TIỀN GIẢ, NỖI LO THẬT
Thời gian gần đây, lực lượng công
an đã phát hiện nhiều vụ làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả lớn. Thực tế có không
ít người là nạn nhân của tiền giả: có những người buôn thúng, bán bưng, sau một
ngày là trắng tay vì nhận phải tiền giả… Tiền giả đang trở thành mối lo ngại của
nhiều người dân.
Theo Ngân hàng Nhà nước tỉnh vĩnh
Long trong bốn tháng đầu năm 2003, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
trên địa bàn tỉnh đã phát hiện và thu giữ trên 82 triệu đồng tiền giả. Vừa qua,
Quảng Nam đã truy tố 17 bị can tàng trữ và tiêu thụ tiền giả với số lượng tiền
lớn (435 triệu đồng mệnh giá 50.000; 1 tỷ đồng mệnh giá 100.000). Việc phát hiện
và xử lý những hành vi làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả trong thời gian qua của
các cơ quan đã đẩy lùi một phần đáng kể vấn nạn này. Tuy nhiên để ngăn chặn triệt
để và có hiệu quả hơn nữa, cần phải có sự phối hợp thật nhịp nhàng giữa các cơ
quan hữu quan, trong đó không thể thiếu sự tham gia của người dân. Do đó, chúng
tôi xin góp một số ý kiến để sớm ngăn chặn hiện trạng này.
Vừa qua Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước đã có những biện pháp tích cực về việc chống lưu hành tiền giả trong hệ
thống tiền tệ Việt Nam như: Ngân hàng Nhà nước đã cho in catalogue nhằm giới
thiệu các đặc điểm kỹ thuật của đồng Việt Nam đang lưu hành; các phương tiện
truyền thông đại chúng cũng đã phổ biến những đặc điểm của đồng tiền giả… Tuy
nhiên, những việc làm đó là cần nhưng chưa đủ để ngăn chặn, triệt tiêu tiền giả.
Vấn đề cấp thiết hơn là hiện nay không ít người dân chưa tiếp cận được những
thông tin về “đặc điểm của đồng tiền thật và cách nhận dạng đồng tiền giả”; việc
thông báo hình như ở tầm “vi mô” và quá chung chung, mơ hồ. Đó là chưa nói đến
bọn xấu lợi dụng đưa ra những thông tin sai lệch càng làm cho người dân lúng
túng; Nhà nước khó quản lý, việc lưu thông hàng hóa bị ảnh hưởng… Bằng chứng là
hiện nay, một số người dân (thậm chí cả các cửa hàng lớn) không nhận tờ mệnh
giá 50.000 khi thấy “khang khác”, mặc dù họ không xác định đó là tiền giả (?!).
Rõ ràng trách nhiệm chống “hàng
giả” của loại hàng hóa đặc biệt này là cơ quan được quyền in, phát hành tiền tệ
và các cơ quan hữu quan. Sẽ không giải quyết được vấn đề nếu sự “hợp tác phòng
chống” của người dân chưa cao, người dân còn mập mờ trong việc phân biệt tiền
thật-giả. Để giải quyết vấn đề trên chúng tôi nghĩ phải thực hiện đồng bộ những
giải pháp sau đây:
Biện pháp trước mắt là đưa những
thông tin về các đặc điểm của đồng tiền thật và cách nhận dạng đồng tiền giả về
từng phường, khu phố, từ đây có thể phổ biến đến từng người dân. Đối với khu vực
nông thôn thì đưa đến các trang trại, hợp tác xã, tổ tự quản…; cũng có thể phổ
biến trong trường học, công sở. Khuyến khích người dân cùng tham gia chống tiền
giả; nhanh chóng ngăn chặn và thu hồi những loại tiền giả đó. Có biện pháp, chế
tài mạnh hơn đối với tội danh sản xuất, tàng trữ, lưu hành tiền giả (chứ không
dừng lại ở mức “ba tháng đến ba năm”) (Bộ luật Hình sự năm 1999, điều 180, tội
danh tiền giả). Cần nghiên cứu cách xử lý để tránh tình trạng người dân nhận được
tiền giả lại tìm cách “tiêu thụ”. Điều này sẽ gây khó khăn trong quản lý, dễ tạo
vòng luẫn quẫn, bọn xấu dễ lợi dụng. Các phương tiện thanh toán nên hạn chế
dùng tiền mặt, nên tạo thói quen sử dụng séc cá nhân, thẻ tín dụng. Ngân hàng
Nhà nước nên tổ chức thu hồi dần những đồng tiền ô bẩn, nhàu nát, cũ; tạo sự “thuần
chủng” trong từng loại mệnh giá. Những biện pháp trên sẽ góp phần giúp người
dân nắm bắt những thông tin cần thiết, tạo sự hiểu biết nhất định nào đó trong
việc phát hiện và xử lý tiền giả; tạo sự an tâm cho người dân và như vậy sẽ dần
đẩy lùi nạn tiền giả; ổn định việc lưu thông hàng hóa, ổn định kinh tế xã hội.
Bài viết đăng trên Thời báo Tài chính Việt Nam, ngày 6/4/2003
Nhận xét
Đăng nhận xét