THẾ NÀO LÀ THÀNH PHỐ THÔNG MINH?

Thành phố thông minh là khái niệm tương đối mới mẽ, càng mới mẽ hơn đối với các quốc gia đang phát triển khi mà sự tiến bộ và trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, thành quả của trí tuệ thông minh chưa nhiều. Do đó, nghiên cứu lĩnh vực thành phố thông minh cũng chưa phải là nhiều, nếu không muốn nói là còn hạn chế. Hiện chưa có một định nghĩa thống nhất về thành phố thông minh do cách tiếp cận và quan điểm của các nhà nghiên cứu, quản lý đô thị.

Theo Luật về Đô thị và Cộng đồng thông minh của Hoa Kỳ, khái niệm đô thị thông minh được định nghĩa: Thành phố thông minh hoặc cộng đồng thông minh là một cộng đồng ở đó được ứng dụng các công nghệ thông tin, truyền thông đổi mới sáng tạo, tiên tiến và đáng tin cậy, các công nghệ năng lượng và các cơ chế liên quan khác để: Cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân; tăng hiệu lực và hiệu quả chi phí vận hành và cung cấp các dịch vụ dân sự; thúc đẩy phát triển kinh tế; tạo ra một cộng đồng ở đó người dân cảm thấy tốt hơn về các mặt an toàn, an ninh, bền vững, có sức chống chịu, đáng sống và đáng làm việc[1].

Như vậy, trong khái niệm này người ta gắn liền “thành phố thông minh” với “cộng đồng thông minh” – tư cách là chủ thể của đô thị. Không thể có một thành phố thông minh thuần túy mà chủ thể của nó (bao hàm chủ thể quản lý và chủ thể hưởng thụ) không thông minh.

Phương tiện của thành phố thông minh chính là “công nghệ thông tin và truyền thông”; mục tiêu của thành phố thông minh là hướng đến cải thiện sức khỏe và điều kiện sống của nhân dân, tăng cường an toàn, an ninh và giúp người dân hạnh phúc hơn. Đối với chính quyền đô thị mà nói, thông qua việc xây dựng thành phố thông minh để cung cấp hệ thống dịch vụ tốt hơn, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản trị đô thị.

Theo quan điểm của Liên minh viễn thông quốc tế[2] thì: “Thành phố thông minh bền vững là đô thị sáng tạo sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông và các phương tiện khác để cải thiện chất lượng cuộc sống, hiệu quả của hoạt động và dịch vụ đô thị và khả năng cạnh tranh, đồng thời đảm bảo đáp ứng nhu cầu của hiện tại và các thế hệ tương lai liên quan đến các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường cũng như văn hóa[3].

Khái niệm này lại gắn kết thông minh với bền vững thành cụm từ “thông minh bền vững” (“a smart sustainable city” - điều này cũng gợi ý cho các nhà quản lý đô thị một cách tiếp cận và phương thức xây dựng thành phố thông minh. Chẳng hạn nếu xây dựng thành phố thông minh mà ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, bất bình đẳng xã hội ngày càng gia tăng, an ninh trật tự đô thị bị đe dọa thì chắc chắn sẽ không bền vững).

Một điểm chung giữa khái niệm này với khái niệm trên là “công nghệ thông tin và truyền thông” chính là phương tiện, công cụ để hiện thức hóa ý tưởng thông minh. Mục tiêu của việc xây dựng thành phố thông minh là “cải thiện chất lượng cuộc sống và hiệu quả hoạt động và dịch vụ đô thị”.

Khái niệm này cũng nhấn mạnh đến phát triển bền vững là đảm bảo các khía cạnh kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường; đảm bảo nhu cầu của thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Như vậy, bản thân “thành phố thông minh” không phải là mục đích tự thân mà cuối cùng là hướng đến con người, thị dân: nâng cao chất lượng sống.

Còn theo Ủy ban châu Âu, khái niệm đô thị thông minh được luận giải như sau: “Thành phố thông minh là nơi các mạng lưới và dịch vụ truyền thống được thực hiện hiệu quả hơn với việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và viễn thông vì lợi ích của cư dân và doanh nghiệp. Các thành phố sử dụng các giải pháp công nghệ để cải thiện quản lý và hiệu quả của môi trường đô thị[4].

Theo đó, tính hiệu quả (và hiệu quả hơn)[5] vẫn tiếp tục được khẳng định; công nghệ thông tin (kỹ thuật số) và viễn thông chính là phương tiện để thực hiện; mục tiêu vẫn hướng đến lợi ích và thỏa mãn các nhu cầu của cư dân và doanh nghiệp. Đối với chính quyền đô thị thì thông qua mô hình thành phố thông minh để cải thiện chất lượng quản lý; bảo vệ tối đa môi trường đô thị (có thể hiểu là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; môi trường hiện tại và môi trường trong tương lai).

Như vậy, mặc dù có những điểm không hoàn toàn trùng khớp nhau trong mỗi khái niệm, song tất cả định nghĩa nên trên đều hướng đến mục tiêu chung (và mục tiêu cuối cùng) là quản lý hiệu quả hơn, đời sống của người dân được cải thiện tốt hơn, đô thị phát triển theo hướng bền vững. Trong đô thị thông minh, người dân được tham gia, giám sát và hưởng thụ; các nguồn lực trong xã hội được phát huy tối đa.

Trên cơ sở chắc lọc cách lý giải và tiếp trên trên, chúng tôi đưa ra định nghĩa như sau: “Thành phố thông minh là thành phố mà ở đó các chủ thể quản lý vận dụng tiến bộ và thành tựu của khoa học, công nghệ thông tin và truyền thông để tổ chức, quy hoạch, thiết kế, xây dựng các khía cạnh, lĩnh vực và giải quyết các vấn đề đô thị một cách hiệu quả hơn, bền vững hơn; tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội để người dân và doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ công cộng một cách tốt nhất; nâng cao sức cạnh tranh, tính nhân văn và hình ảnh văn minh đô thị”.

PHẠM ĐI

 



[1]  US City Decision Maker Survey – A Collaborative project run by IHS Markit and the US Conference of Mayors”, 6/2018.

[2] International Telecomunications Union, viết tắt là ITU, là tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc được thành lập ngày 15/7/1947 với tôn chỉ, mục đích: Giữ vững và tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hữu tuyến, vô tuyến, cáp quang, vệ tinh... của tất cả các nước thành viên nhằm hoàn thiện việc sử dụng viễn thông một cách có hiệu quả nhất; Khuyến khích và trợ giúp kỹ thuật cũng như các nguồn tài trợ cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực viễn thông, phát triển các phương tiện kỹ thuật giúp các nước đang phát triển khai thác có hiệu quả các dịch vụ viễn thông; Tăng cường sử dụng các dịch vụ viễn thông với mục đích thúc đẩy hoà bình thế giới; Phân bổ và quản lý các tần số vô tuyến điện cũng như các vị trí liên quan đến quỹ đạo của các vệ tinh địa tĩnh để tránh nhiễu giữa các trạm thông tin vô tuyến của các nước khác nhau; Tạo lập tiêu chuẩn viễn thông thế giới, nhưng vẫn bảo đảm chất lượng dịch vụ viễn thông; Khuyến khích sự cộng tác giữa các thành viên để cước phí dịch vụ giảm xuống thấp nhất, nhưng vẫn bảo đảm chất lượng và đảm bảo quản lý tài chính viễn thông công khai, độc lập; Thống nhất toàn cầu để sử dụng các dịch vụ viễn thông trong việc cứu hộ con người và vật chất khi cần thiết. Việt Nam tham gia ITU từ 1976, đến năm 1982 Tổng cục Bưu điện mới tham dự Hội nghị toàn quyền lần thứ 10 tại Nairobi (Kênya). ITU đã giúp Việt Nam thực hiện một số dự án như: dự án thử nghiệm viễn thông cộng đồng đa mục tiêu nhằm phát triển viễn thông cộng đồng góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân vùng sâu, vùng xa; dự án “Phác thảo chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam đến 2010 và định hướng đến 2020”, đào tạo chuyên gia Việt Nam để triển khai chương trình lập kế hoạch mạng viễn thông PLANITU và khoá đào tạo, hội thảo về chính sách phát triển viễn thông, thương mại điện tử, thanh toán quốc tế.

[3] United 4 Smart Sustainable Cities, Liên minh viễn thông quốc tế.

[4] What are smart cities? Ủy ban Châu Âu. Tham kiến: https://unece.org/housing/sustainable-smart-cities

[5] Chính vì thế mới có khái niệm “thông minh hơn” mà nội hàm và mục tiêu là hướng đến “hiệu quả hơn”

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ