KHÁI LƯỢT VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

 

KHÁI LƯỢT VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Khái niệm

Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin nhưng không phải thông tin nào cũng được gọi là "thông tin đại chúng" và phương tiện truyền tải thông tin nào cũng được gọi là "phương tiện truyền thông đại chúng". Do đó chúng ta cần phải làm rõ các khái niệm then chốt này.

Trước hết, "phương diện truyền thông đại chúng" là "Cái mà thông thường được gọi là truyền thông đại chúng là những thiết chế sử dụng những phát kiến kỹ thuật ngày càng tinh vi để phục vụ cho sự giao lưu tư tưởng, những mục đích thông tin, giải trí và thuyết phục tới đông đảo khán thính giả"[1]

Xã hội càng phát triển càng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng nhu cầu, qui mô, tăng cường tính đa dạng và hiệu quả của hoạt động truyền thông. Ngày càng có nhiều người tham gia vào các giao tiếp xã hội, vì vậy truyền thông trực tiếp giữa các cá nhân không thể đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu và đòi hỏi của xã hội. Con người tìm đến những quá trình truyền thông ở qui mô lớn nhờ sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật thông tin mới. Nói cách khác, phương tiện truyền thông đại chúng trở thành người điều khiển các quá trình giao tiếp mang tính xã hội rộng rãi. Như vậy, truyền thông đại chúng (mass communication) là hoạt động giao tiếp xã hội một cách rộng rãi thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng[2].

Như vậy, để thực hiện các hoạt động truyền thông trên phạm vi và quy mô rộng lớn cần phải có các phương tiện kỹ thuật thích ứng. Khoa học kỹ thuật càng phát triển càng tạo ra các phương tiện kỹ thuật hiện đại hơn, có sức mạnh hơn cho hoạt động truyền thông đại chúng.

Tóm lại, phương tiện truyền thông đại chúng (mass media) là những công cụ kỹ thuật hay những kênh mà phải nhờ vào đó người ta mới có thể thực hiện quá trình truyền thông đại chúng, nghĩa là tiến hành việc phổ biến, loan truyền thông tin ra mọi người dân trong cộng đồng, xã hội[3].

Một khái niệm liên quan nữa là "truyền thông đại chúng" (hay thông tin đại chúng) là thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, con người tiến hành giao tiếp xã hội. Như vậy, truyền thông đại chúng (mass communication) là hoạt động giao tiếp xã hội một cách rộng rãi thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng[4].

Đặc điểm của thông tin đại chúng

Những thông tin và phương tiện truyền tải thông tin được gọi là “đại chúng” phải có những đặc điểm sau: (1) Được sử dụng với quy mô đại chúng, tức là rất lớn về số lượng đơn vị và phạm vi hoạt động trên một quy mô rộng lớn. Các phương tiện tiếp nhận thông tin đại chúng trở nên phổ biến trong từng hộ gia đình và cá nhân; (2) Được sử dụng với mục đích đại chúng, tức là hướng tới phục vụ cho đại đa số nhân dân trong một quốc gia hoặc cộng đồng dân tộc. Đối tượng tiếp nhận thông tin từ phương tiện thông tin đại chúng khác nhau về trình độ học vấn, trình độ hiểu biết pháp luật và có thể phân tác về địa lý; (3) Thông tin đại chúng là những thông tin được thu thập từ đại chúng và truyền đi các thông tin có tính chất đại chúng. Có nghĩa là, nội dung các thông tin này không dành cho số ít người mà dành cho tất cả mọi người trong cộng đồng. Chính vì thế, các thông tin được phương tiện truyền thông đại chúng truyền đi bao giờ cũng có dung lượng vừa phải, có trình độ trung bình (không quá hàn lâm hay phức tạp), không quá chuyên sâu mà luôn phù hợp với quảng đại quần chúng nhân dân lao động trong một quốc gia, dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đối tượng của một tờ báo là đại đa số quần chúng, một tờ báo không được đại đa số ham chuộng thì không xứng đáng là một tờ báo. Muốn dân chúng ham chuộng coi tờ báo ấy là của mình thì các bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát”[5]; (4) Thông tin được các phương tiện truyền thông đại chúng truyền đi một cách công khai, nhanh chóng, đều đặn (có tính định kỳ), vô nhân xưng và không một chiều (có chiều ngược lại, tương tác); (5) Các thông tin được truyền đi phải được kiểm chứng và có độ tin cậy cao (tính xác thực, tính khoa học) và đặc biệt phải được thông qua “bộ lọc” của các cơ quan chức năng (nhằm định hướng tốt các luồng dư luận, tránh hiểu nhầm, gây mất đoàn kết,..); (6) Hệ thống thông tin đại chúng là các công cụ phục vụ đại chúng nhưng không nhất thiết là của đại chúng với tư cách là chủ sở hữu. Điều này tùy thuộc vào quan niệm và thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, chúng ta không cho phép “xã hội hóa” phương tiện truyền thông đại chúng cũng là minh chứng cho đặc trưng này.

Vai trò của thông tin đại chúng

Bất cứ chế độ xã hội nào cũng cần thiết phải tiến hành công tác tư tưởng, đó là hoạt động tác động vào ý thức con người nhằm hình thành và củng cố hệ tư tưởng lãnh đạo chính trị xã hội. Vai trò của truyền thông đại chúng thể hiện ở các khía cạnh cụ thể:

Thứ nhất, là công cụ đắc lực cho việc giành quyền lực và tiếp sau đó là bảo vệ, củng cố quyền lực chính trị cho các chính đảng, một giai cấp, một chính phủ. Thực tế cho thấy, vào mỗi mùa bầu cử nghị viện ở các nước, không khí chính trường lại trở nên sôi động với những đợt vận động của các ứng cử viên và các đảng phái. Các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, phát thanh được coi là những vũ khí đắc lực của các ứng cử viên để quảng bá hình ảnh và cương lĩnh tranh cử của mình. Các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò then chốt trong vận động tranh cử. Hầu hết các ứng cử viên đều đặc biệt quan tâm tới việc sử dụng phương tiện này để quảng bá hình ảnh và cương lĩnh tranh cử. Vì vậy, việc sử dụng truyền hình, truyền thanh, báo chí trong vận động tranh cử cũng được pháp luật các nước điều chỉnh chi tiết. Mỗi đảng đều được cấp một lượng thời gian lên hình và phát sóng, được cung cấp khoản tiền nhất định trả cho việc lên hình và phát sóng đó; thứ tự phát thanh, truyền hình do các đảng thỏa thuận với nhau, hoặc do ủy ban bầu cử quyết định. Việc sử dụng các kênh truyền hình và phát thanh tư nhân vào mục đích vận động tranh cử bị cấm ở một số nước như ở Cộng hòa Séc. Nhưng ở Mỹ, nơi truyền hình và phát thanh đều thuộc tư nhân, để bảo đảm sự bình đẳng, pháp luật quy định một mức giá truyền hình hoặc phát thanh cho vận động tranh cử. Đối với các thông tin liên quan đến tuyên truyền vận động tranh cử được đưa lên báo, ở Nga quy định nếu bài báo, bài phỏng vấn… do quỹ vận động tranh cử thanh toán, đảng hoặc ứng viên phải cung cấp thông tin về việc đã trả tiền như thế nào.

Thứ hai, hệ thống thông tin đại chúng có khả năng thông tin nhanh chóng và rộng khắp các vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, dịch bệnh, phòng vệ đất nước. Dịch cúm virus Corona NcoV xảy ra ở Vũ Hán (Trung Quốc còn gọi là COVID - 19) đã cho thấy sức mạnh của truyền thông trong công tác phòng, chống dịch bệnh trong phạm vi của Trung Quốc và cả thế giới[6].

Thứ ba, hệ thống thông tin đại chúng là kênh quan trọng góp phần nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật; truyền bá những kiến thức phổ thông, giáo dục đạo đức, nhân cách cho con người, hình thành giá trị chân, thiện, mỹ cho con người.

Thứ tư, hệ thống thông tin đại chúng là cơ chế thu phát thông tin phản hồi từ phía quản đại quần chúng nhân dân một cách hữu hiệu nhất và là công cụ kiểm soát xã hội hữu hiệu. Chính vì thế, Tony Bilton cho rằng: “Chúng tiêu biểu cho một kênh được thiết chế hóa để nhằm phân phối tri thức xã hội và tiêu biểu cho một công cụ mạnh mẽ của kiểm soát xã hội, cũng như phê phán xã hội[7].

Phạm Đi

 



[1] Tony Bilton, Nhận môn xã hội học (Phạm Thủy Ba dịch), Nxb Khoa học xã hội. H.1993, tr.318.

[2] Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.10

[3] Trần Hữu Quang, Xã hội học về truyền thông đại chúng. Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh. Tr.11.

[4] Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.10

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, H. 2011, tr.102.

[6] Tuy nhiên, qua đây cũng đặt ra vấn đề quản lý các thông tin không chính thống, giả mạo, bịa đặt, tin đồn gây ra những nhiễn loạn về thông tin. Trong khi cả thế giới đang phòng chống một đại dịch như COVID-19 thì các luồng thông tin không chuẩn xác gây nên một đại dịch về thông tin. Nhiều người đã bị xử lý bởi “sáng tạo” những thông tin không chính xác gây hoang mang trong xã hội. Do đó, bài toán đặt ra cho công tác quản lý, kiểm soát thông tin là vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong những tình huống bất thường như dịch bệnh, thiên tai,…

[7] Tony Bilton, Nhận môn xã hội học (Phạm Thủy Ba dịch), Nxb Khoa học xã hội. H.1993, tr.318.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ