BÀN VỀ HÔN NHÂN, VẤN ĐỀ HÔN NHÂN
BÀN VỀ HÔN NHÂN, VẤN ĐỀ HÔN NHÂN
Ý nghĩa
của hôn nhân
Hôn nhân được xem
là kết quả của tình yêu, là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng
và một người phụ nữ được gọi là vợ. Đây là sự kết hợp giữa nam và nữ về tình cảm,
xã hội, giới tính, tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân điều chỉnh mối quan hệ
sinh lý giữa đàn ông và phụ nữ, cho phép nam nữ sống chung với nhau đồng thời đặt
ra các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau. Trên thực tế, lễ
cưới hỏi thường được xem là sự kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu của hôn
nhân. Tuy nhiên, về mặt luật pháp, hôn nhân bắt đầu từ việc đăng ký kết hôn, là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định pháp luật khi đủ
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền.
Thế nhưng, có bao
giờ chúng ta đặt vấn đề: “Vì sao cần phải kết hôn? Hôn nhân có ý nghĩa như thế
nào?”. Không võ đoán để nói rằng, nhiều người chưa bao giờ đặt câu hỏi như thế
(cũng có thể cho rằng không nên đặt vấn đề như vậy); cũng có người hiểu đơn giản
rằng kết hôn, thành gia thất, sinh con đẻ cái đều là “cái tự nhiên” của con người:
nam lớn có vợ, nữ lớn giả chồng mà! Trong đời sống xã hội, đại đa số chúng ta đều
thông qua hình thức hôn nhân để kết thành gia đình, sinh con đẻ cái, sau đó tiếp
tục giúp con cái kết hôn, sinh con đẻ cái: xã hội như thế mà tiếp diễn,...
Quả thật, với tư
cách là một hiện tượng xã hội, chế độ hôn nhân có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội.
Một mặt, hôn nhân và gia đình thể hiện sự “ràng buộc” trách nhiệm và nghĩa vụ
xã hội của con người. Hôn nhân và gia đình là nền tảng của xã hội, nơi sinh ra,
nuôi dưỡng và giáo dục các thế hệ tương lai của đất nước, nơi gìn giữ và phát
triển các nét đặc trưng văn hóa, truyền thống của một dân tộc, một quốc gia. Có
các tế bào khỏe mạnh thì xã hội mới phát triển, ngược lại, nếu xuất hiện ngày
càng nhiều “tế bào lỗi” thì xã hội sẽ suy thoái, truyền thống
văn hóa, đạo đức của đất nước sẽ tan vỡ. Mặt khác, hôn
nhân và gia đình còn thể hiện sự “tự do” của chính con người. Con người có quyền
kết hôn hoặc không kết hôn bởi họ muốn lựa chọn “hạnh phúc” cho bản thân mình.
Trên ý nghĩa đó mà nói, con người chịu trách nhiệm về thành công hoặc thất bại
của mình, nhưng chắc chắn những “thành công” trong hôn nhân sẽ khiến cho người
định hướng hành vi của mình, lựa chọn cho mình một phương thức tồn tại phù hợp.
Điều này giải thích cho những xu thế lựa chọn bạn đời và hình thức hôn nhân hiện
nay của giới trẻ.
Lựa chọn bạn đời
Bước đầu tiên của
hôn nhân là lựa chọn bạn đời. Nhiều người cho rằng, đối tượng kết hôn của mình
chính là sự lựa chọn theo ý chí và nguyện vọng của cá nhân. Trên thực tế, trong
quá trình lựa chọn bạn đời, cá nhân (chủ thể) luôn bị chi phối, chế ước bởi nhiều
yếu tố bên ngoài (ý chí và nguyện vọng cá nhân). Có thể nói, hành vi lựa chọn bạn
đời là một hiện tượng bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, văn hóa và xã hội. Với tư
cách là một việc “hệ trọng” trong đời sống cá nhân, mô thức và tiêu chuẩn lựa
chọn bạn đời phản ánh giá trị văn hóa và xu hướng xã hội, chịu tác động bởi chế
độ hôn nhân gia đình, hệ giá trị xã hội, phong tục tập quán, văn hóa-lối sống.
Không phải ngẫu nhiên mà trong chế độ hôn nhân của mỗi quốc gia, dân tộc ngoài
các quy định về pháp luật còn không ít những quy định về đạo đức và cả “những
điều cấm kỵ trong hôn nhân” (cấm hôn nhân cùng cận huyết thống, cùng huyết thống,
hôn nhân nội tộc,...).
Lựa chọn bạn đời
là một hiện tượng xã hội hết sức phức tạp. Trong quá trình lựa chọn bạn đời,
ngoài những yếu tố mang tính cá nhân còn có sự tác động, chi phối, chế ước bởi
các yếu tố mang tính xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, lựa chọn bạn đời
không còn là một hiện tượng xã hội đơn giản mà đã và đang trở thành những vấn đề
xã hội, thậm chí là “vấn đề xã hội”[1]
phức tạp bởi lẽ lựa chọn bạn đời là giai đoạn đầu tiên trong toàn bộ mắt xích
tình yêu-hôn nhân-gia đình: không chỉ tác động đến bản thân của hành vi lựa chọn
bạn đời mà còn tác động đến toàn bộ tiến trình kết hôn, đời sống gia đình, chế
độ hôn nhân, giải thể hôn nhân sau này.
Kết hôn
Thông qua quá
trình lựa chọn bạn đời[2]
và cuối cùng là giai đoạn kết hôn (bằng những quy định pháp luật và nghi thức
nhất định), hai cá nhân đã kiến lập nên một quan hệ xã hội mới - quan hệ hôn
nhân.
Trong nhiều xã hội,
hoạt động kết hôn phải thông qua các nghi thức vô cùng phức tạp và nghiêm túc;
cần những người có uy tín (xã hội, tôn giáo) hoặc lớn tuổi (cha mẹ, người thân)
mới có tư cách chủ hôn. Bởi lẽ, kết hôn không chỉ là việc của hai người mà là
hoạt động, việc hệ trọng của hai gia đình, hai tộc họ, thậm chí là quốc gia[3].
Ở nước ta, nếu quan sát toàn bộ hoạt động của một cuộc kết hôn, chúng ta mới thấy
được những kỳ thú của nó: nghi thức, lễ thức, phong tục, tập quán và các hoạt động
đi kèm.
Vấn đề là ở chỗ,
chức năng của hôn nhân là gì? Vì sao con người phải tiến hành các nghi thức hết
sức chặt chẽ, nhiều khi phức tạp trong hoạt động kết hôn? Rõ ràng, hôn nhân thực
hiện nhiều chức năng, bao gồm chức năng đối với cá nhân và chức năng đối với xã
hội.
Chức năng đối với cá nhân |
Chức năng đối với xã hội |
Thỏa mãn nhu cầu tình dục (tính dục) |
Duy
trì sự ổn định và trật tự xã hội |
Thỏa mãn nhu cầu sinh con (bản năng) |
Tái
sản xuất con người, kéo dài sự sống của nhân loại |
Đạt được vị thế xã hội |
Mở
rộng quan hệ xã hội |
Ở tầng diện thứ nhất,
thỏa mãn nhu cầu tình dục và duy trì sự ổn định xã hội. Sau khi kết hôn thì
hành vi tình dục của nam nữ mới được thừa nhận là hợp pháp, như thế, kết hôn là
kênh quan trọng để con người thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân. Hơn nữa,
xã hội không chấp nhận các hành vi tình dục khi không thông qua kết hôn, đó là
một trong những phương thức để duy trì trật tự xã hội, chí ít là trên lĩnh vực
tình dục. Tầng diện thứ hai, thỏa mãn nhu cầu sinh con và tái sản xuất ra chính
bản thân con người. Sự kết hợp giữa nam và nữ không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu
tình dục mà còn tạo ra những đứa con một cách hợp pháp; thỏa mãn nhu cầu sinh
con, nuôi dưỡng con cái và đồng thời với nó là tạo ra thế hệ kế tiếp, kéo dài sự
sống của chính con người. Tầng diện thứ ba, thông qua kết hôn con người (cả nam
và nữ) hình thành nên các vai trò, vị thế xã hội tương ứng, từ đó hình thành
nên trách nhiệm xã hội của bản thân, mở rộng các mối quan hệ xã hội. Hôn nhân
là việc của hai gia đình, hai họ chính là mở rộng mối quan hệ xã hội, mạng lưới
xã hội, vốn xã hội của con người.
Biến thể
của hôn nhân
Trong lịch sử phát
triển của nhân loại đã xuất hiện các kiểu hôn nhân khác nhau. Mỗi nền văn hóa,
chế độ hôn nhân, giai đoạn lịch sử có thể có các kiểu hôn nhân khác nhau. Lịch
sử cho thấy đã có các kiểu hôn nhân như: hôn nhân đồng huyết thống, quần hôn,
hôn nhân đối ngẫu, hôn nhân nhóm, hôn nhân đa phu, hôn nhân đa thuê; hôn nhân một
vợ một chồng, hôn nhân mở, hôn nhân thử, hôn nhân đồng giới (đồng tính luyến).
Đối với vấn đề “biến thể của hôn nhân” chúng tôi xin đề cập đến các hình thức
biến thể chủ yếu:
Một là, hôn nhân mở: Là kiểu hôn nhân chỉ tồn tại về mặt hình thức,
trong đó hai vợ chồng chung sống với nhau có sự chứng kiến của pháp luật nhưng
đời sống thực tế của họ không có sự ràng buộc nhiều về kinh tế, về con cái và cả
về quan hệ tình dục.
Hai là, hôn nhân thử: Là sự sống chung của một người nam với một người
nữ trong thời gian không xác định trước và, nếu thấy phù hợp thì tiến hành hôn
nhân chính thức, nếu không thì sẽ chia tay. Trước đây, kiểu hôn nhân này khá thịnh
hành ở các nước phương Tây, nhưng hiện nay hiện tượng “sống thử” không còn xa lạ
gì ở Việt Nam chúng ta.
Ba là, hôn nhân đồng giới: Đây là kiểu hôn nhân được xuất hiện trong
những năm gần đây. Các thành viên kiến tạo mối quan hệ hôn nhân không phải là
những người khác giới theo truyền thống (nam và nữ) mà là những người cùng giới
với nhau (nam với nam; nữ với nữ). Tính “hợp pháp” của kiểu hôn nhân này đang
còn tranh luận của một số quốc gia trên thế giới (có quốc gia đã hợp pháp hóa
như Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Canada, …) nhưng còn nhiều quốc gia vẫn không chấp nhận
như là một hình thức hôn nhân được pháp luật thừa nhận (nhưng trong thực tế nó
vẫn tồn tại).
Giải thể
hôn nhân
Trong bất kỳ xã hội
nào người ta cũng mong muốn tính bền vững của hôn nhân và gia đình. Thế nhưng
trên thực tế, gia đình đang phải đối diện với nhiều nguy cơ, trong đó giải thể
hôn nhân (ly hôn) là một nguy cơ lớn nhất mà gia đình phải đương đầu hiện nay.
Kể từ những năm 40
của thế kỷ 20, tỷ lệ ly hôn đã gia tăng ở hầu hết các nước trên thế giới. Cho
dù mọi người thường có những lý do giải thích để ly hôn, ly hôn vẫn làm tổn
thương bất cứ ai. Các nhà xã hội học có sự thống nhất cao về ảnh hưởng của ly
hôn lên cả đôi lứa và con cái. Các ảnh hưởng này bao gồm: các nguy cơ chán chường
và tuyệt vọng, dễ mắc bệnh, tuổi thọ thấp hơn. Nhưng các ảnh hưởng của ly hôn về
mặt xã hội, tâm lý, kinh tế, khác biệt nhau giữa nam và nữ.[4]
Điều hết sức lý
thú (về lĩnh vực nghiên cứu) khi đặt câu hỏi: “Vì sao con người lại ly hôn?” Rõ
ràng đây là vấn đề hết sức nghiêm túc và câu trả lời cũng không dễ dàng chút
nào. Trên phương diện vĩ mô nhìn nhận, tỷ lệ ly hôn cao không chỉ tác động đến
(và chịu ảnh hưởng từ) truyền thống đạo đức của quốc gia, dân tộc mà còn chịu ảnh
hưởng từ quá trình phát triển kinh tế xã hội, mức độ giao lưu và hội nhập quốc
tế,…Từ giác độ vi mô nhìn nhận, ly hôn cho thấy sự biến đổi về quan niệm hôn
nhân, quan niệm giá trị, quan niệm nhân sinh của cá nhân trong những điều kiện
sống nhất định. Thông thường, khi nghiên cứu các nhân tố tác động đến ly hôn
người ta chỉ ra: Thứ nhất, sự phát
triển của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề cao quan niệm giá trị lợi ích của cá nhân, thậm
chí hình thành “chủ nghĩa kim tiền”; tính độc lập về kinh tế của phụ nữ ngày
càng được khẳng định. Tiến trình công nghiệp hóa (mà cụ thể là biến đổi cơ cấu
ngành nghề) đã khiến cho quỹ thời gian của các thành viên trong gia đình ngày
càng ít đi, sợi dây liên đới giữa các thành viên ngày càng lỏng lẻo. Thứ hai, sự biến đổi về chức năng của
gia đình. Xã hội không ngừng biến đổi và chịu “va đập”, hình thành nên những
“cú sốc tương lai” và kéo theo đó là những chuyển biến trong gia đình: “Những thay đổi mang tầm quốc tế trong đời sống
gia đình đang gắn liền với sự biến đổi trên nhiều lĩnh vực: xã hội, văn hóa,
kinh tế và chính trị,…”[5]. Rất nhiều chức năng cố hữu
của gia đình đã mất đi hoặc bị thay thế bởi các thiết chế xã hội khác, mức độ
phụ thuộc của con người vào gia đình ngày càng suy yếu. Thứ ba, tiến trình đô thị hóa một cách nhanh chóng đã ít nhiều phá
vỡ các cộng đồng đã gắn bó chặt chẽ; gia đình trở nên “đơn độc” trong cộng đồng,
những vấn đề gia đình không còn nhờ sự hỗ trợ và giải quyết của cộng đồng. Thứ tư, các quy định có tính chất ràng
buộc về pháp luật ngày càng nới lỏng. Hiện luật phát của nhiều nước trên thế giới
khẳng định sự tự do hôn nhân (đương nhiên là tự do kết hôn, tự do ly hôn) và thủ
tục ly hôn ngày càng đơn giản hơn; cái giá của ly hôn (về chi phí ly hôn, về
ràng buộc pháp lý, về dư luận xã hội) cũng nhẹ nhàng hơn trước. Trước đây, người
ta nhìn nhận một người nào đó “ly hôn” như một hiện tượng “lạ thường”, nhưng
ngày nay dư luận xem đó là hiện tượng bình thường. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ ly hôn ngày càng cao như hiện nay.
Ngoài ra, khi tiến
hành nghiên cứu các nguyên nhân trực tiếp dẫn đến ly hôn, các nhà xã hội học đã
tìm kiếm và khẳng định có sự tác động của
các biến số sau: (1) Tuổi kết hôn quá sớm. Có bằng chứng cho thấy, những người
kết hôn sớm (chứ không phải tảo hôn) có tỷ lệ ly hôn cao hơn những người kết
hôn muộn hơn. Như vậy, biến số tuổi kết hôn có tác động đến biến “tỷ lệ ly hôn”:
(2) Mang thai rồi mới kết hôn. Nghiên cứu cho thấy, những trường hợp kết hôn do
“bác sĩ bảo cưới” có nguy cơ ly hôn cao hơn trường hợp khác; (3) Thời gian tìm
kiểu quá ngắn. Hiện nay có hiện tượng “tiếng sét ái tình”, “hôn nhân chớp
nhoáng”. Những trường hợp này có tỷ lệ ly hôn cao hơn so với nhóm có thời gian
tìm hiểu lâu hơn; (4) Có bố mẹ đã từng ly hôn. Biến số “có bố mẹ đã từng ly
hôn” có tác động đến việc ly hôn của con cái sau này; (5) Kết hôn có yếu tố nước
ngoài cũng là một trong những nguyên nhân cho thấy tỷ lệ ly hôn cao hơn nhóm kết
hôn không có yếu tố nước ngoài; (6) Đời sống tình dục trong hôn nhân không được
thỏa mãn cũng là lý do khiến tỷ lệ ly hôn cao hơn nhóm khác; (7) Bất bình đẳng
giới và bạo lực trên cơ sở giới là nhân tố dễ dẫn đến ly hôn[6].
TS. Phạm Đi
(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản
lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020)
[1] Xem: Phạm Đi, Vấn đề xã hội – lý thuyết và vận dụng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2018. tr13.
[2] Hiện nay quá trình này có thể “đốt
cháy giai đoạn” bởi thông qua hoạt động môi giới, hiện tượng “không gặp mà yêu,
không yêu mà cưới”,...
[3] Cuộc hôn nhân giữa Mị Châu và Trọng
Thủy là một ví dụ.
[4] Charles L. Jones và các tác giả, Tương lai của gia đình (Vũ Quang Hà dịch),
Nxb Đại học Quốc gia Hà nội. H2002, tr208.
[5] Charles L. Jones và các tác giả, Tương lai của gia đình (Vũ Quang Hà dịch),
Nxb Đại học Quốc gia Hà nội. H2002, tr7.
[6] Phạm Đi, Chức năng xã hội hóa của gia đình Việt Nam, Luận văn cử nhân xã hội
học, Trường Đại học KHXH và Nhân văn TP. HCM.
Nhận xét
Đăng nhận xét