BÀN VỀ CÁC MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN

 

BÀN VỀ CÁC MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI  HÓA CÁ NHÂN

Xã hội hóa luôn phải được tiến hành trong những môi trường nhất định, bao gồm gia đình, nhóm bạn bè, cộng đồng, đơn vị công tác, truyền thông đại chúng, nhà trường, các tổ chức quản lý nhà nước, các thiết chế tôn giáo,…Xét một cách bao quát, toàn bộ đời sống xã hội là pháp nhân xã hội hóa. Tất cả những gì bên ngoài cá nhân, có tác động đến cá nhân trong quá trình hình thành nhân cách, lối sống, sự hiểu biết, tri thức, kỹ năng đều là tác nhân xã hội hóa. Tuy nhiên, trong các môi trường xã hội hóa sự tác động đến cá nhân có độ đậm nhạt khác nhau, chiều cạnh khác nhau, tính chất khác nhau và do đó, hiệu quả cũng không giống nhau. Ở đây chúng ta chỉ tiến hành phân tích một số môi trường xã hội hóa cơ bản nhất đó là gia đình, trường học, nhóm bạn bè, truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội.

a. Gia đình

Gia đình là môi trường xã hội hóa được nhiều học giả chú ý bởi tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của nó đối với hành vi, thái độ, lối sống của cá nhân, nhất là giai đoạn đầu đời của mỗi cá nhân. Gia đình với tư cách là một môi trường xã hội hóa có những đặc trưng cụ thể: (1) Là môi trường đầu tiên và quan trọng: trừ những đứa trẻ bỏ rơi, bất cứ ai cũng sinh ra và lớn lên trong một gia đình và chịu ảnh hưởng từ phía gia đình ngay từ những ngày đầu. Đối với một cá nhân, thời thơ ấu là lúc sống với gia đình nhiều nhất, nhận được ở gia đình những vai trò, chuẩn mực sống, niềm tin, đạo đức, quy tắc giao tiếp… nhiều nhất. (2) Các khuôn mẫu của gia đình có tính trực quan: cá nhân tiếp thu các thông tin, hành vi của các thành viên trong gia đình đều ở dạng trực quan, các quan niệm đúng-sai, nên-không nên của bố mẹ; mô thức hành vi của các thành viên trong gia đình được biểu hiện trực tiếp bằng ngôn ngữ có lời và không lời, “thấm” dần dần vào đứa trẻ và hình thành nhân cách sau này; (3) Vừa có cái chung, vừa có nét riêng biệt: gia đình là nhóm xã hội đặc biệt, vừa có tính riêng biệt, đặc thù (tiểu văn hoá), vừa có tính chung, phổ biến (văn hóa chính thống). Gia đình vừa lấy “sức mạnh” của mình, vừa kế thừa sức mạnh của xã hội để giáo hóa con cái và các thành viên. (4) Với mối quan hệ đặc thù của mình, gia đình giáo dục con cái và các thành viên chủ yếu thông qua kênh “tình cảm”:  trước hết là tình yêu thương, sự âu yếm, gần giũ: phương pháp giáo dục của gia đình chịu chi phối bởi yếu tố tình cảm, con người nhận được từ gia đình không chỉ “ăn, nói, gói, mở mà còn cả những phẩm chất nhân tính từ tình yêu thương và sự âu yếm. Thứ nữa, với tính chất “tình cảm” đó, gia đình dễ dàng trao đổi những điều tế nhị như những vấn đề tâm sinh lý, giáo dục giới tính.

Từ những đặc trưng của môi trường gia đình cho thấy, đây là môi trường đặc biệt quan trọng đối với mỗi cá nhân trong tiến trình xã hội hóa, do đó, xã hội hoá ở gia đình tốt sẽ làm nền tảng cho đứa trẻ thành công, thuận lợi trong suốt quá trình xã hội hoá ở những giai đoạn tiếp theo.

Tuy nhiên, cũng cần bàn thêm rằng, giáo dục gia đình được xem xét trên cả bình diện tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, trong bất kỳ xã hội nào, phần lớn những người thành công (trong công việc, cuộc sống) đều được tiếp nhận một nền giáo dục gia đình tốt (đạo đức, kỹ năng, tri thức,…). Nói cách khác, gia đình là một nhân tố cực kỳ quan trọng, là bệ phóng vững chắc cho cá nhân thành công. Ngược lại, kết cấu gia đình thiếu hoàn chỉnh (chỉ gia đình đơn thân, cha mẹ ly hôn,…), phương pháp giáo dục thiếu khoa học, cha mẹ không làm gương (đặc biệt là cha mẹ và các thành viên vi phạm pháp luật) thì nguy cơ dẫn đến sự thất bại trong tiến trình xã hội hóa của đứa trẻ, tỷ lệ phạm tội cao. Những đứa con bị bỏ rơi, gia đình bất hòa, phẩm chất đạo đức cha mẹ kém; những đứa trẻ nhận được sự cưng chiều quá mức,… đều có nguy cơ dẫn đến hành vi lệch lạc sau này, thậm chí phạm tội. Đây cũng là chỉ báo giúp các nhà giáo dục, nhà hoạch định chính sách có cái nhìn thận trọng, chính xác về vai trò, vị trí của gia đình và giáo dục gia đình trong tiến trình xã hội hóa cá nhân.

b. Trường học

Trong xã hội truyền thống thì dường như gia đình đóng vai trò chủ yếu trong quá trình xã hội hoá cá nhân từ hình thành nhân cách đến định hướng nghề nghiệp, định hướng hôn nhân và các khía cạnh khác của đời sống con người[1]. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại thì vai trò của thiết chế gia đình dường như “mờ nhạt” hơn và một số thiết chế khác dần thể hiện vai trò “đậm nét” hơn, trong đó có trường học.

Đặc trưng của giáo dục nhà trường là có hệ thống, có tổ chức và có kế hoạch.  Những kiến thức khoa học, mô tiếp ứng xử, quy tắc, pháp luật… từ nhà truờng đã được kiểm định, có tính chất phổ quát cao, có định hướng rõ ràng. Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển thần tốc của khoa học kỹ thuật như hiện nay thì vai trò của trường học càng được khẳng định. Thông qua hệ thống giáo dục, con người tiếp nhận kiến thức, kỹ năng, quan niệm, thái độ và cả những điều mà xã hội đòi hỏi để hòa nhập vào xã hội. Trong nhà trường, cá nhân học được những kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp và đó chính là hành trang để bước vào đời, tham gia vào lực lượng lao động. Nhiều nghiên cứu xã hội học đã chỉ rõ, những người tiếp nhận giáo dục càng nhiều (thời gian thụ giáo lâu) thì khả năng thích ứng với cuộc sống, khả năng tìm kiếm việc làm, mức thu nhập, thậm chí thái độ chính trị, tình cảm chính trị, cảm hứng chính trị,… càng thể hiện rõ nét hơn. Nói cách khác, biến số học vấn (ở nhà trường) có liên quan chặt chẽ đến biến số việc làm, thu nhập, thái độ chính trị.

Phương thức xã hội hóa trong nhà trường không giống với phương thức xã hội hóa ở môi trường gia đình. Trường học nhấn mạnh đến các nội quy, quy chế, quy phạm và uy quyền (phi cá nhân), nhưng tại gia đình mối quan hệ chủ yếu là tình cảm và do đó, phương thức giáo dục chủ yếu thông qua “kênh” tình cảm. Con cái phục tùng (và vâng lời) bố mẹ bởi vì bố mẹ “mong muốn” như thế và hơn thế nữa, bởi vì khi phục tùng thì được bố mẹ “yêu mến” hơn. Từ đó, con cái dễ hình thành tính ỷ lại, dựa dẫm thậm chí hành động theo “kỳ vọng” của bố mẹ và người lớn. Trái lại, trường học phải phục tùng những nội quy, quy chế đã được ban hành.

Không chỉ dừng lại ở đó, thông qua quá trình xã hội hóa, trường học còn là môi trường quản lý, định hướng cho con người. Do đó, trong đánh giá học sinh, trường học không chỉ xem xét năng lực học tập mà còn mức độ tuân thủ, phục tùng kỷ luật trường lớp; phẩm chất đạo đức, năng lực giao tiếp, ứng xử và nhân cách của người học. Ngoài ra, thông qua xã hội hóa ở môi trường nhà trường sẽ hình thành ý thức tập thể, ý thức cộng đồng cho cá nhân[2], từ đó mà thiết lập các mối quan hệ, tương tác với bạn bè, thầy cô, nhóm, cộng đồng.

c. Nhóm bạn bè

Một khi bước ra ngoài môi trường gia đình đến với môi trường rộng lớn hơn như trường học, xã hội thì tiến trình xã hội hóa cá nhân chịu sự tác động sâu sắc từ nhóm bạn bè, nhất là bạn bè cùng trang lứa. Đặc trưng của nhóm bạn bè (nhóm xã hội) là bình đẳng, cùng vị thế nên các cá nhân thường chia sẻ thái độ, tâm tư và cảm xúc với nhau một cách dễ dàng hơn, bộc bạch hơn. Do đó, nhiều khi tác động của nhóm xã hội mà chủ thể đang sống nhiều khi lấn át cả ảnh hưởng của gia đình và nhà trường. Ta dễ dàng nhận thấy điều này ở các nhóm thanh thiếu niên (tuổi dạy thì). Ở tuổi này thanh thiếu niên thường dành phần lớn thời gian và tâm trí cho quan hệ bạn bè. Họ tạo ra một tiểu môi trường văn hoá riêng với các giá trị, chuẩn mực, quy tắc xử thế riêng (cách ăn mặc riêng của nhóm, “biệt ngữ”, sử dụng đồ vật theo qui ước riêng: xe cộ, giày dép, cách để tóc, thắt lưng…).

Trong thời kỳ thiếu niên, các nhóm cùng lứa tuổi được hình thành chủ yếu do ngẫu nhiên, nhưng càng về sau thì các nhóm này chủ yếu từ yếu tố lựa chọn chủ quan của cá nhân. Chẳng hạn, ở tuổi thiếu niên, các nhóm bạn bè chủ yếu là “tổ”, “lớp”, “trường” nhưng ở tuổi thanh niên, trung niên, thậm chí tuổi già thì nhóm bè chủ yếu được hình thành thông qua các sở thích, các hoạt động, nghề nghiệp, mức thu nhập, địa vị xã hội,…Sức ảnh hưởng của nhóm bạn bè là vô cùng đậm nét, hình thành nên các “tiểu văn hóa”, “á văn hóa” và “ý thức nhóm”. Ở đó, con người nhận được những thông tin “không chính thức”, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn và giúp đỡ nhau trong công việc, cuộc sống. Các câu: “Học thầy không tày học bạn”, “chọn bạn mà chơi”, “bạn bè là nghĩa trước sau, tuổi thơ cho đến bạc đầu không phai”, “thói thường gần mực thì đen, anh em bạn hữu phải nên chọn người, những người lêu lổng chơi bời, cùng là lười biếng ta thời tránh xa”,… có ý nghĩa nhất định trong trường hợp xã hội hóa cá nhân.

d. Truyền thông đại chúng

Tri thức và sự hứng khởi chính là những nhân tố quan trọng của xã hội hóa, trong khi đó, truyền thông đại chúng là môi trường độc đáo thỏa mãn nhiều nhu cầu của con người, trong đó có tri thức, giải trí, tạo sự hứng khởi. Do đó, trong xã hội hiện đại, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, truyền thông đại chúng không ngừng được hoàn thiện cả về phương tiện, nội dung, phương thức. Các phương tiện truyền thông đại chúng như báo in, báo hình, báo nói (radio), tạp chí ngày càng trở nên phổ biến. Truyền thông đại chúng định hướng, dẫn dắt thái độ, hành vi của con người; con người trong xã hội hiện đại dành nhiều thời gian cho báo chí, truyền thanh và truyền hình hơn, đến nỗi nhiều nhà xã hội học ví chiếc TV là “vú em điện tử” của con người hiện đại. Vai trò của truyền thông đại chúng đối với tiến trình xã hội hóa cá nhân thể hiện chủ yếu trên các phương diện cụ thể:

Thứ nhất, truyền thông đại chúng tác động đến hành vi, lối sống, quy phạm văn hóa của con người. Với đặc trưng là thông tin đa dạng, phong phú, nhiều chiều, cập nhật và có khả năng lặp lại với tần suất cao, do đó thông qua truyền thông đại chúng, con người nhận được rất nhiều các loại thông tin mà gia đình và nhà trường không thể cung cấp được và hình thành nên các khuôn mẫu hành vi, phương thức sống.

Thứ hai, truyền thông đại chúng góp phần hình thành nhân cách cho con người. Trong thời kỳ nhi đồng, thiếu niên, thông qua các bộ phim hoạt hình, các tiết mục dành riêng cho thiếu niên nhi đồng gắn với những câu chuyện (Những bông hoa nhỏ, Vườn cổ tích, Chúc bé ngủ ngon, Đi tìm vương quốc truyện cổ); các game show dành cho tuổi mới lớn (Đồ Rê Mí, Giọng hát Việt nhí, Bố ơi mình đi đâu thế, Người hùng tí hon, Trẻ em luôn đúng, Ai thông minh hơn học sinh lớp 5, Cố lên con yêu, Nhanh như chớp nhí,…), trẻ em bắt đầu khám phá thế giới xung quanh, hiểu được các mối quan hệ giữa con người với con người, người với cộng đồng, con người với thế giới xung quanh; biết được mình là một bộ phận, thành tố của xã hội và tự nhiên. Từ đó hình thành nên các quan niệm giá trị, quan niệm sống; học đóng các vai trò xã hội, hiểu được cách thức tổ chức cuộc sống, cách thức tổ chức xã hội; dần hình thành và ổn định nhân cách cho mỗi cá nhân.

Thứ ba, truyền thông đại chúng (đặc biệt là TV) góp phần tích cực trong giáo dục (kiến thức, thẩm mỹ, kỹ năng), thúc đẩy ý thức học tập; nắm được sự thay đổi và phát triển của xã hội (cộng đồng, địa phương; trong nước, ngoài nước). Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận dụng truyền thông đại chúng trong truyền bá kiến thức, văn hóa, giáo dục, góp phần thỏa mãn nhu cầu “tự học” của con người.

Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng, truyền thông đại chúng vừa có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Do bởi nguồn thông tin khá đồ sộ, bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời sống nên nhiều khi thiếu sự kiểm chứng từ phía cơ quan chức năng. Thêm vào đó là xu thế “thương mại hóa” về truyền thông đại chúng đã khiến cho nội dung của nó nhiều khi không phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức gây nên những hiện tượng phản giáo dục, phản văn hóa; lệch lạc hành vi khi “bắt chước” các “khuôn mẫu” trên truyền thông đại chúng. Do đó, từ giác độ quản lý xã hội nhìn nhận, cần phải tiến hành quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với thiết chế truyền thông cả về số lượng, nội dung, hình thức; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm sớm phát hiện các nội dung không phù hợp, chạy theo thị hiếu tầm thường để điều chỉnh kịp thời.

e. Truyền thông xã hội

Tiến trình công nghiệp hóa đã bước vào giai đoạn mới kéo theo nó là sự phát triển thần tốc về các phương tiện thông tin, truyền thông, trong đó có truyền thông xã hội[3]. Cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mạng xã hội chính là mạng Internet; biểu hiện của mạng xã hội là ảo nhưng bản thân nó là có thật, tồn tại thật sự trong đời sống xã hội hiện đại. Nói cách khác, truyền thông xã hội là một nhân tố không thể thiếu trong tiến trình xã hội hóa cá nhân.

Truyền thông xã hội hình thành và phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có[4] làm thay đổi cách thức giao tiếp, cách thức tổ chức xã hội, phương thức sản xuất thậm chí cả văn hóa, lối sống, niềm tin của con người. Mạng xã hội cũng hình thành nên không gian, môi trường, điều kiện mới để phát triển kinh tế-xã hội nhưng cũng mang trong mình những thách thức đối với quốc gia, dân tộc về vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh. Từ giác độ xã hội học nhìn nhận, truyền thông xã hội có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, tính chất ảo. Người ta thường ví mạng xã hội như “một thế giới ảo” bởi chính đặc trưng quan trọng của nó là “ảo”. Sinh tồn của mạng xã hội chính là hình thành, trao đổi, chia sẻ, sử dụng các thông tin, tin tức nhưng chúng có thể có thật, có thể không có thật (chưa được kiểm chứng bởi các cơ quan chức năng) do đó nó có tính hấp dẫn nhất định đối với con người. Sự tương tác giữa con người với con người trong xã hội hiện thực luôn chi phối bởi môi trường văn hóa, hạn chế bởi cơ cấu xã hội nhất định nên quá trình giao tiếp luôn phải “hiển danh”. Ngược lại, trong không gian mạng xã hội, sự ràng buộc của văn hóa, lối sống, cơ cấu, giai tầng là không đáng kể mà thay vào đó là các quy ước hay “văn hóa mạng”. Các quy ước, văn hóa mạng rất linh hoạt, có tính mở và luôn “động” để thu hút “cư dân mạng”. Do đó, cư dân mạng có thể tùy thuộc vào cảm hứng, sở thích của mình mà thỏa thích “đóng vai” theo ý muốn[5]. Điều đặc biệt nữa là, nếu muốn “chuyển vai”, “sáng tạo vai” thì cũng chỉ cần vài thao tác đơn giản. Tính ảo trong tương tác giữa người với người có thể giúp con người “bộc bạch” mà không sợ hỗ thẹn, phán xét nhưng cũng là nơi để con người lừa gạt, dối trá, “biến hình”. Chính vì thế, dưới lăng kính xã hội hóa cá nhân mà nói, truyền thông xã hội là nhân tố tác động (cả chiều hướng tích cực và tiêu cực) rất lớn đến con người, nhất là nhóm trẻ.

Thứ hai, tính biểu tượng và nặc danh. So với tương tác trong xã hội hiện thực, tương tác trong không gian mạng có tính biểu tượng rõ nét hơn. Thân phận của các thành viên trong không gian mạng thường nặc danh và chủ yếu thông qua một (hay nhiều) biểu tượng nào đó. Cư dân mạng có thể tùy ý lựa chọn cho mình tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo, sở thích mà hình thành nên một “thế giới riêng” để tương tác, để thể hiện, để bày tỏ chính kiến, quan điểm của bản thân (thông qua biểu tượng đại diện).

Biểu tượng trong không gian mạng chủ yếu thể hiện ở 3 phương diện: Một là biểu tượng hóa về nội dung, phương thức truyền đạt thông tin: trong không gian mạng, cư dân mạng có thể thỏa thích sáng tạo và dùng những biểu tượng nào đó để thay thế ngôn ngữ (hình thành ngôn ngữ mạng)[6]. Hai là biểu tượng hóa vật chất: tương tác trong xã hội hiện thực, con người thường dùng những sản phẩm vật chất nào đó để trao tặng, biểu đạt “tấm lòng”, mối quan hệ của mình; tương tác trong mạng xã hội, cư dân mạng cũng dùng những “sản phẩm vật chất” để biểu đạt tình cảm nhưng thông thường nó được “chuyển thể” thì những hình vẽ, phù hiệu, hình ảnh. Tức là vật chất được “biểu tượng hóa”. Ba là biểu tượng hóa chủ thể tương tác: tương tác trong không gian mạng thông thường là tương tác gián tiếp, tức là chủ thể tương tác thường “ngụ” trong một biểu tượng nào đó gắn với các thông tin thật của cá nhân được “mã hóa” hoặc “vay mượn”. Nói cách khác, chủ thể tương tác được biểu tượng hóa với một nhân vật nào đó. Đây cũng là yếu tố độc đáo, khác biệt cơ bản giữa tương tác hiện thực và tương tác trên không gian mạng.

Thứ ba, là công cụ giao tiếp không hạn chế không gian. Sự phát triển của khoa học công nghệ giúp cho phương thức truyền tải thông tin có thể vượt qua giới hạn của hiện thực. Trong xã hội truyền thống, tương tác giữa con người với con người luôn được xác định cụ thể về không gian, thời gian, nội dung. Thế nhưng, trong xã hội thông tin như hiện nay, sự tương tác giữa con người với con người đã vượt qua giới hạn của không gian, thời gian. Không gian bị “nén” lại làm thay đổi phương thức giao tiếp của con người, nếu không muốn nói là một cuộc cách mạng trong giao tiếp.

Thứ tư, vừa có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực trong tiến trình xã hội hóa cá nhân. Tiến trình xã hội hóa cá nhân sẽ là thuận lợi nếu thông qua các môi trường xã hội hóa để tiếp nhận, nội tâm hóa các giá trị, chuẩn mực, quy ước và niềm tin chung của cộng đồng; học đóng các vai trò phải đóng trong tương lai; trở thành một thành viên thực sự, “hợp quy” của cộng đồng, xã hội. Mỗi môi trường xã hội hóa đều có đặc điểm độc đáo của nó; có ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế nhất định. Với xu thế toàn cầu hóa và cùng với đó là sự phát triển nhanh chóng mạng Internet gắn với đa dạng hóa các loại hình truyền thông xã hội như hiện nay, bên cạnh những mặt thuận lợi (con người dễ dàng tiếp cận các thông tin; trao đổi và chia sẽ thông tin; các giá trị tốt đẹp dễ dàng được chia sẻ,…) thì cũng tồn tại và phát sinh không ít những khó khăn, trở ngại đối với tiến trình xã hội hóa cá nhân. Với số lượng người sử dụng Internet của Việt Nam như hiện nay[7] thì xu thế “Internet hóa”, “mạng hóa” sẽ là tất yếu. Hiện tượng tương tác qua mạng (thay vì tương tác kiểu mặt đối mặt truyền thống) dần trở thành vấn đề xã hội và thách thức lớn đối với quá trình xã hội hóa cá nhân. Từ khía cạnh quản lý xã hội nhìn nhận, đây là thách thức không chỉ đối với cá nhân, gia đình mà còn là bài toán đối với lĩnh vực giáo dục, khía cạnh văn hóa, yếu tố an ninh đối với quốc gia. Do đó, ngoài việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như Luật an ninh mạng thì cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân (nhất là lứa tuổi học sinh, sinh viên) về mặt trái của truyền thông xã hội, biết chắt lọc những thông tin bổ ích, phù hợp và đồng thời “miễn dịch” với thông tin sai lệch, thậm chí đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng, quốc gia.

TS. Phạm Đi

(Tham kiến: Phạm Đi, Xã hội học với Lãnh đạo, quản lý, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2020)



[1] Không phải ngẫu nhiên mà trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều ca dao, tục ngữ nói về vai trò của gia đình, cha mẹ và người lớn đối với trẻ em và con cái nói chung. Ví dụ: Con dại cái mang; con hư tại mẹ cháu hư tại bà; cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; nhất mẹ, nhì cha thứ ba bà ngoại; cha (mẹ) nào con nấy; phúc đức tại mẫu; con không cha thì con trễ, cây không rễ thì cây hư,…

[2] Chúng ta thường bắt gặp những cụm từ như “tổ mình”, “lớp mình”, “trường mình”; “nhóm mình”, “thành phố mình”,…

[3] Social Media: Phương tiện truyền thông mạng xã hội, còn gọi là “truyền thông mạng xã hội”, “mạng xã hội”,…

[4] Facebook là mạng xã hội đang dẫn đầu số lượng người dùng, với 2,23 tỷ người (Việt Nam hiện có khoản 58 triệu người dùng Facebook ), YouTube và WhatsApp đồng hạng ở vị trí thứ 2 với 1,5 tỷ người dùng, tiếp sau đó là các nền tảng Facebook Messenger, WeChat, Instagram,...

[5] Nhiều người quen biết nhau trên mạng xã hội nhưng chưa bao giờ biết rõ sự thật về “bạn” mình do tính “ảo” của nó. Không ít trường hợp lợi dụng không gian mạng để giả danh lừa gạt, thậm chí kích động, lôi kéo con người làm việc xấu. Chính vì thế “tội phạm mạng” chính là một loại tội phạm mới; an ninh mạng đã trở thành một loại an ninh phi truyền thống.

[6] Ví dụ: Ilu (I love you - Em yêu anh), Sul (See you later - Hẹn gặp lại anh sau), G9 (good night - Chúc ngủ ngon nhé!), G92U (Good night to you – Chúc bạn ngủ ngon), 999 (Chúc ngủ ngon nhé hoặc chúc may mắn), 4U (For you – Cho bạn), b4 (Before - trước),  s2y (Same to you - bạn cũng vậy nhé); Hay có nhiều cách “sáng tạo” về chữ viết như “luôn luôn” được “chế biến” thành “lun lun”, “yêu quá” sẽ thành “iu wá”, “lối viết” sẽ là “lúi vít”, còn “không” sẽ chỉ cần viết đơn giản là “kôg”, hoặc giản lược hơn nữa - chỉ cần một chữ “k” là xong, “bây giờ” thì chỉ cần “bi h”; hay thể hiện sự tán thành/không tán thành, đồng ý/không đồng ý, yêu/ghét, cười/buồn đều thông qua những biểu tượng đã được “mã hóa”.

[7] Theo thống kê, số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam vào cuối năm 2018 đạt 64 triệu người dùng, chiếm đạt 67% dân số.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ