BÀN VỀ XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN

 

BÀN VỀ XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN

Bản chất của con người là xã hội, là tổng hòa tổng hòa những quan hệ xã hội. Aristote đã từng khẳng định, những ai có thể tồn tại bên ngoài xã hội thì nếu không phải là thú thì là thần thánh. Tuy nhiên, dù sao con người, trước tiên là một động vật với bản năng sinh tồn. Nói cách khác, con người vừa sinh ra chưa phải là “con người” với hàm nghĩa đầy đủ nhất của nó mà chỉ mang trong mình “tiền đề về sinh thể người” mà thôi[1]. Một đứa trẻ từ khi sinh ra đến khi trở thành một thành viên đích thực của xã hội thì cá nhân đó phải thông qua một quá trình nội tâm hóa những giá trị, chuẩn mực, chuẩn tắc, quy ước và niềm tin chung của cộng đồng; họ đóng các vai trò xã hội, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Quá trình đó gọi là xã hội hóa cá nhân.

Gọi là “xã hội hóa”, một cách khái quát mà nói, chính là quá trình mà cá thể thông qua học tập văn hóa nhóm, học tập cách thực hiện các vai trò xã hội để trở thành thành viên của những nhóm xã hội cụ thể, giúp cá nhân hòa nhập vào xã hội một cách dễ dàng với tư cách là một thành viên. Hiện có rất nhiều khái niệm về xã hội hóa, tuy nhiên, theo chúng tôi xã hội hóa cá nhân có thể được định nghĩa như sau:

Xã hội hoá là quá trình tương tác mà qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá xã hội như một khuôn mẫu xã hội. Quá trình mà nhờ đó, cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội  của mình, hoà nhập vào xã hội.

Xã hội hóa là quá trình cực kỳ quan trọng, tính quan trọng của nó thể hiện trên hai phương diện. Từ góc độ cá nhân mà nói, xã hội hóa là quá trình để cá nhân học hỏi về văn hóa, nắm và phát triển thành thạo các quy tắc, chuẩn mực, chuẩn tắc, lễ tục, truyền thống, tập quán cũng như tri thức, năng lực, thái độ để được xã hội thừa nhận, trở thành một con người xã hội hoàn chỉnh, “hợp quy”, “hợp chuẩn”. Từ góc độ xã hội nhìn nhận, với tư cách là một xã hội chỉnh thể, hệ thống xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải có tính ổn định, trật tự và tiếp diễn và như thế rất cần những thế hệ mới gắn với con người mới có trách nhiệm bảo tồn, lưu giữ, phát triển những giá trị truyền thống đồng thời phải sáng tạo những giá trị mới. Do vậy, nếu không thông qua xã hội hóa thì cá nhân không thể thành người và xã hội[2] cũng khó có thể tiếp diễn một cách bình thường. Nói cách khác, không có xã hội hóa sẽ không có xã hội: một xã hội vô trật tự, rời rạc, không tương tác sẽ không phải là một xã hội thực sự.

Từ những phân tích mà đặc biệt là từ định nghĩa về xã hội hóa nêu trên, có thể thấy mục đích của xã hội hóa là giúp cá nhân “thành người xã hội” (khác với “người tự nhiên”. Đương nhiên, muốn “thành người xã hội” thì cá thể đó phải học hỏi, phải “bước lên con tàu xã hội” luôn đi về phía trước; phải thông hiểu và nội tâm hóa các giá trị, chuẩn mực, quy tắc và niềm tin chung của cộng đồng để có thể sinh sống, lao động, sinh hoạt. Mục đích cụ thể thể hiện ở những bình diện sau:

- Hình thành ở cá nhân khả năng thông đạt (thông đạt ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết và hành vi không lời (nonverbal behavior đó là: động thể, cách thể và im lặng) một cách hữu hiệu và phát triển các khả năng diễn xuất: nói, đọc, nghe, viết; truyền đạt được những tư tưởng của mình cho mọi người hiểu biết và có thể hiểu được tư tưởng của những người khác qua diễn xuất. Ví dụ: cái “gật đầu” của người Việt nó thể hiện thái độ trái nghĩa với người Bungari

- Mang lại cho cá nhân những kỹ năng cần thiết mà xã hội đòi hỏi, giúp cá nhân hoà nhập vào xã hội. Những kỹ năng này có thể kể đến từ những quy tắc ứng xử xã giao bình thường, các hoạt động xã hội, các quan hệ, liên hệ giữa các thành viên trong cuộc sống xã hội đến các nếp sống mà con người đã chủ trương, những quy tắc mà con người đã chấp thuận, những giá trị mà con người tôn trọng…

- Làm cho cá nhân thấm nhuần các giá trị xã hội, các chuẩn mực sống, các qui tắc sinh hoạt, các  qui ước cộng đồng và hấp thụ niềm tin chung của xã hội. Ví dụ một quy tắc sinh hoạt "đi thưa về trình" được cá nhân hấp thụ trong bài hát "con cò be bé"; quy tắc "đi bên phải" được cá nhân hấp thụ trong thơ "đàn kiến"…

- Tạo dựng phát triển cái “tôi” trong xã hội.  Cái tôi trong quan niệm của xã hội học không tương đồng với cái tôi trong tâm lý học (id: bản năng, ego: bản ngã (cái tôi), superego: cái siêu ngã). Nó là kết quả của sự tương tác xã hội và cũng là ảnh hưởng lên cái tương tác đó. Trong đó bao gồm cái tôi I và cái tôi Me. Cái tôi I là cái tôi mà bản thân tôi tự có (tất nhiên thông qua quá trình xã hội hoá); cái tôi Me là cái tôi mà xã hội hội nhìn tôi, cái tôi soi gương tự phản thân (The looking glass self). Chúng ta còn nhớ một anh Chí phèo Nam Cao. Cái quằn quại, đau đớn lớn nhất của Chí thể hiện trong một câu nói “ai cho ta lương thiện”, cái xã hội phong kiến lúc bấy giờ đã cướp mất đi của Chí một tài sản đáng giá nhất của một con người, đó là cái tôi. Bởi Chí đã được (hay nói đúng hơn là “bị”) xã hội hoá một cách không bình thường trong cái xã hội đó, trong cái nhà tù của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

- Quá trình xã hội hoá còn giúp cho cá nhân hoà nhập vào trong xã hội nhưng nó không phải là quá trình làm cho cá nhân “hoà tan” hay biến mất trong xã hội mà khẳng định cá nhân như một thực thể độc lập có ý nghĩa. Xã hội hoá cũng không phải tạo ra một thứ “công dân thế giới” mà diễn tiến đó nhằm làm cho một thực thể sinh học trở thành rõ rệt là một người Việt Nam, một người Mỹ hay một người Trung Quốc. Ngoài ra, xã hội hóa giúp tích luỹ, bảo tồn và phát triển những giá trị xã hội nói riêng và nền văn hoá nói chung của một xã hội.

Xã hội hóa là một quá trình phức tạp, lâu dài và đương nhiên có những nguyên tắc của nó. Phức tạp bởi cá nhân muốn “đóng” các vai trò thì anh ta phải lĩnh hội và nội tâm hàng loạt các giá trị, chuẩn mực, quy ước, ngôn ngữ (có lời và không lời); lâu dài vì cá nhân phải thực hiện trong suốt cuộc đời của mình từ khi lọt lòng mẹ đến khi chết đi. Quá trình này phải tuân thủ các nguyên tắc nghiêm ngặt:

- Xã hội hóa thời thơ ấu là giai đoạn xã hội hóa cực kỳ quan trọng đối với mỗi cá thể. Do đó, không cho phép “đốt cháy” giai đoạn này ở bất kỳ cá thể nào. Nói cách khác, mọi cá nhân bắt buộc phải thông qua quá trình xã hội hóa thời thơ ấu, nếu không, cá thể đó không thể hòa nhập vào xã hội và xã hội cũng khó lòng chấp nhận cá thể đó (câu chuyện về Amala và Kamala và “những đứa trẻ rừng xanh” là những minh chứng)[3]. Câu chuyện về Thần đồng Gregory Smith, ở vùng Richmond, bang Virginia (Mỹ), mới 13 tuổi đã tốt nghiệp đại học, ước mơ làm tổng thống Mỹ[4]. Tuy nhiên, theo Giáo sư Tâm lý học Michacl Wessella, người bảo trợ cho cậu bé nói rằng: “Cậu bé còn thiếu kinh nghiệm sống và hiểu biết văn hoá” cũng là một minh chứng và khẳng định vai trò của nguyên tắc này.

- Một cá nhân khiếm khuyết sinh học thì rất khó khăn trong quá trình xã hội hóa. Do đó, cá nhân đó phải trải qua những hình thức xã hội hóa đặc biệt không giống như những người bình thường. Vừa qua, VTV có tổ chức kênh phát sóng cho người bị khiếm thính; một hội thảo về cung cấp và trang bị thiết bị ốc tai điện tử cho người khiếm thính (tức là cấy điện cực vào cơ thể người khiếm thính để họ có thể nghe được)… Những động thái ấy có nhiều ý nghĩa nhưng một trong những ý nghĩa là giúp cho những người có khiếm khuyết về mặt sinh học xã hội hóa một cách dễ dàng hơn, hòa nhập vào xã hội. Tại nhiều nước phát triển, để tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội, tiếp cận các dịch vụ công cộng, chính quyền luôn chú ý và kiến tạo các điều kiện đặc thù cho nhóm đối tượng này. Chẳng hạn, lối đi dành riêng cho người khiếm thị trên đường phố hay nơi công cộng; nút bấm thang máy phải có chữ nổi braille; nút bấm phát tín hiệu giao thông ở các đường giao nhau dành cho người khiếm thị; chỗ lên xuống xe buýt phù hợp với người khuyết tật, thùng phiếu điện tử (dành cho các đợt bỏ phiếu) cho người khuyết tật, thư viện dành riêng cho người khuyết tật…Những cách làm đó không những có ý nghĩa nhân văn thông thường mà cụ thể là giúp người khiếm khuyết về mặt sinh học có điều kiện xã hội hóa một cách bình thường.

- Một cá nhân bị đứt đoạn xã hội hóa (tất nhiên không thể đứt đoạn giai đoạn thơ ấu) thì phải tiến hành quá trình tái xã hội hóa (Resocialization) hay “tái hòa nhập”. Ví dụ: câu chuyện về cha con “người rừng” Hồ Văn Lang ở Quảng Ngãi[5] “bỡ ngỡ”, “lóng ngóng”, “vụng về” trước cuộc sống hiện tại sau 40 năm tách biệt với xã hội là một minh chứng cho thấy sự khó khăn của con người khi phải “tái hòa nhập” với cộng đồng. Nếu không có cơ chế đặc thù, sự gần gũi và chia sẻ của cộng đồng thì họ khó có thể “sống bình thường” trong xã hội “hiện đại”.

- Xã hội hóa không đơn thuần chỉ là làm cho cá nhân hòa nhập vào trong xã hội rộng lớn nói chung mà còn làm cho cá nhân đó sinh sống, hoạt động và làm việc được trong một nhóm xã hội cụ thể nào đó (nhóm nghề nghiệp, nhóm chính trị, nhóm tôn giáo, nhóm sở thích,…). Ai đó đã từng trách anh chàng Nguyễn Bính bảo thủ, thủ cựu, gia giáo khi “van em em hãy giữ nguyên quê mùa…”, xét theo quan điểm (nguyên tắc) này thì chúng ta thấy rằng, sự hoà nhập của cá nhân vào xã hội không chỉ là “hoà” vào một xã hội chung chung mà còn là trong một nhóm xã hội nào đó mà cá nhân sinh sống, sinh hoạt, làm việc… Ở đây cô gái là một thành viên trong nhóm xã hội nông thôn dưới luỹ tre làng (so với nhóm xã hội đô thị) nên đã được “xã hội hóa” trở thành một cô gái chân quê thật thà, cái “cấp tiến”, “tân thời” của xã hội đô thị lúc bấy giờ dễ lấy đi cô gái nét dịu dàng và dễ “tha hóa” một thôn nữ.



[1] Nhà xã hội học Sabran (người Pháp) đã ví xã hội như một con tàu, cá nhân muốn trở thành chủ thể xã hội thì phải bước lên con tàu xã hội ấy, nếu không thì anh ta phải đứng mãi ở bến tàu. Vậy làm thế nào để lên tàu? Để trở thành một con người xã hội? Câu trả lời là phải thông qua quá trình xã hội hoá (Socialization).

[2] Câu chuyện về Amala và Kamala (Những cô bé sói) là một minh chứng: Hai cô bé được phát hiện đang được một con sói cái nuôi dưỡng trong một khu rừng ở Ấn Độ vào những năm 1920, khi đó Kamala 8 tuổi, và Amala 3 tuổi. Được biết, khi cố gắng đưa hai cô bé về với xã hội loài người, con sói mẹ từng nuôi nấng Kamala và Amala đã chiến đấu rất dữ dội để giữ những đứa trẻ, giống như khi con người cố bắt con của nó vậy. Nó hung dữ lao vào đoàn người, vì vậy người ta đã bắn chết nó. Khi con sói mẹ chết, các con sói khác trong đàn đã trở về ngôi làng và hú to. Mãi đến sau này, những đứa trẻ cũng không thể ngồi yên mỗi lần nghe thấy tiếng kêu của bầy sói. Những đứa trẻ hoang dã được đưa tới trại trẻ mồ côi của Mục sư J. A. L. Singh - chính là người đầu tiên đã phát hiện ra sự việc và sau này cũng đã cố gắng giúp 2 cô bé sói thích nghi với đời sống con người. Tuy vậy, hai cô bé đã không bao giờ có thể sống như những con người bình thường được nữa. Kamala và Amala chỉ biết uống sữa và ăn thịt sống, các bé thường sinh hoạt về đêm và hú như loài sói.

Sau khoảng một năm tại trại trẻ mồ côi, Amala qua đời. Khi em gái chết, Kamala mới biểu thị những dấu hiệu cảm xúc đầu tiên giống một con người. Kamala sống thêm 8 năm nữa, trong khoảng thời gian đó cô đã học được vài từ và cách đi thẳng. Tuy nhiên, cô vẫn thường bò bằng 4 chi mỗi khi cảm thấy lo lắng. Trong một cuộc phỏng vấn Đức cha sau này, ông nói rằng có lẽ mọi việc sẽ tốt hơn nếu ông cứ để những đứa trẻ lại trong hoang dã, nơi mà ông đã tìm thấy chúng.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ