BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA THỤY ĐIỂN VÀ MỘT VÀI GỢI Ý CHO VIỆT NAM

 

BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA THỤY ĐIỂNMỘT VÀI GỢI Ý CHO VIỆT NAM

Thụy Điển là một đất nước có chỉ số phát triển nhân văn về giới cao nhất Bắc Âu[1], việc làm của người phụ nữ đạt tỉ lệ 74%, tỉ lệ phụ nữ tham chính đạt 45%. Điều đáng nói là GDP của Thụy Điển thấp hơn cả Mỹ và Nhật[2], nếu đứng trên quan điểm quyết định luận kinh tế mà nói: kinh tế phát triển thì địa vị của người phụ nữ tất nhiên được đề cao, như thế địa vị của người phụ nữ Thụy Điển sẽ thấp hơn Mỹ và Nhật? Thực tế thì hoàn toàn ngược lại: tỉ lệ phụ nữ có việc làm và tham chính của Mỹ và Nhật thấp hơn nhiều so với Thụy Điển[3]. Vì sao có hiện tượng như vậy?

Bình đẳng giới không phải là một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mà là một phương thức sống, lối sống, một phương thức tư duy, một giá trị xã hội thực sự. Từ nhận thức được triết lí này, chính phủ Thụy Điểm đã ban hành hàng loạt các chính sách và lập pháp về bình đẳng giới, thúc đẩy, phát huy tác dụng trọng yếu về bình đẳng giới, xem bình đẳng giới là một lực lượng phát triển xã hội. Kiến lập nên một mạng lưới xã hội ủng hộ và thực thi bình đẳng giới.

1.      Diễn biến phát triển của chính sách phúc lợi gia đình và việc làm của phụ nữ

Như đã nói, tỉ lệ phụ nữ có việc làm ở nước này là 74%, cao hơn khoảng 30% so với mức bình quân của 5 nước được cho là tỉ lệ phụ nữ có việc làm cao nhất Châu Á[4]. Vì sao phụ nữ Thụy điển lại “đạt được thành tích” như thế? Nhiều người nhận định rằng Thụy Điển luôn trong tình trạng thiếu lao động (và thừa việc làm) cho nên việc có được việc làm nói chung, phụ nữ có việc làm nói riêng là điều tất yếu. Phán đoán này sai lầm: tỉ lệ thất nghiệp chung hiện nay ở Thụy Điển là 6%[5], áp lực về việc làm luôn là vấn đề luôn đè nặng lên người lao động Thụy Điển và cả chính phủ nước này. Đáp án của câu hỏi nói trên chỉ có thể tìm thấy trong tiến trình lịch sử của nước này. Thời kì đầu của thế kỉ 20, Thụy Điển là một đât nước nghèo, lạc hậu, tỉ suất sinh thấp, mỗi năm chỉ có khoảng 8500 trẻ em được sinh ra[6]. Trước Chiến tranh thế giới thứ 2, người Thụy Điển di dân đến các nước khác khoảng 1 triệu người[7], thế nhưng tỉ lệ thất nghiệp lúc bấy giờ của Thụy Điển rất cao. Để giải quyết vấn đề việc làm, đề xuất phụ nữ đã kết hôn không nên tham gia công tác mà chỉ làm việc nội trợ và sinh con đẻ cái, do vậy pháp luật có qui định rất rõ: phụ nữ đã kết hôn thì bị khai trừ khỏi công việc hiện tại. Lúc bấy giờ tỉ lệ phụ nữ thất nghiệp lên đến đỉnh điểm. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, vấn đề về việc làm của phụ nữ tại Thụy Điển trở thành điểm nóng của xã hội. Nữ giới và nam giới có quyền lợi ngang nhau về cơ hội việc làm cũng như tham gia vào các lĩnh vực khác nhau trong xã hội? Con cái được đưa vào nhà trẻ là tốt hay không tốt? Hàng loạt những câu hỏi như là những nan đề đặt ra cho chính quyền, xã hội và chính người phụ nữ Thụy Điển lúc bấy giờ. Trong quá trình tranh luận và phản biện xã hội, người ta thấy rằng cần phải nhấn mạnh vai trò giới trong vấn đề việc làm, quyền lợi của người phụ nữ trong vấn đề việc làm, phụ nữ không những tham gia vào xã hội mà còn được nhà nước bảo hộ; nhà nước cần nhanh chóng thành lập các nhà trẻ, trường học cần tổ chức cho học sinh nội trú (giải quyết vấn đề ăn uống, sinh hoạt của học sinh), xây dựng các bệnh viện công cộng... Những năm 1950-1960, thảo luận về vấn đề phụ nữ đã “biến thành” vấn đề giới, vai trò giới. Nhiều người nhận định rằng vai trò của người phụ nữ và vai trò của nam giới là ngang nhau, bổ trợ cho nhau, tương hỗ nhau. Muốn thay đổi vai trò của người phụ nữ thì cũng cần phải thay đổi việc nhận thức vai trò của nam giới; người phụ nữ tham gia vào công tác xã hội thì nam giới cũng phải đảm nhiệm một phần nào đó trong công việc gia đình, nghĩa là rất cần sự ủng hộ của xã hội nói chung và của nam giới nói riêng khi phụ nữ bước ra ngoài xã hội để tham gia công tác xã hội nhất là trong vấn đề giáo dục con cái, nội trợ, việc gia đình thì nam giới phải nhận thức được và cùng chia sẻ với nữ giới. Đối với vấn đề vai trò giới trong xã hội truyền thống thì chính phủ Thụy Điển có những điều chỉnh về mặt chính sách.

Do đó, lúc bấy giờ Chính phủ Thụy Điển đã tiến hành điều chỉnh về mặt chính sách. Có hai cách: một là cổ vũ động viên cho phụ nữ tìm kiếm và tham gia vào guồng máy việc làm của xã hội, một bộ phận trách nhiệm về gia đình chính phủ phải “đảm nhiệm”: chính phủ thông qua việc thu thuế để kiến lập cái gọi là “phục vụ công cộng”, các dịch vụ nhà trẻ, dịch vụ gia đình được thành lập để người phụ nữ có điều kiện “thoát li” khỏi gia đình tìm kiến việc làm. Đây là một động thái để điều chỉnh kết cấu về việc làm của người phụ nữ. Việc làm của người phụ nữ cần có một lực đẩy: khi tham gia vào guồng máy lao động xã hội, phụ nữ có thu nhập và thu nhập ấy cao hơn so với việc chỉ sinh con đẻ cái và việc gia đình thì gia đình sẽ ủng hộ. Tại Thụy Điển, tôn chỉ của chính sách phúc lợi gia đình là bảo đảm cho toàn bộ trẻ em có quyền và có đủ điều kiện để được vào nhà trẻ, mẫu giáo (gọi chung là nhà trẻ). Cơ cấu chủ yếu của nhà trẻ là dựa vào sự điều tiết nguồn thu của chính phủ. Trẻ em từ 1-6 tuổi sẽ được nhận trợ cấp từ phía chính phủ, thông thường đứa con đầu mỗi tháng nhận được 1260 đồng cu-ron, đứa thứ hai là 840 cu-ron, đứa thứ ba là 420 cu-ron, số tiền này cha mẹ không được nhận mà được chính phủ chuyển trực tiếp đến nhà trẻ nơi em đó nhận vào. Gia đình chỉ cần chi cho con cái khoảng 10% tiền lương là đủ[8]. Ngoài ra, sự phụ vụ của nhà trẻ là bất luận đêm hay ngày, cung cấp cho trẻ những điều kiện cần thiết để phát triển, thỏa mãn nhu cầu của cha mẹ và chính các em nhỏ. So với nhiều nước tiên tiến trên thế giới thì Thụy Điển không giống với các nước khác: không xã hội hóa nhà trẻ. Nhật Bản, Mỹ và một số nước Châu Âu lại vận hành theo phương thức thị trường, xã hội hóa: nhà trẻ được điều tiết theo thị trường về chi phí và số lượng, điều này khiến cho nhiều phụ nữ hoặc lựa chọn vừa tìm kiếm một việc làm nào đó mà còn có thể trông nôm việc gia đình hoặc ở nhà lo việc gia đình (bởi tiền lương của họ thấp hơn chi phí cho con đi nhà trẻ), hiện tượng này khiến nhiều phụ nữ trên thế giới “quay về” với vai trò nội trợ truyền thống của mình.

Để cổ vũ và thúc đẩy phụ nữ tham gia vào guồng máy xã hội, năm 1972 Thụy Điển đã cho ra đời chính sách “qui định thuế trung tính”. Đây là một cải cách lớn trong chính sách thúc đẩy bình đẳng giới của nước này. Trước đó, việc đánh thuế tính theo đơn vị gia đình: thu nhập của vợ và thu nhập của chồng được cộng dồn để đánh thuế, điều này “góp phần” cho phụ nữ không muốn tham gia vào nguồng máy lao động (nếu chồng mình đã có thu nhập cao); vì thế qui định thuế trung tính lấy cá nhân làm đơn vị tính thuế, giảm bớt trợ cấp thất nghiệp, đây là lực đẩy làm cho người phụ nữ độc lập về mặt kinh tế, khẳng định vai trò xã hội của mình.

Cách thứ hai là chuyển dịch trách nhiệm gia đình: trách nhiệm gia đình không chỉ là của người phụ nữ mà là cả hai, người chồng cũng phải gánh vác một phần (ít nhất là ½ tránh nhiệm này). Năm 1974, Thụy Điển xác lập chế độ bảo hiểm cho cha mẹ, nếu một cặp vợ chồng nào đó có con nhỏ từ 0-16 tuổi thì chính phủ sẽ cấp một phần kinh phí gọi là trợ cấp giáo dục, hơn nữa cha hoặc mẹ có quyền nghỉ dài ngày (được hưởng 80% lương) để chăm sóc con cái của mình. Điều đặc biệt là cả cha và mẹ đều có quyền này và có thể “nhường” ngày nghỉ này cho một bên (ví dụ chồng có quyền nghỉ nhưng không nghỉ thì chuyển ngày nghỉ này cho vợ mình hoặc ngược lại). Thế nhưng chính sách này trên thực tế thì vẫn không đảm bảo được sự bình đẳng về giới cho phụ nữ (người chồng thường không nghỉ để trông con mà “nhường” suất cho vợ). Việc chăm sóc con cái và “việc nhà” vẫn do người phụ nữ đảm nhận.

Để thực hiện việc chia sẻ trách nhiệm trong công việc gia đình, bảo đảm quyền làm việc và có việc làm cho người phụ nữ, năm 1994 chính phủ Thụy Điển lại có những điều chỉnh mới trong chính sách: tăng ngày nghỉ của nam giới (đã có con) lên 1 tháng, yêu cầu tất cả nam giới nếu có con nhỏ dưới 16 tháng phải nghỉ trông con một tháng, nếu không sẽ không trợ cấp 1 tháng lương đó. Năm 2002, ngày nghỉ của nam giới lại tăng thêm 1 tháng, tính cưỡng chế của chính sách bắt đầu phát huy tác dụng, ngày một nhiều nam giới bắt đầu đảm đương công việc gia đình. Tại Thụy Điển việc đàn ông đưa trẻ đến trường, đón con về và lo việc nội trợ không còn là “chuyện lạ”. Đó là một bước chuyển biến trong nhận thức của nam giới nhưng cũng là sự tác động đúng lúc, có cường độ, có chủ đích của chính phủ.

2.      Thành lập mạng lưới ủng hộ xã hội về bạo lực đối với phụ nữ

Chống bạo lực đối với phụ nữ là một trong những mắc xích quan trọng để thực hiện bình đẳng giới của Thụy Điển. Bắt đầu từ năm 1993, chính phủ Thụy Điển đã chú ý đến vấn đề bạo lực đối với phụ nữ. Ngay sau đó thành lập Ủy ban điều tra về vấn đề bạo lực đối với phụ nữ. Năm 1994, phát biểu tại Liên Hợp Quốc về chuyên đề “Xóa bỏ tất cả những hành vi bạo lực đối với phụ nữ” Thụy Điển đã nhận được những phản ứng tích cực từ nhiều nước và tổ chức trên thế giới. Ngay sau đó Thụy Điển thành lập nhiều trung tâm giúp đỡ phụ nữ khi bị bạo hành. Những trung tâm này có nhiệm vụ giúp đỡ những phụ nữ bị bạo hành, trợ giúp pháp lí, hỗ trợ và tư vấn tâm lí và đồng thời có trách nhiệm điều tra, nắm bắt kịp thời những thông tin, số liệu về bạo lực để cung cấp cho chính quyền các cấp. Năm 1998 bắt đầu chế định nhiều kế hoạch hành động cụ thể nhằm chống lại hiện tượng bạo hành đối với phụ nữ.

Tháng 5 năm 1998 chính phủ thông qua “luật an ninh phụ nữ”, bộ luật này nhằm chế định bạo lực đối với phụ nữ [9]. Đồng thời chính phủ cũng yêu cầu bộ phận phúc lợi xã hội phải có những sự cứu trợ (về vật chất và tinh thần) cho những phụ nữ bị xâm hại. Tiếp đó, năm tháng 1 năm 1999, chính phủ ban bố việc “cấm mại dâm”. Thực ra, trên thế giới nhiều quốc gia đã từ lâu không cho phép mại dâm thế nhưng việc thực thi còn “một mắt nhắm, một mắt mở”. Thụy Điển lại khác, nhà lập pháp Thụy Điển cho rằng, việc mua dâm là hình thức cưỡng bức, bạo lực đối với phụ nữ, là có tính nô dịch và tính bóc lột, là một hành vi phạm tội. Do đó, hành vi mua dâm bị phạt tù đến 6 tháng.

Năm 2003, sau khi nhận thức được rằng, từ trước đến nay, nếu người đàn ông hành hung phụ nữ thì ung dung tự tại, người vợ phải bỏ nhà ra đi (hoặc đến các trung tâm trợ giúp pháp lí về bạo lực), Thụy Điển tiếp tục ban bố “lệnh cấm”: người thực hiện hành vi bạo lực đối với phụ nữ thì lập tức buộc phải “tập trung cải tạo”, trong vòng 3 tháng không được về nhà, nếu không được sự cho phép của cán bộ quản giáo thì không có quyền thăm viếng vợ con. Lệnh cấm này được thực hiện rất nghiêm túc. Rõ ràng “lệnh cấm” này ra đời để khắc phục tình trạng bạo lực đối với phụ nữ và bảo đảm quyền lợi cơ bản cho người bị hại nhất là phụ nữ và trẻ em.

Đồng thời với luật pháp được thiết lập, chính phủ còn có những cách thức để liên kết với những tổ chức cộng đồng, kiến lập nên một mạng lưới xã hội về chống bạo lực đối với phụ nữ. Mạng lưới xã hội này bao gồm bệnh viện, cộng đồng (community), cảnh sát, các trung tâm tư vấn tâm lí, tổ chức cứu trợ v.v...(xem sơ đồ 1)

Sơ đồ 1: Mạng lưới xã hội chống bạo lực đối với phụ nữ

 

 

 

 

 

 


Bệnh viện: là mắc xích quan trọng phát hiện hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ, bởi thông thường, phụ nữ sau khi bị thương tích thì đến các bệnh viện để khám và điều trị. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà phụ nữ không muốn nói ra sự thật, thậm chí nghĩ cách để giấu đi hành vi bạo lực này. Nếu đến bệnh viện khám thì các y bác sĩ có điều kiện tiếp xúc và họ có cơ hội nói thật hơn. Sau khi nhận được thông tin bị ngược đãi thì bệnh viện có tư cách giám định và báo cáo cho cảnh sát, đồng thời tiến hành trị liệu về thân thể cũng như về mặt tâm lí cho người bị hại.

Cảnh sát: cũng là một bộ phận quan trọng trong phòng chống bạo lực đối với phụ nữ. Cảnh sát có nhiệm vụ điều tra và đề nghị khởi tố nếu thấy cần thiết. Toàn Thụy Điển có 230 đồn cảnh sát chuyên về phòng chống bạo lực đối với phụ nữ. Các đồn cảnh sát này cung cấp đến từng gia đình số điện thoại của họ và sẵn sàng phục vụ khi có điện thoại của người dân cần giúp đỡ.

Bộ phận phúc lợi xã hội: là một bộ phận thuộc cơ cấu của chính phủ, nhân viên chủ yếu có chuyên ngành về công tác xã hội (social work), tâm lí học, xã hội học. Bộ phận phúc lợi xã hội này được thành lập năm 1997 nhằm trợ giúp cho người bị hại (về đời sống vật chất cũng như tinh thần), đồng thời tư vấn tâm lí, pháp lí cho phụ nữ. Dưới bộ phận phúc lợi xã hội này là các trung tâm gia đình-cộng đồng, mỗi trung tâm này quản hạt khoảng 1 vạn dân.

Trung tâm nam giới nguy cơ: khái niệm “trung tâm nam giới nguy cơ” xem ra rất mới mẻ và xa lạ đối với Việt Nam nhưng không hề xa lạ đối với người dân Thụy Điển. Trung tâm này cũng bao gồm các chuyên gia về công tác xã hội, xã hội học, tâm lí học. Các trung tâm này chủ yếu là dân lập (nhưng kinh phí hoạt động từ phía chính phủ và của chính đương sự). Các trung tâm này ra đời, một mặt nào đó đã nói lên nhận thức mới về bình đẳng giới và cách thức giải quyết vấn đề bạo lực giới của Thụy Điển. Tâm tâm này chủ yếu phục vụ cho nam giới (và nhất là nam giới đã, đang hoặc có nguy cơ về bạo lực giới tính). Những nam giới đã có ý đồ về bạo lực hoặc đã bạo lực thì đến đây để tư vấn đề tâm lí và pháp lí. Mục tiêu của các trung tâm nam giới nguy cơ là giúp cho nam giới nhận thức đúng về hành vi của mình để họ có cơ hội thay đổi hành vi của mình; buộc đương sự phải nhận thức và có trách nhiệm về hành vi của mình, tôn trọng đối ngẫu, có cách giải quyết tốt khi những mâu thuẫn gia đình xảy ra, có cách ứng xử và hành xử với vợ và con của mình; góp phần phòng ngừa hiện tượng bạo lực gia đình.

Trung tâm bảo trợ trẻ em: Các trung tâm này không phải bảo trợ trẻ em về mặt vật chất mà bảo trợ về mặt xã hội, tức là kết hợp với nhà trường để giáo dục giới tính nhất là vai trò giới, giúp trẻ em nam nhận thức đúng về vai trò giới của mình trong gia đình và ngoài xã hội; giúp các em có được những hành vi đúng để xử lí các quan hệ xã hội và nhất là khi có mâu thuẫn, xung đột xã hội xảy ra. Nói cách khác là phòng ngừa bạo lực đối với phụ nữ nói chung, bạo lực gia đình nói riêng bằng cách giáo dục vai trò giới từ gác độ văn hóa xã hội. 

3.      Những thành tựu lớn của việc phụ nữ tham chính ở Thụy Điển

Hiện tại, tỉ lệ nữ nghị viện tham chính trên thế giới rất thấp ngay cả những quốc gia phát triển (thường dưới 30%, vượt qua 30% chỉ có 8 quốc gia). Thế nhưng, Thụy Điển đã gần đạt đến mức 50/50 (năm 2008 là 45%). Từ năm 1918, Thụy Điển đã có nữ nghị viện, đến năm 1921 chỉ có năm nghị viện (khoảng 2%) (xin xem so đồ 2).

Sơ đồ 2: Tỉ lệ nữ nghị viện của Thụy Điển

 

 

 

 

 

 

 

 

Rõ ràng đây không chỉ là một “thành tích” về bình đẳng giới (xét về mặt cơ cấu giới), mà là một nhận thức chung của toàn xã hội, của chính phủ và người làm chính sách Thụy Điển. Nó khẳng định được nữ giới và nam giới đều có cơ hội ngang nhau về việc làm, về địa vị chính trị. Triết lí của Thụy Điển là phụ nữ không phải là không làm được chỉ có điều là có hay không cho họ cơ hội.Xã hội cho hội cơ hội, nam giới cho họ cơ hội, pháp luật cho họ cơ hội và chính bản thân họ tạo cho họ cơ hội.

4.      Mô thức và đặc điểm về cơ cấu bình đẳng giới của Thụy Điển

Năm 1980, chính phủ Thụy Điển thành lập một bộ mới đó là Bộ bình đẳng giới. Lúc bấy giờ khái niệm này còn mới mẻ đối với nhiều nước trên thế giới. Điều đáng nói là tên của bộ này là Bộ bình đẳng giới chứ không phải là Bộ phụ nữ. Bởi chính cách gọi này thể hiện 2 tầng diện ý nghĩa: một là tôn trọng quyền lợi cơ bản của nam giới và nữ giới, tôn trọng cơ hội bình đẳng về mặt pháp luật và mặt xã hội của 2 giới. Hai là, điều chỉnh quan hệ của 2 giới, nhằm phát huy hết tiềm lực, tài năng của cả 2 giới.

Bộ bình đẳng giới là một bộ phận trong nội các của chính phủ [10]. Từ mặt cơ cấu và chức năng mà nói, Bộ bình đẳng giới cũng “bình đẳng” với các bộ và cơ quan ngang bộ, cũng có quyền lực để đưa ra những quyết sách của Chính phủ, nhất là những chính sách có liên quan đến với tính giới, có ảnh hưởng đến bình đẳng giới. Cũng từ năm 1980, Thụy Điển đã cho ra đời luật về cơ hội bình đẳng. Nguyên tắc cơ bản là nam nữ đều có cơ hội ngang nhau về cơ hội, có tiền lương ngang nhau trong cùng một điều kiện, đồng thời yêu cầu các cơ quan xí nghiệp phải chú trọng đến bình đẳng giới về việc làm và tiền lương. Đơn vị hay cá nhân nào vi phạm luật Cơ hội bình đẳng đều bị xử phạt rất nặng và bị truy tố.

Để đảm bảo cho việc thực thi chính sách liên quan đến bình đẳng giới, năm 2003 chính phủ Thụy Điển có pháp lệnh yêu cầu tất cả những tổ chức, xí nghiệp từ 20 người trở lên phải có kế hoạch, cương lĩnh về thực hiện bình đẳng giới và có cơ chế để giám sát, thực thi. Động thái này đã được đa số tầng lớp trong xã hội tán đồng và quán triệt thực hiện, mang lại những hiệu quả nhất định.

Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức về thực thi bình đẳng giới của Thụy Điển

 

 

 

 

 

 

 

 


5.      Vài gợi ý cho Việt Nam

Thứ nhất, Thụy Điển là một quốc gia có hệ thống chính sách rất đầy đủ và thực hiện vấn đề bình đẳng giới rất nghiêm túc, có hiệu quả cao cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Điều này đáng để cho Việt Nam chúng ta học tập, quán triệt thực thi chính sách bình đẳng giới trên điều kiện lịch sử và hiện hữu của Việt Nam

Thứ hai, Thụy Điển nhận thức sâu sắc về vấn đề bình đẳng giới, đó chính là quyền lợi cơ bản cũng là giá trị cơ bản của con người. Như đã nói ở trên, bình đẳng giới không phải là một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mà là một phương thức sống, lối sống, một phương thức tư duy, một giá trị xã hội thực sự. Có thể nói Thụy Điển đã và đang là quốc gia đề ra và thực hiện tốt các chính sách về bình đẳng giới; có nhận thức về văn hóa giới rất tiên tiến.

Thứ ba, khi xúc tiến việc bình đẳng giới vai trò của chính phủ là rất quan trọng, chính phủ có nhiệm vụ kiến lập, chế định, chấp hành, vận hành trong các mắc xích từ lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ tư, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh Việt Nam không thể không nói đến vấn đề bình đẳng giới, bởi vấn đề giới không chỉ đơn thuần là vấn đề quyền lợi mà chính nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Do vậy, trong các khâu lập pháp, tư pháp, hành pháp cần phải cân nhắc về vấn đề này, nói khác đi vấn đề bình đẳng giới không nằm ngoài các chính sách pháp luật của nhà nước.

 



[1] Nhiều số liệu cho thấy chỉ số phát triển nhân văn về giới của Thụy Điện hiện nay là cao nhất thế giới.

[2] Tham kiến: Chính sách và pháp luật trong bình đẳng giới —— từ góc nhìn Quốc tế và thực tiễn bản địa, tác giả Đàm Lâm, Nxb Khoa học xã hội Trung Quốc, 2008 trang 34-36 (bản tiếng Trung: 性别平等的法律与政策——国际视野与本土实践, 谭琳。中国社科出本社,2008

[3] Sđd tr47, số liệu cho thấy tỉ lệ phụ nữ có việc làm của Thụy Điển đạt 74% và tham chính là 45% (điều tra năm 2007), trong khi đó tỉ lệ tương ứng của Mỹ, Nhật là: 68%/20%; 71%/28%.

[4] Thái Lan là 45%, Srilanka 44%, Singapo 44%, Philippin 40%, Trung Quốc 39%

[6] Sđd trang 132

[7] Sđ d trang 132

[8] Sđd trang 362

[9] Trong bộ luật này có điều khoản qui định: “Nếu có hành vi uy hiếp, đánh đập, cưỡng bức, xâm hại về tình dục đối với phụ nữ đều là phạm tội, có thể bị xử phạt tù từ 6 tháng đến 6 năm”. Lần đầu tiên xem vấn đề bạo lực đối với phụ nữ là tội phạm hình sự, xâm phạm quyền cơ bản của cá nhân, là vấn đề mà tư pháp phải can thiệp.

[10] Nội các chính phủ gồm văn phòng thủ tướng, 9 bộ trưởng và các văn phòng hành chi tương ứng

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ