BÀN VỀ VAI TRÒ XÃ HỘI
BÀN VỀ
VAI TRÒ XÃ HỘI
K. Marx cho rằng, tiền
đề cho việc nhận thức con người, đó là những con người hiện thực, là hoạt động
của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Theo K. Marx, khi nghiên cứu vấn đề con người,
cần xuất phát từ những tiền đề hiện thực trong lịch sử xã hội của con người. Đó
“không phải là những tiền đề tùy tiện,
không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ
qua trong trí tưởng tượng mà thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động
của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy
có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra”[1].
Cũng vậy, trên thực tế con người cũng không thể “tùy tiện” để sáng tạo chính bản
thân mình, biểu hiện chính bản thân mình mà, điều quan trọng hơn, chiếu theo những
nhu cầu đặc trưng của xã hội để sáng tạo bản thân và đồng thời, đảm nhận những
nhiệm vụ, trách nhiệm đặc trưng đó. Nói khác đi, con người khi sinh ra chưa phải
là con người theo đúng nghĩa của nó mà chỉ mang trong mình “tiền đề sinh thể
người”, xã hội – và các điều kiện của hiện thực xã hội, từng bước biến “con người
tự nhiên” ấy thành “con người xã hội” với tất cả những thuộc tính người; nội
tâm hóa các giá trị, chuẩn mực, quy ước, niềm tin chung của cộng đồng, thể hiện
bằng các vai mà mình đang và sẽ đóng trong suốt cả cuộc đời. Toàn bộ quá trình
này, các nhà xã hội học gọi là tiến trình xã hội hóa cá nhân mà nội dung của nó
là đóng các vai trò xã hội.
K. Marx chỉ rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”[2], không còn nghi ngờ gì nữa, từ đó có thể suy rộng
ra, xã hội là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, là sản phẩm của mối quan hệ
tương tác qua lại giữa con người với con người, con người với cộng đồng, con
người với xã hội. Do đó, xã hội bao giờ cũng vượt lên trên tầng nghĩa của một
cá nhân hay một số cá nhân cộng lại. Không phải ngẫu nhiên mà khi phân tích kết
cấu xã hội, các nhà xã hội học không bao giờ xem một cá nhân là đơn vị phân
tích, mà thông thường xem vai trò xã hội gắn với các nhóm xã hội cụ thể, tương ứng
để làm đơn vị phân tích. Do đó, một trong những nhiệm vụ của xã hội học là tiến
hành phân tích, bổ xẻ nội hàm của vị thế xã hội và vai trò xã hội. Không phải
ngẫu nhiên mà vai trò xã hội được xem là nội dung quan trọng của tiến trình xã
hội hóa và luôn gắn với vị thế xã hội.
Vị thế xã hội
(social status) là vị trí nhất định nào đó của cá nhân trong xã hội (còn gọi là
“vị trí xã hội”, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với khái niệm “địa
vị xã hội”), đó là dự định vị một cá nhân trong một đơn vị, thiết chế xã hội.
Chẳng hạn: người phụ nữ, luật sư, sinh viên, người cha, tu sĩ…Như vậy, trong xã
hội có rất nhiều loại vị thế xã hội, đến nỗi, nếu liệt kê tất cả các vị thế xã
hội lên một tờ giấy thì tờ giấy đó dài vô cùng tận. Thế nhưng, các vị thế xã hội
chúng ta thường đề cập (trong thường ngày cũng như trong nghiên cứu khoa học)
chủ yếu thuộc các phương diện: giới tính, tình trạng hôn nhân, tuổi tác, trình
độ học vấn, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nghề nghiệp,…
Để hiểu vị thế xã
hội thông thường người ta chia thành hai tầng nghĩa sau đây[3]:
Thứ nhất, là chỗ đứng của cá nhân trong thang bậc xã hội:
Trong một thang bậc xã hội nào đó, cá nhân có thể “đứng” ở một vị trí xác định
là khoảng cao, khoảng trung bình hay khoảng thấp. Thế nhưng, khi nói đến vị thế
xã hội chính là nói đến một sự lượng giá (tức là cao, thấp hay trung bình) tùy
thuộc vào cách so sánh các chỗ đứng với nhau trong nội bộ một thang, tùy thuộc
vào cách thức đối sánh của thang này với thang khác cũng như tùy thuộc vào hệ
quy chiếu của xã hội dành cho từng loại thang bậc với những quan điểm đánh giá
khác nhau. Trong trường hợp này người ta có thể gọi nó là địa vị hay chức vụ xã
hội. Ví dụ: bác sĩ, kỹ sư, luật sư, giám đốc, giáo viên,…Tuy nhiên, cần lưu ý rằng,
nếu cá nhân tham gia vào nhiều tổ chức, thiết chế hay nhóm xã hội thì anh ta sẽ
có nhiều vị trí xã hội khác nhau. Nhưng trong số các vị thế xã hội đó bao giờ
cũng có một vị thế được coi là then chốt (key status). Chính vị thế chen chốt
này là “bộ mặt” của cá nhân đó khi xuất hiện trước mọi người và xã hội cũng
nhìn nhận anh ta chủ yếu qua vị thế xã hội đó. Đây chính là “cửa sổ lớn nhất”
là cá nhân mở ra để bên ngoài tìm hiểu mình, từ đó xã hội sẽ quan sát và “hiểu”
những vị trí xã hội khác của anh ta.
Thứ hai, là tọa độ của cá nhân trong hệ trục uy tín của xã hội: Đó là những đánh
giá của một nhóm, cộng đồng xã hội đối với cá nhân, biểu thị mức độ tôn trọng,
nể phục, trọng thị. Uy tín xã hội nhiều hay ít, cao hay thấp có thể tùy thuộc
vào nhiều yếu tố và thang giá trị của xã hội như: thâm niên công tác, loại nghề
nghiệp, tài năng, đức độ, tuổi tác, mức độ cống hiến cho xã hội,… và nó không
hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ mà cá nhân đó đang đứng, địa vị cao hay thấp, quyền
lực ít hay nhiều. Thực tế cho thấy, người có quyền lực cao chưa chắc đã nhận được
sự kính trọng, nể phục, trọng thị của xã hội; ngược lại, người được xã hội kính
trọng, nể phục, trọng thị chưa hẳn là người có địa vị cao, quyền lực lớn.
Xem xét một cách
tổng quát, nếu mô tả tất cả các vị thế xã hội lên một tờ giấy thì tờ giấy đó
không hề nhỏ và chằng chịt những chi tiết; và thử hình dung, mỗi một vị thế đó
gắn với một “vai” mà cá nhân phải đóng thì số lượng vai cũng tương ứng với vị
thế mà cá nhân đó “sở hữu”. Xã hội học gọi đó là các “vai trò xã hội”. Tuy
nhiên, cần phải hiểu rằng vị thế xã hội và vai trò xã hội có sự khác nhau tương
đối. Vị trí xã hội thường trả lời cho câu hỏi “anh là ai?” thì vai trò xã hội lại
trả lời cho câu hỏi “anh ta cần phải diễn xuất như thế nào?”, cần làm gì trong
tình huống đó, khung cảnh đó. Nói cách khác, địa vị xã hội là trục định vị cá
nhân còn vai trò xã hội là những biểu hiện đa dạng và phong phú quanh nó. Như vậy,
về bản chất thì vai trò là hình thức thể hiện của vị thế; về số lượng thì vai
trò thường nhiều hơn vị thế (bởi một vị thế có thể có nhiều vai, kể cả vai trò
liên kết).
TS. Phạm Đi
(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản
lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020
Nhận xét
Đăng nhận xét