BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM - THÀNH QUẢ VÀ MỘT SỐ THÁCH THỨC
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM - THÀNH QUẢ VÀ MỘT
SỐ THÁCH THỨC
1. Việt Nam với việc thực hiện bình đẳng giới
Cho tới nay, Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế
trong đó có Công ước về “Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW, năm 1980), Công ước quyền trẻ em (CRC, năm 1990) và tích cực thực hiện
Cương lĩnh hành động Bắc Kinh (năm 1995) vì “Bình đẳng, hòa bình và phát triển”.
Bên cạnh đó, nhiều luật pháp, chính sách đã được ban hành hoặc được sửa đổi bổ
sung tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ
quyền phụ nữ, nổi bật là:
- Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam với
mục tiêu “Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của phụ nữ cũng
như tạo điều kiện cần thiết để phụ nữ được hưởng quyền cơ bản của mình, tham
gia và hưởng thụ một cách bình đẳng và đầy đủ trong mọi khía cạnh của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”;
- Sửa đổi bổ sung Bộ luật Lao động (năm 2002) về những nội
dung liên quan đến chính sách đối với lao động nữ bao gồm bảo hiểm xã hội, tiền
lương, bảo hộ lao động, đào tạo nghề…
- Luật Đất đai sửa đổi quy định giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và nhà ở phải đứng tên cả 2 vợ chồng.
- Pháp lệnh phòng chống Mại dâm (năm 2003) và Chương trình
hành động, phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em, xử lý nghiêm tội phạm
và những biện pháp hỗ trợ nạn nhân.
- Luật Bình đẳng giới được ban hành ngày 29/11/2006 và Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình ban hành ngày 21/11/2007 thể hiện sự cam kết cao
của Nhà nước trong thực hiện CEDAW, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về giới,
tạo quyền và bảo vệ quyền phụ nữ.
2. Một số thành tựu và thách thức trong thực
hiện bình đẳng giới ở VN
2.1. Bức tranh có nhiều “gam màu” sáng[1]
Để hiện thực hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nhiều dự án đã triển khai thiết lập các mô hình
góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới như: phòng chống bạo lực gia đình tại
cộng đồng rất thành công ở Huế, Hải Phòng, Ninh Bình… Điển hình như ở Đà Nẵng,
việc ra đời và duy trì các câu lạc bộ “cha mẹ học sinh phòng, chống bạo lực
gia đình” tại phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu và “nam giới tiên phong
trong phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em” tại xã Hòa
Phong, Hòa Khương thuộc huyện Hòa Vang đã thu hút được sự tham gia của
đông đảo người dân.Trên cơ sở đó, phải nói rằng không có nhiều quốc gia mà hoạt
động, biện pháp thực hiện bình đẳng giới được đưa thành chương trình hoạt động
cụ thể ở từng tỉnh, thành, địa phương và đạt được nhiều thành tựu như ở Việt
Nam.
Về chính trị, nữ giới Việt Nam có tổ chức chính trị riêng,
đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Và tỷ lệ nữ giới đại diện trong cơ quan lập
pháp của Việt Nam luôn thuộc nhóm có thứ hạng cao nhất trong khu vực nói riêng
và trên thế giới nói chung và tỷ lệ này ngày càng tăng. Điển hình, quán triệt
tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất,
tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển tài năng”[1] thì
tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội luôn duy trì ở mức cao và có xu hướng ngày càng tăng
lên. Cụ thể: từ 3% ở Quốc hội khóa I tăng lên 24,4% ở khóa VIII (2011 - 2016)
và tỷ lệ này là 26,72% với 133 nữ đại biểu Quốc hội trên tổng số 496 đại biểu ở
khóa XIV(2016 - 2021). Hay trong bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở
nhiều địa phương tỷ lệ phụ nữ trúng cử vượt dự kiến như: Đại biểu Hội đồng nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ phụ nữ trúng cử đạt 43%; Đại biểu Hội đồng
nhân dân quận Cầu Giấy - thành phố Hà Nội, tỷ lệ phụ nữ trúng cử đạt gần 45%.[2]
Bên cạnh thực hiện bình đẳng giới trên lĩnh vực chính trị
thì bình đẳng giới trong lao động cũng đạt được nhiều kết quả khả quan. Cụ thể,
năm 2017, tỷ lệ nữ giới tham gia lao động chiếm 48,4% lực lượng lao động từ 15
tuổi trở lên. Và với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động lên đến 73% trong tổng số
phụ nữ trong độ tuổi lao động, tỷ lệ phụ nữ Việt Nam hiện đang đi làm nhiều hơn
hẳn so với phần lớn các quốc gia khác trên thế giới. Tỷ lệ này cũng cao hơn mức
trung bình thế giới (49%), cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Á - Thái
Bình Dương (59%) và nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (39%).[3]
Thêm vào đó, tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp và cơ sở kinh
doanh ở nước ta đạt trên 31,6%, thuộc nhóm cao nhất của khu vực Đông Nam Á cũng
là thành quả rất đáng ghi nhận. Những con số này có thể nói lên nhiều điều
nhưng sẽ trở nên sinh động hơn, ý nghĩa hơn nếu nhìn ra thế giới xung quanh. Tại
100 quốc gia, pháp luật công khai loại trừ phụ nữ ra khỏi một số công việc vì
lí do giới tính, và tại 18 quốc gia, phụ nữ phải có sự chấp thuận của chồng mới
có thể đi làm.
Trong Báo cáo
phát triển con người 2016, với tiêu đề “phát triển con người cho tất cả mọi người”,
được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc công bố tại Hà Nội sáng ngày
26/4/2017, Việt Nam với chỉ số bất bình đẳng giới là 0.337, xếp thứ 71/195 quốc
gia, vùng lãnh thổ, tiếp tục nằm trong ba nước có thứ hạng tốt nhất tương ứng với
chỉ số bất bình đẳng thấp nhất trong các nước ASEAN. Với thành tựu này, Liên hợp
quốc đánh giá Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ, một trong những nước có thành tựu về bình đẳng giới cao và được xếp
vào nhóm nước có thành tựu bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Điều này
thể hiện bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong việc thực hiện bình đẳng giới.
2.2. Những thách thức trong giai đoạn hiện nay
Bình đẳng giới phải được hiểu là sự đối xử công bằng về mặt
luật pháp, cũng như vị thế xã hội giữa nam và nữ giới. Những thành tựu đã đạt
được trong công tác bình đẳng giới của Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy
nhiên, cũng còn nhiều vấn đề đã và đang tồn tại là trở lực rất lớn cho công tác
bình đẳng giới. Cụ thể như sau:
Về kinh tế: Chênh lệch thu nhập
giữa nam và nữ cùng một vị trí công việc vẫn tồn tại, cơ hội để phụ nữ tiếp cận
những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới, lao động nữ chưa
được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn
khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực. Đặc biệt là hiện nay, thu nhập
bình quân của lao động nữ luôn thấp hơn nam giới.
Về chính trị - xã hội: Tỷ lệ nữ
giới làm công tác quản lý, lãnh đạo tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn thấp so
với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung, so với sự gia tăng của lực lượng
lao động nữ nói riêng.
Trong gia đình: Phụ nữ vẫn phải
làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ
trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái, kế hoạch hóa gia đình.
Ngoài ra, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như bạo lực gia đình, nạn nhân
của buôn bán người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục.
3. Giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới thời gian đến
Nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế; phá vỡ rào cản trong
công tác bình đẳng giới và “Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội
cho phụ nữ và trẻ em gái" qua 08 mục tiêu cụ thể được ghi nhận tại Tại Quyết
định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch
hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững
như: Giảm thiểu, tiến tới chấm dứt các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và
trẻ em gái trong mọi lĩnh vực và ở mọi nơi; Giảm đáng kể mọi hình thức bạo lực
đối với phụ nữ và trẻ em gái nơi công cộng hoặc nơi riêng tư, bao gồm cả hình
thức bóc lột tình dục và các hình thức bóc lột khác; Đảm bảo sự tham gia đầy đủ,
hiệu quả và cơ hội bình đẳng tham gia lãnh đạo của phụ nữ ở tất cả các cấp hoạch
định chính sách trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội;… cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau đây:
Trước hết phải nâng cao nhận thức về bình đẳng giới
Hiện nay, tình trạng "trọng nam, khinh nữ" vẫn
đang là một hệ luỵ tư tưởng lớn, không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của nữ giới
mà còn hạn chế sự phát triển của xã hội. Chỉ khi thay đổi được nhận thức, xoá bỏ
định kiến về giới thì mới thay đổi được cách hành xử. Chính vì vậy, cả nam và nữ
đều phải thay đổi nhận thức, xoá bỏ định kiến phân biệt giới và để nâng cao nhận
thức về bình đẳng giới cần thực hiện các biện pháp cụ thể như: Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền về bình đẳng giới; Tiến đến xoá bỏ dần những phong tục, tập
quán lạc hậu, lỗi thời có mang định kiến về giới; Thường xuyên tổ chức các buổi
toạ đàm, sinh hoạt, nói chuyện về bình đẳng giới trong các cơ quan, đơn vị,
trong các khu dân cư.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện các quy định của
pháp luật, các chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới
Cần thay đổi các quy định hiện hành còn chưa phù hợp, hạn chế
bình đẳng giới. Cụ thể Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, tại Khoản1, Điều 71 quy
định rõ là: “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi
dưỡng con chưa thành niên”. Nhưng Khoản 4 Điều 2 về nguyên tắc cơ bản trong việc
thực hiện chế độ hôn nhân gia đình vẫn tiếp tục duy trì khuôn mẫu giới bởi quy
định: “giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện
kế hoạch hóa gia đình”. Quy định này không khác nào khẳng định trách nhiệm nuôi
dạy con cái vẫn thuộc về người mẹ, kế hoạch hoá gia đình chủ yếu vẫn là trách
nhiệm của người vợ. Nói như vậy để thấy rằng cần điều chỉnh những quy định chưa
phù hợp và cần xoá bỏ khuôn mẫu giới ngay tại các văn bản quy phạm pháp luật.
Lồng ghép công tác bình đẳng giới vào nhiệm vụ chính trị của
các cơ quan, đơn vị và chương trình phát triển kinh tế, xã hội của các địa
phương. Xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, phân biệt giới để răn đe
trong xã hội. Các trường hợp này cần phổ biến rộng rãi bằng nhiều hình thức
như: tổ chức các phiên toà lưu động; tuyên truyền miệng tại tổ dân phố, các khu
dân cư; lồng ghép vào các chương trình phát thanh, truyền hình địa phương để tạo
hiệu ứng lan toả tốt nhất đủ sức cảnh báo, răn đe để người dân biết và không vi
phạm.
Thứ ba, tích cực thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc.
Tuy pháp luật đã có quy định cụ thể về nghiêm cấm các
hành vi phân biệt đối xử dựa trên giới tính, nhưng trên thực tế cần bảo đảm cơ
chế triển khai thực hiện các quy định này trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức
của người lao động và người sử dụng lao động về lợi ích kinh tế và xã hội của
bình đẳng giới và nhất là thay đổi tư duy của người sử dụng lao động nhằm xoá bỏ
những định kiến và rào cản đối với cả nam và nữ.
Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có cơ chế
giám sát các cơ sở lao động trong việc thực hiện chế độ thai sản, cung cấp và
xã hội hóa các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện tốt nhất cho cả
lao động nam và nữ; đảm bảo phụ nữ và nam giới được tạo cơ hội bình đẳng
trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, nâng cao tay nghề; trong lương hay thậm chí là trong thi đua, khen thưởng…
Thứ tư, tập trung nhân rộng các mô hình tốt thực hiện bình đẳng
giới
Các địa phương đã triển khai mô hình tuyên truyền về bình đẳng
giới như "Câu lạc bộ bình đẳng giới", tổ công tác "tư vấn, hỗ trợ
bạo lực giới", xây dựng "Nhà tạm lánh" hỗ trợ người bị bạo hành
về giới… đã phát huy tác dụng trên thực tế. Tuỳ vào điều kiện từng địa phương
mà cần duy trì, nhân rộng các mô hình này.
Như vậy, có thể thấy rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được
Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Và những nỗ lực trong việc thực hiện
bình đẳng về giới đã mang lại nhiều thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi
nhận, đánh giá rất cao. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được rõ ràng, không thể
phủ nhận vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Nhưng cần khẳng định một lần nữa: Bình
đẳng giới, bình đẳng các dân tộc trở thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói
riêng, của cộng đồng quốc tế nói chung; và để đạt được mục tiêu này không phải
một sớm một chiều mà là cả một quá trình lâu dài và cần sự vào cuộc của chính
quyền, sự tham gia của toàn dân[2].
Nhận xét
Đăng nhận xét