KHÁI LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

 

KHÁI LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Chính sách xã hội (Social Policy) là khái niệm xuất phát từ châu Âu, từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, cùng sự phát triển nhanh chóng về khoa học và chính sách xã hội gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn xã hội, chính sách xã hội bắt đầu được nhiều quốc gia trên thế giới vận dụng. Thế nhưng thực tiễn cho thấy, việc xác định nội hàm của khái niệm này vẫn chưa thống nhất ở các quốc gia khác nhau, thậm chí ở mỗi cách tiếp cận lại có một định nghĩa khác nhau.

Đầu tiên, từ khái niệm “chính sách xã hội” người ta chiết tự “xã hội” để giải thích nó. Theo đó, chính sách xã hội, bản thân nó cho thấy không phải bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mà hàm chỉ lĩnh vực đặc thù nào đó mà thôi. Thông thường, nghĩa hẹp của “xã hội” chủ yếu thể hiện ở các tầng nghĩa: có liên quan trực tiếp đến đời sống của con người mà chủ yếu là lĩnh vực phi kinh tế, giải quyết mục tiêu mang tính xã hội. Trong đó, điểm quan trọng là: thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, duy trì sự công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.

Do bởi chính sách xã hội thực hiện nhiều mục tiêu khác nhau, hơn nữa mỗi nhà khoa học có cách tiếp cận không giống nhau nên cách hiểu về khái niệm chính sách xã hội cũng không thống nhất nhau, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội cũng là điều dễ hiểu. Có khái niệm hiểu theo nghĩa rộng, có khái niệm tiếp cận theo nghĩa hẹp; có định nghĩa tiếp cận từ giác độ giá trị nhưng cũng có định nghĩa hướng vào hành động cụ thể của chính sách xã hội để định nghĩa; có học giả từ cách tiếp cận mục tiêu của chính sách xã hội là thỏa mãn các nhu cầu của các thành viên trong xã hội để xác định nội hàm của khái niệm; với cách tiếp cận về giải quyết vấn đề xã hội gắn với chủ thể là chính quyền nhà nước để đưa ra  khái niệm tương ứng. Xuất phát từ cách nhìn nhận này, người ta cho rằng chính sách xã hội là tổng thể các quan điểm, các chủ trương mà chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội nêu ra, thể chế hóa và cụ thể hóa thành các biện pháp, công cụ tác động vào con người, nhóm xã hội và các cộng đồng xã hội nhằm đạt được những mục tiêu của chiến lược con người và giải quyết những vấn đề xã hội, tạo dựng môi trường tốt nhất cho sự phát triển toàn diện con người trong một không gian nhất định.

Cho dù cách giải thích về chính sách xã hội chưa có sự thống nhất nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm là, chủ thể của chính sách xã hội là nhà nước, mục tiêu của chính sách xã hội là giải quyết các vấn đề mang tính xã hội và đạt được các giá trị xã hội. Các giá trị mang tính xã hội ở đây chính là các giá trị tổng thể, phù hợp với nguyện vọng của đại đa số thành viên trong xã hội. Mục tiêu của chính sách xã hội mang tính xã hội tức hàm chỉ khía cạnh “xã hội” trong phát triển bền vững; chính sách xã hội không trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhưng chủ yếu thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, hướng đến các giá trị xã hội và nhất là tạo cơ hội cho các nhóm (nhất là nhóm yếu thế) để họ có cơ hội thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, hòa nhập vào xã hội. Mục tiêu chính là tăng cường tính ổn định và chỉnh hợp xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, xúc tiến sự phát triển toàn diện và tiến bộ xã hội. Cần phải hiểu một cách sâu sắc rằng, chủ thể của chính sách xã hội là chính phủ không đồng nghĩa với chính phủ là người duy nhất và “độc tôn” trong thực thi chính sách xã hội mà, quan trọng hơn cả, tất cả mọi thành viên trong xã hội phải có vai trò nhất định trong nhận thức và thực hiện các chủ trương của chính sách xã hội, phát huy tính tích cực xã hội , “đồng tham gia” và “cộng đồng hóa trách nhiệm”, điều đó thể hiện tính xã hội của chính sách xã hội.

Thứ đến, từ giác độ chính sách công nhìn nhận, chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính quyền nhà nước, hướng tới các lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, đến lợi ích của các nhóm xã hội trong xã hội, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội, thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội. Gắn với thực tiễn Việt Nam nhìn nhận, chúng ta đang tiến hành xây dựng và vận hành mô thức chính phủ kiến tạo, liêm chính, vì nhân dân phục vụ[1] thì chính sách xã hội hướng đến phục vụ người dân tốt hơn. Tính phục vụ này xoay quanh các lĩnh vực như giáo dục, y tế, nhà ở, việc làm, bảo đảm xã hội; giải quyết vấn đề người cao tuổi, người khuyết tật, vấn đề phụ nữ và trẻ em, vấn đề nghèo đói,…Muốn vậy, nhà nước phải ban hành hệ thống chính sách liên quan để có cơ sở pháp lý, hình thành các nguyên tắc, chế tài và huy động các nguồn lực để vận hành, thực hiện mục tiêu đặt ra. Như vậy, chính sách xã hội có liên quan đến quản lý xã hội.

Từ những phân tích trên cho thấy, cần phải hiểu chính sách xã hội trên hai bình diện: (1) Theo nghĩa rộng, chính sách xã hội hướng đến giải quyết các vấn đề xã hội (social problems), bao hàm tất cả những quan điểm, đường lối phát triển tổng thể mọi mặt trong đời sống xã hội của con người, thực chất là phát triển chế độ xã hội trên các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, nhân khẩu, hôn nhân, nhà ở, cộng đồng, môi trường, tôn giáo, dân tộc…; (2) Theo nghĩa hẹp, chính sách xã hội hàm chỉ các hoạt động cụ thể của chính phủ như xóa đói giảm nghèo, người tàn tật, chính sách người có công…, chính vì thế nhiều người đánh đồng với chính sách phúc lợi xã hội (sẽ làm rõ ở phần sau).

Tóm lại, chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính quyền nhà nước, hướng tới các lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, đến lợi ích của các nhóm xã hội trong xã hội, nó góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cho phù với sự phát triển chung của xã hội.

Từ định nghĩa trên có thể nhận định: (1) Chủ thể của chính sách xã hội chính là nhà nước; (2) Mục đích của chính sách xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển con người toàn diện, hướng đến công bằng xã hội, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, thiết lập một xã hội hài hòa, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội; (3) Bản chất của chính sách xã hội là hành động của chính phủ nhằm thực hiện mục đích phúc lợi xã hội, tạo công bằng xã hội và là biện pháp để quản lý xã hội.

Tuy nhiên, như đã đề cập, khái niệm chính sách xã hội có liên quan (thậm chí bị hiểu nhầm, đánh đồng) với một số khái niệm gần với nó. Do đó, chúng ta cần làm rõ một số khái niệm liên quan.

Phạm Đi

 



[1] Xem: Phạm Đi, Mô hình “chính phủ kiến tạo, phục vụ” của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam về xây dựng “Chính phủ kiến tạo, vì nhân dân phục vụ”. Tạp chí Khoa học Xã hội Miền Trung, số 4 (60)/2019, tr12.

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ