BÀN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

 

BÀN VỀ  PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Cùng với tốc độ tăng dân số[1] là tốc độ đô thị hóa cao gắn liền với phát triển của các khu công nghiệp thì sự tác động vào môi trường tự nhiên cũng ngày càng nhiều hơn, tính chất nghiêm trọng hơn; các phế phẩm mà con người thải ra môi trường cũng gia tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại… khiến sức chịu tải và cơ chế “thanh lọc tự nhiên” không phát huy tác dụng.

Những năm 50 của thế kỷ XX, nhân loại bắt đầu đối diện với các vấn đề phức tạp như: tăng dân số quá nóng, thiếu hụt lương thực thực phẩm, nguồn năng lượng tự nhiên khan hiếm, môi trường bị ô nhiễm… dẫn đến vấn đề “khủng hoảng sinh thái”, tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chững lại, một số vấn đề xã hội nảy sinh. Đó là hồi chuông cảnh tỉnh giúp con người phải “ngoái đầu nhìn lại” hành vi ứng xử của mình đối với môi trường tự nhiên, đồng thời nỗ lực tìm kiếm một con đường sinh tồn và triết lý phát triển mới. Muốn làm được điều đó buộc phải có sự đầu tư công sức để nghiên cứu đưa ra những quan điểm, tư tưởng, triết lý, chính sách phát triển phù hợp. Phát triển bền vững (Sustainable development) là một trong những khái niệm, triết lý mang tính đại diện và có sức ảnh hưởng lớn. Lần đầu tiên vào năm 1987, Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – WCED, trong Báo cáo về Tương lai của chúng ta, đã đề cập đến khái niệm “phát triển bền vững” và đã nhận được sự ủng hộ, đồng tình của cộng đồng quốc tế.

Chúng ta biết rằng, phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai... Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, giới lãnh đạo, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.

Có thể nói, khái niệm phát triển bền vững đã cung cấp một phương pháp tư duy và quan điểm phát triển mới mẻ và là động lực thúc đẩy các quốc gia có những nghiên cứu, chiến lược hành động phù hợp, đáp ứng các tiêu chí, nội hàm, yêu cầu, đảm bảo tính bền vững của phát triển, Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc. Phát triển bền vững là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta và là vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội. Đặc biệt phát triển bền vững gắn với phát triển kinh tế, môi trường trong thời gian qua đã có nhiều cơ chế, chính sách được ban hành và triển khai, bước đầu mang lại những chuyển biến tích cực.

Chính phủ đã ban hành Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (2004), Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (2012) và gần đây nhất là Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 115 mục tiêu cụ thể đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường. Quan điểm phát triển bền vững đã được Chính phủ lồng ghép xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và môi trường như: Tốc độ tăng trưởng GDP, giảm nghèo bền vững, phổ cập giáo dục, tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe…

Tuy nhiên, nhận thức về phát triển bền vững của không ít cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhiều người dân còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh về kinh tế và ổn định xã hội mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, gắn với bảo vệ môi trường[2].

Như vậy, phát triển bền vững không phải là một “khẩu hiệu” nhất thời mà là mục tiêu chiến lược về phát triển, vừa đảm bảo mục tiêu kinh tế, vừa hài hòa với môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh, nâng cao chất lượng sống của con người.

TS. Phạm Đi

(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020)



[1] Theo số liệu Liên Hợp Quốc dân số Việt Nam tính đến thời điểm ngày 20 tháng 5 năm 2020 là 97.197.686 người. Gia tăng dân số tự nhiên là dương (4.293 trẻ em được sinh ra trung bình mỗi ngày; 1.701 người chết trung bình mỗi ngày); Dân số Việt Nam sẽ tăng trung bình 2.275 người mỗi ngày trong năm 2020. Tham kiến: https://danso.org/viet-nam/

[2] TS. Nguyễn Thị Việt Nga, Phát triển bền vững ở Việt Nam và gợi mở hai mô hình chính sách, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính. Tham kiến: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-va-goi-mo-hai-mo-hinh-chinh-sach-318000.html

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ