mục tiêu là giảm thiểu mức độ tăng dân số quá nóng, từng bước gắn dân số với phát triển[2].

Tính chất địa vực của vấn đề dân số thể hiện ở chỗ, những khu vực khác nhau, quốc gia khác nhau thì tính chất và nội dung của vấn đề dân số cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với đất nước ta trong thời điểm hiện nay, vấn đề tăng dân số quá nóng hay quá tải dân số là một trong những vấn đề cần quan tâm và có những chính sách tương ứng, tuy nhiên, đối với một số quốc gia châu Âu và những quốc gia có tốc độ tăng trưởng dân số âm thì chính sách khuyến khích sinh đẻ nhằm tăng dân số lại là một bài toán nan giải[3].

Phạm Đi

 



[1] Nguyễn Trần Quế, Những vấn đề toàn cầu ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, H1999, tr.72.

[2] Xem: Nghị quyết TW 6 (Khóa XII) về Tăng cường công tác dân số trong tình hình mới.

[3] Vì đâu Nhật Bản lâm cảnh “thiếu trẻ con”?:  http://vneconomy.vn/the-gioi/vi-dau-nhat-ban-lam-canh-thieu-tre-con-2013032508463578.htm. Cập nhật ngày 1 tháng 11 năm 2016. ; Mức sinh thấp - Tác động và kinh nghiệm các nước trên thế giới: http://giadinh.net.vn/dan-so/muc-sinh-thap-tac-dong-va-kinh-nghiem-cac-nuoc-tren-the-gioi-cuoi-20130327091311937.htm . Cập nhật ngày 1 tháng 11 năm 2016.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ