Một số mâu thuẫn và vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi nông thôn mới

 

Một số mâu thuẫn và vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi nông thôn mới

Từ khi tiến hành thực hiện công cuộc xây dựng NTM, với nhiều chính sách đúng đắn, kịp thời và sự quyết tâm của toàn hệ thống chính trị và nhân dân, bước đầu đã gặt hái được những thành tựu đáng kể: đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận người dân nông thôn từng bước được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn giảm nhanh, một bộ phận không nhỏ nông dân đã vươn lên khá giả và giàu có; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng phần đóng góp của công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề chuyên môn, nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn không ngừng được tăng cường; bộ mặt nông thôn ngày càng thay đổi tích cực; mức sống người dân nông thôn từng bước được cải thiện; sự phát triển của thành thị và nông thôn trở nên cân đối, hài hòa hơn.

Tuy vậy, xây dựng NTM là một chương trình mang tầm vĩ mô, có tác động đến nhiều khía cạnh trong đời sống xã hội mà trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiều hạng mục công việc đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, có sự không ăn khớp, không thống nhất giữa động cơ và hiệu quả, giữa nhận thức và hành động, giữa mục tiêu và phương thức thực hiện, giữa các chủ thể và trong nội tại của từng chủ thể. Từ thực tiễn ở các tỉnh DHNTB cho thấy, đã và đang nảy sinh một số mâu thuẫn chủ yếu trong tiến trình thực hiện và triển khai các bước, thực hiện các nội dung của NTM, cần phải nhìn nhận một cách đúng đắn và từng bước có hướng khắc phục, hóa giải. Theo chúng tôi, đó là những mâu thuẫn chủ yếu sau[1]:

Mâu thuẫn giữa quan hệ của chủ thể Nhà nước, các lực lượng xã hội và chủ thể nông dân. Cần phải khẳng định rằng, xây dựng NTM phụ thuộc rất lớn vào quyết tâm chính trị, sự chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước về mặt chính sách, tài chính. Nói cách khác, trong tiến trình xây dựng NTM, chủ thể lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện là các cấp ủy đảng, bộ máy chính quyền mà cụ thể là các BCĐ NTM các cấp. Cụ thể mà nói, Nhà nước và hệ thống chính trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chế định các chính sách liên quan, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Trong khi đó, người nông dân có vai trò là chủ thể tham gia thực hiện và hưởng thụ các thành quả do Chương trình mang lại. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai xây dựng NTM của nhiều địa phương lại có tình trạng mâu thuẫn giữa “hai vai” này một cách rõ rệt. Diễn đạt một cách khác là tình trạng “nhầm vai” đã, đang và có lẽ sẽ tiếp tục tiếp diễn nếu không được “phân định” rõ ràng về vị trí, vai trò của chính quyền và người dân (chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo lại lấn sân sang chủ thể tham gia thực hiện và thụ hưởng), khiến cho nông dân - những người cần phải trực tiếp tham gia và thụ hưởng thành quả - còn “đứng ngoài cuộc”: quyền được biết, được bàn, được tham gia, được quyết định, được giám sát, được hưởng thụ… chưa được thể hiện một cách đầy đủ và vô hình chung trở thành “khán giả” trong tiến trình xây dựng NTM.

Không phải ngẫu nhiên mà, theo số liệu thực chứng từ điều tra của chúng tôi, chỉ có 49,2% số cán bộ được hỏi cho rằng “chủ thể của NTM chính là người nông dân”, 29,9% cho rằng “Đảng và chính quyền địa phương” (xem bảng 4). Trong khi đó, cũng cùng câu hỏi “Trong tiến trình xây dựng NTM, ai đóng vai trò chủ thể?” thì đối tượng là người nông dân cũng nhận thức khá mơ hồ:  chỉ có 42,1% người nông dân cho rằng “chủ thể của tiến trình xây dựng NTM là người nông dân”, 38,9% cho rằng chủ thể chính là “Đảng và chính quyền địa phương”, chủ thể là “hội nông dân” (2,9 %), “các tổ chức chính trị - xã hội” (8,1%), “các nhà đầu từ nước ngoài” (1,1%), 6,9% cho rằng là của “ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn” (xem bảng 5). Chỉ báo này thể hiện: có thể là sự “lấn sân”, bao biện, “đóng thay vai” của Nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng trong thực thi NTM; có thể là công tác vận động, tuyên truyền để người dân hiểu về vai trò và vị thế, quyền lợi và nghĩa vụ của người nông dân trong xây dựng NTM chưa thật sự tốt; cũng có thể là những lực lượng chính trị - xã hội khác (tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, các HTX, doanh nhân, các tổ chức tình nguyện,…) chưa tham gia một cách nhiệt tình và trở thành một hợp lực trong xây dựng NTM.

Xét về bản chất, đây chính là chỉ báo nói lên sự mâu thuẫn giữa vai trò của các chủ thể trong xây dựng NTM hiện nay ở vùng DHNTB, mâu thuẫn này, ở một giác độ nào đó mà nói là nguyên nhân dẫn đến sự trì tệ, tâm lý trông chờ, ỷ lại hay đùn đẩy trách nhiệm giữa các chủ thể trong tiến trình thực thi NTM hiện nay. Do đó, cần phải có cơ chế phối hợp, kết hợp và gắn kết trách nhiệm, vai trò, vị trí giữa Nhà nước, nông dân và các lực lượng xã hội. Đặc biệt, cần phải phát huy tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo và sự tham gia nhiệt tình, có trách nhiệm của người nông dân trong xây dựng NTM; cần tạo cơ chế để các nguồn lực xã hội khác tham gia vào xây dựng NTM theo phương thức xã hội hóa, từ đó tạo một sức mạnh hợp nhất giữa Nhà nước, nông dân và xã hội cho công cuộc xây dựng NTM.

Mâu thuẫn giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện NTM . Trong xây dựng NTM, một mặt cần phải phát huy nhân tố “bàn tay vô hình” của thị trường nhưng mặt khác cần phải chú trọng “bàn tay hữu hình” của Nhà nước trong điều hành, quản lý, phân phối các nguồn lực xã hội, tổ chức và huy động được nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực vào xây dựng nông thôn. Sự thành công (hay thất bại) của tiến trình xây dựng NTM phụ thuộc rất nhiều vào việc phát huy tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế thị trường và điều tiên quyết là sự kết hợp nhịp nhàng giữa “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Nếu thiếu đi sự định hướng chỉ đạo của Nhà nước hoặc ngược lại, Nhà nước “lấn sân” hay thay thế thị trường, đều ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng và phát triển NTM. Khi hỏi về “Vấn đề lo lắng nhất của ông (bà) khi xã nhà tiến hành xây dựng nông thôn mới là gì?thì có đến 35,1% số người được hỏi là nông dân và 41,6% cán bộ cho rằng đó là “vấn đề thu nhập của cá nhân và gia đình không được cải thiện” (xem bảng 9).

Đối với người nông dân, tình trạng “được mùa mất giá”, “mất mùa ngay trong kho”, “làm thì dễ bán thì khó” luôn hiện hữu trong sự lo lắng đó của họ. Do đó, lúc này, người nông dân rất cần “bàn tay hữu hình” của Nhà nước và các tổ chức doanh nghiệp với vai trò là “bà đỡ” cho các sản phẩm nông nghiệp do chính họ làm ra. Rõ ràng, xây dựng NTM mà người nông dân không nhận thấy được cái “mới”, không nhận được sự thay đổi về đời sống nói chung, về thu nhập nói riêng thì không thể nói đã đạt được “mục tiêu” hay “hoàn thành tiêu chí”. Kết quả phỏng vấn sâu nông dân cho thấy, “đầu ra” là hai chữ được nông dân nhắc nhiều nhất và cũng là trăn trở lớn nhất.

Do đó, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần sử dụng “bàn tay hữu hình” để giải quyết bài toán “đầu ra” cho nông dân. Thiết nghĩ, cần cung cấp thông tin chính xác, khả tín, khả dụng về thị trường nông sản; xúc tiến xây dựng mô hình tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông dân như: đầu mối thu mua nông sản, chợ nông sản, cửa hàng nông sản trực tuyến, nông sản lên mạng,… để nông sản không còn đứng ở đầu đường đợi người mua hay phải “bán đổ bán tháo” như hiện nay, và như vậy cũng giải quyết được mâu thuẫn đã và đang tồn tại, phát sinh trong xây dựng NTM ở khu vực DHNTB giữa “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình”.

Mâu thuẫn giữa “phần mềm” và “phần cứng” trong xây dựng, thực thi các chỉ tiêu, tiêu chí NTM . Trong 19 tiêu chí xây dựng NTM, có thể chia thành các “tiêu chí cứng”, như quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi, điện, trường học, CSVC văn hóa, chợ, bưu điện, nhà ở,…) và các “tiêu chí mềm” (thu nhập, lao động việc làm, hình thức tổ chức sản xuất, ANTT xã hội,…). Thực tế nhiều địa phương ở khu vực DHNTB cho thấy, thực hiện các “tiêu chí cứng” có “tính trội” hơn so với các “tiêu chí mềm”. Nói cách khác, chính quyền các địa phương chú trọng nhiều vào lập đề án quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng (đường giao thông, thủy lợi, nước sạch, trường học,…) mà ít (hoặc chưa) chú trọng đến các “tiêu chí mềm” như thu nhập, việc làm cho nông dân, yếu tố văn hóa nông thôn,… Điều này thể hiện rất rõ trong các báo cáo tham luận của các tỉnh trong Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM ở khu vực cũng như trên toàn quốc. Không phải ngẫu nhiên mà tỷ lệ xã đạt các tiêu chí về quy hoạch, điện, bưu điện cao hơn nhiều so với tiêu chí về thu nhập, môi trường, CSVC văn hóa (xem bảng 7).

Thực tế trong triển khai thực thi xây dựng NTM ở vùng DHNTB cho thấy, những “tiêu chí cứng” được các địa phương quan tâm đầu tư, xúc tiến thực hiện và đạt được những thành quả cao hơn so với các “tiêu chí mềm”. Khi được hỏi về đánh giá sự thay đổi của các phương diện (theo 19 tiêu chí) ở địa phương trong 3 năm qua khi thực hiện NTM (với mức điểm 1 là thay đổi lớn nhất, 5 là ít thay đổi nhất) thì tiêu chí về “điện”, “giao thông”, “trường học”  có mức độ đánh giá tích cực (người dân và cả cán bộ); các tiêu chí mềm như “hình thức tổ chức sản xuất”, “lao động có việc làm thường xuyên”, “môi trường”, “thu nhập” có mức đánh giá tiêu cực và ít chuyển biến hơn (xem số liệu bảng 8). Nói cách khác, các chỉ báo từ số liệu thực chứng cho thấy, các lĩnh vực như “lao động có việc làm thường xuyên”, “hình thức tổ chức sản xuất”, “thu nhập” chưa có chuyển biến nhiều.

Rõ ràng, “tiêu chí mềm” là các tiêu chí thật sự khó thực hiện bởi nó liên quan đến nhiều yếu tố và đòi hỏi phải có một thời gian nhất định, quyết tâm lớn mới đạt được (thậm chí đạt được mà không “giữ” thì cũng sẽ bị “mất”), thế nhưng điều mà người dân cần hơn cả chính là vấn đề thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đổi mới phương thức tổ chức sản xuất và thương mại hóa sản phẩm nông nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới, cần nhấn mạnh đến các “tiêu chí mềm” nhiều hơn. Để đạt được điều này, cần có thái độ và trách nhiệm đúng đắn của các cấp ủy, chính quyền, các BCĐ NTM các cấp; tăng cường xây dựng lộ trình và hướng đến các tiêu chí “mềm”; xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về thị trường nông sản, về kỹ thuật, tài chính,…; từng bước hướng đến bảo đảm các vấn đề y tế, giáo dục, đói nghèo và bảo đảm xã hội; có kế hoạch nâng cao trình độ cho nông dân về các mặt kỹ năng, văn hóa, lối sống, lý tưởng, pháp luật.

Mâu thuẫn trong nhận thức giữa tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cơ sở và nhân dân và trong nội tại của các chủ thể này. Tổ chức cơ sở đảng có một vị trí hết sức to lớn trong tiến trình xây dựng NTM[2], vừa đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, vừa là nhân tố thúc đẩy tiến trình thực hiện NTM; chính quyền cơ sở (đặc biệt là chính quyền cấp xã) là nhân tố chính yếu triển khai thực hiện chương trình, là một nhân tố quyết định đến chất lượng, nội dung, tiến độ của tiến trình NTM cơ sở; hơn ai hết, nhân dân mà cụ thể là người nông dân với địa vị là chủ thể, có vai trò động lực cũng là người được thụ hưởng những thành quả từ Chương trình. Thế nhưng, trong quá trình triển khai thực hiện NTM, đã và đang phát sinh nhiều tình huống “nhầm vai”, nhận thức chưa đúng, chưa đủ, thậm chí nhiều nơi có hiện tượng xung đột vai trò giữa các chủ thể.

Mâu thuẫn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà trong đó chủ yếu do các phương diện: Thứ nhất, trình độ, năng lực nói chung, nhận thức về ý nghĩa, mục tiêu, nội dung của NTM của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Báo cáo Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM của BCĐ Trung ương đã chỉ ra: “Ở một số địa phương cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và chưa chủ động triển khai thực hiện các nội dung của Chương trình nên kết quả đạt được ở mức thấp. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ các đoàn thể quần chúng chưa đáp ứng yêu cầu của xây dựng nông thôn mới”. Thứ hai, còn có tình trạng thiếu dân chủ trong triển khai thực hiện, thiếu minh bạch trong công khai các khoản tài chính mà người dân đóng góp, sự áp đặt và cào bằng các khoản đóng góp còn diễn ra. Chính lẽ đó mà khi được hỏi về những lo lắng khi địa phương tiến hành xây dựng NTM thì những người được hỏi là người nông dân không ngần ngại chỉ ra các “bệnh hình thức” (38,3%), “bệnh thành tích” (41,5%), “bệnh phong trào” (31,3%), vấn đề tham ô, tham nhũng (30,6%) và đời sống của chính bà con không được cải thiện (34,9%)[3]. Thứ ba, ý thức “vì nhân dân phục vụ” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được quán triệt tốt, nếu không muốn nói là còn kém. Nhiều cán bộ cơ sở còn tỏ ra cửa quyền, mệnh lệnh hành chính khi thực thi các nhiệm vụ liên quan đến Chương trình  NTM. Trong công tác tuyên truyền, vận động, kêu gọi nhân dân thì xề xòa, làm cho qua chuyện. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều ý kiến của bà con nông dân cho rằng, muốn xây dựng NTM thì trước hết “đội ngũ cán bộ phải được thay mới” (11,6%) [4]. Khái niệm “thay mới” ở đây chưa phải là thay cán bộ mới mà chính là cung cách làm việc, tư duy của cán bộ phải được đổi mới [5]. Thứ tư, năng lực, trình độ hiểu biết về pháp luật để tham gia vào quá trình tham vấn ở nông thôn của người dân còn nhiều bất cập. Khi phân tích những khó khăn, tồn tại khi thực hiện NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cũng đã chỉ ra rằng: “Vai trò chủ thể, trách nhiệm của nông dân trong xây dựng nông thôn mới chưa được phát huy đầy đủ. Đa phần nông dân chưa được chuẩn bị năng lực và chưa tạo điều kiện cần thiết để đảm trách vai trò chủ thể[6]. Thứ năm, tố chất của người dân nói chung, của cư dân nông thôn nói riêng còn nhiều bất cập và hạn chế, dẫn đến mâu thuẫn với vai trò chủ thể của chính người dân. Trình độ dân trí thấp, ý thức về pháp luật, môi trường, hưởng thụ văn hóa,.... còn hạn chế thì khó lòng trở thành và “đóng vai” chủ thể trong tiến trình xây dựng NTM.

Do đó, thiết nghĩ muốn đẩy nhanh tiến độ thực thi NTM trên địa bàn DHNTB thì cần nhận thấy rõ được những mâu thuẫn nói trên, đặc biệt là mâu thuẫn nội tại trong từng chủ thể cũng như từ ba “trụ cột” then chốt là tổ chức cơ sở đảng (vai trò lãnh đạo, chỉ đạo), chính quyền cơ sở (vai trò quản lý, định hướng, điều hành) và nhân dân (cư dân nông thôn với vai trò chủ thể). Muốn vậy, cần phải từng bước cải thiện phương thức quản lý theo kiểu hành chính, quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh sang kiểu phục vụ, lấy lợi ích chính đáng của người nông dân làm mục tiêu, cải thiện quan hệ giữa chính quyền với nhân dân, từng bước khơi dậy niềm tin và nhận được sự đồng tình, thống nhất cao của nhân dân nói chung, của người nông dân nói riêng về công cuộc xây dựng NTM của Đảng và Nhà nước ta.

Mâu thuẫn giữa nhu cầu nhân lực cho xây dựng NTM với vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực (trẻ, có tay nghề, kỹ năng, tâm huyết với nông nghiệp và gắn bó với nông thôn) do lực lượng này di cư đến các khu đô thị tìm việc và sinh sống. Theo quan sát của chúng tôi, phần lớn lực lượng lao động trẻ ở nông thôn trong Vùng di cư đến các đô thị lớn để tìm sinh kế, một phần là để nâng cao thu nhập cho bản thân, một phần muốn “ly hương và ly nông”. Đúng như nhận định của một cán bộ: “Hiện chúng tôi cũng đau đầu về nguồn lao động trẻ, có tay nghề ở nông thôn, phần lớn trong số này đã đến các thành phố tìm việc và mưu sinh. Nói thật, hiện ra đường chỉ toàn gặp người già và trẻ em. Anh em còn nói đùa, bây chừ chết tìm người khiêng quan tài cũng khó chứ đừng nói chi đến việc khác,...[7].

Quan sát thực tế nhiều tỉnh trong Vùng cho thấy, nhiều ruộng vườn bỏ hoang, nhiều “ruộng mật, bờ xôi” trước đây giờ phải chuyển đổi trồng các loại cây khác như rau diếp cá (Quảng Ngãi); nhiều nơi huy động nguồn nhân lực để xây dựng CSHT cũng hết sức khó khăn. Không dừng lại ở đó, nhiều cặp vợ chồng trẻ phải “ly thân” đi làm ăn xa ở hai nơi khác nhau tạo nên nhiều vấn đề xã hội: tình cảm gia đình rạn nứt, con cái thiếu sự chăm sóc, giáo dục của bố mẹ,... Chính những điều này ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng NTM nói chung, nếu không muốn nói là một lực cản, một mâu thuẫn cần được nhìn nhận và có giải pháp khắc phục trong thời gian đến



[1] Xem: Phạm Đi, Giải quyết tốt các mối quan hệ trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí cộng sản. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Viet-nam-tren-duong-doi-moi/2014/29088/Giai-quyet-tot-cac-moi-quan-he-trong-tien-trinh-xay-dung.aspx

[2] Xem: Phạm Đi, Phát huy vai trò, năng lực của tổ chức cơ sở đảng trong xây dựng nông thôn mới. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2013/22636/Phat-huy-vai-tro-nang-luc-cua-to-chuc-co-so-dang.aspx

[3] Xem Phụ lục 17.

[4] Xem Phụ lục 18.

[5] Trong Báo cáo Trung ương, cũng đã chỉ ra rằng, một trong những tồn tại, hạn chế trong 3 năm triển khai thực hiện nông thôn mới chính là “Việc chỉ đạo PTSX ở nhiều nơi còn lúng túng trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng hóa tập trung”.

[6] Xem Báo cáo Vùng (phần Báo cáo tham luận của tỉnh Quảng Nam)

[7] Phỏng vấn sâu ( Nam, 54 tuổi, tồ giúp việc BCĐ NTM cấp xã),  Quảng Ngãi.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

PHẦN TẦNG XÃ HỘI: NỘI DUNG, BẢN CHẤT, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH

CƠ CẤU DÂN SỐ THEO GIỚI TÍNH, ĐỘ TUỔI VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ